Sứ mệnh của nhà giáo
-
29.11.2008 | Nguyễn Xuân Xanh
Nhà giáo bao đời, và ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, đều có sứ mệnh
thiêng liêng là dạy dỗ các thế hệ trẻ để truyền đạt kiến thức xã hội
từ đời này sang đời khác, giúp xã hội tồn tại và không ngừng phát
triển. Nhưng “dạy dỗ” bao hàm nhiều ý nghĩa. Có những nhà giáo đã
dạy dỗ bằng tấm gương cao quý để học sinh học hỏi và noi theo. Hay
bằng cách gây ấn tượng mạnh sâu sắc và gieo những hạt giống tốt
trong học sinh, đánh thức và làm nẩy nở các tài năng một cách âm
thầm.

Max Karl Ernst Ludwig Planck
(1858-1947)

Albert Einstein (1879-1955)

Hermann von Helmholtz (1821-1894)

Gustav Robert Kirchhoff (1824 –1887)

Rudolf Clausius (1822-1888)

Hermann Minkowski(1864-1909)

Richard Phillips Feynman (1918 - 1988) |
Chẳng hạn như người thầy Hermann Müller của Max Planck, người khai
sáng thuyết lượng tử thế kỷ 20 mà năm 2008 là năm kỷ niệm sinh nhật
thứ 150 của ông. Chính người thầy toán này - cuối thế kỷ 19 chưa có
môn vật lý - đã gây ấn tượng mãnh mẽ lên cậu học sinh Max qua bài
giảng về định luật bảo toàn năng lượng khiến cậu ta không quên được.
Ông cảm thấy được “khích lệ bởi những giờ giảng bài tuyệt vời mà tôi
đã nhận được nhiều năm liền tại trường trung học
Maximilians-Gymnasium của thầy toán Herman Müller, một con người ở
tuổi trung niên, sắc sảo và hài hước, đã biết diễn giải ý nghĩa của
các định luật vật lý mà ông dạy cho bọn học sinh chúng tôi bằng
những thí dụ đặc sắc” như trong tự thuật khoa học của mình, lúc đó
ông đã ngoài 80 tuổi. Max Planck tiếp: “Điều không quên được đối
với tôi là sự giải thích mà thầy Müller đã dùng cho chúng tôi trong
thí dụ của thế năng của một người thợ hồ đang vận chuyển khó học một
viên đá xây dựng lên mái nhà. Công mà ông đã thực hiện không hề biến
mất; nó được tích tụ, cả mấy năm trời, cho đến ngày viên đá đó tách
ra khỏi mái nhà, và rơi lên đầu của một người khách bộ hành đi qua.”
Planck đã tiếp nhận định luật này, còn gọi là định luật cơ bản thứ
nhất trong nhiệt học, như một tin lành. Và cậu học trò kia ôm ấp
giấc mơ đi tìm những định luật phổ quát như thế trong trời đất. Một
hạt giống được đánh thức.
Chưa hết. Cũng chính Max Planck sau đó lại gặp một vì thầy thứ hai
lại khác với thầy thứ nhất. Đó là khi bước vào Đại học, trước khi
chọn ngành, Max Planck đã hỏi ý kiến một vị giáo sư khả kính của
ngành vật lý xem có nên học ngành này không. Vị này trả lời, như
Planck thuật lại “Nhưng tôi không thể quên được những lời nói của vị
giáo sư sau cùng, Ngài von Jolly, khi tôi làm một cuộc từ giã để làm
học trình cuối cùng tại Berlin, đúng ngành vật lý lý thuyết. Ông ấy
nói như thế này: “Vật lý lý thuyết, đó là một ngành rất đẹp,
nhưng hiện tại lại không có ghế giáo sư cho nó. Nhưng cơ bản nó sẽ
không đem lại cái gì mới hơn. Vì với sự khám phá nguyên lý bảo toàn
năng lượng thì tòa nhà vật lý lý thuyết đã khá hoàn chỉnh. Người ta
có thể đó đây quét ra được một hạt bụi trong một góc này hay góc kia
của tòa nhà, nhưng một điều gì mới mẻ cơ bản thì Ông sẽ không tìm
được.” Vị giáo sư đó cả quyết mà không biết rằng tòa nhà vật lý
sắp sụp đổ, và một trong những người sẽ làm cho nó sụp đổ chính là
chàng sinh viên Max Planck đang đứng trước mặt mình chỉ không đầy
một thập niên sau. May mà sinh viên Planck đã không để mình bị nản
lòng! Suýt nữa có lẽ nhân loại đã mất đi thuyết lượng tử với vô vàn
ứng dụng trong công nghiệp và cuộc sống như hôm nay thụ hưởng.
Còn Einstein thì sao? Con người vốn “nổi loạn” từ nhỏ này cũng thế,
ông gặp thầy đáng kính, như thầy văn mà ông nhớ mãi, nhưng cũng gặp
không ít những vị thầy “đáng sợ”, kỷ luật và giáo điều như nhà binh,
kiêu ngạo xem thường học sinh. Einstein sau này mới nói: “Kẻ thù lớn
nhất của chân lý là sự ngạo mạng của quyền uy” (ngay cả trong giáo
dục, khoa học). Cho nên Einstein đã bỏ ngang trường ở Munich đề một
mình đến “tị nạn học” ở Thụy Sĩ. Ở đó ông gặp một vị thầy rất khả
kính, Jost Winteler, mà ông có thể nhận làm người cha tinh thần, rất
tinh tế, biết tôn trọng và đầy tình thương yêu. Chính ông đã đem lại
niềm tin cho Einstein để tiếp tục việc học. Cám ơn ông.
Rồi lên đại học ETH ở Zürich Einstein cũng lại gặp những vị thầy “áp
đặt” làm ông cảm thấy ngột ngạt, khiến ông bỏ học nhiều giờ, trở
thành nổi danh là anh học sinh “lười biếng, cúp cua”. Nhưng đâu phải
như thế. Einstein đã trốn các vị thầy đó để được tự học cái mình
đang khao khát! Và đã học được nhiều hơn là giảng đường! Planck
không bỏ học, nhưng cũng thấy buồn tẻ và nản lòng trước các bài
giảng, đâu phải của người tầm thường, mà của những con chim đại bàng
của ngành vật lý lúc bấy giờ: H. Helmholtz và G. Kirchhoff, để cuối
cùng ông cũng rút lui về tự học ở những tác phẩm với văn phong sáng
sủa và đầy thu hút của Rudolf Clausius, người khám phá định luật cơ
bản thứ hai của nhiệt học, và tác giả của khái niệm entropy.
Thầy Minkowski của Einstein cũng đâu phải là người tầm thường, ông
là một ngôi sao sáng chói của toán học. Nhưng Einstein đâu được thỏa
mãn. Giấc mơ tri thức thầm kính của ông có lẽ không ai hiểu để tiếp
sức, để rồi ông phải tự đi tìm con đường riêng chinh phục thế giới.
Chỉ vài năm sau, người thầy Minkowski phải giật mình không hiểu nổi
tại sao cậu sinh viên lười biếng kia lại có được công trình nghiên
cứu tuyệt vời về thuyết tương đối như thế.
Những thí dụ trên là sự minh họa rất sinh động tính chất đôi, vâng
của “con dao hai lưỡi” của sứ mệnh dạy dỗ thiêng liêng của các người
thầy. Dạy dỗ cũng thể là “khai hoang”, nhưng cũng có thể vô tình làm
chết đi không hồi phục được những hạt giống quý của quốc gia, “cắt
cỏ” nhưng cũng có thể cắt bỏ luôn một cách oan nghiệt những mầm non
mới chớm nở. Nhà vật lý học giải Nobel nổi tiếng của Mỹ R. Feynman
đã nói về giáo dục: “Giáo dục là một sức mạnh, cho cả thiện và ác”.
Comenius, một nhà sư phạm nổi tiếng của thế kỷ 17 ở châu Âu, đã nói
về con người như một tuyên ngôn: “Bản chất con người là yêu tự do,
yêu quyền tự quyết và ghét bắt buộc. Cho nên nó muốn được chỉ đường
đến chỗ phát triển chứ không muốn bị kéo đi, đẩy đi hay ép buộc”.
Học sinh cần được hướng đến các nguồn tri thức chứ không nên bị kéo
lôi. Miếng đất và không khí giáo dục phải được tạo ra sao cho màu
mỡ, sách vở cần phải có nhiều nguồn và nhiều tính sáng tạo, và phải
“xốp” để các hạt giống nảy mầm và phát triển tốt được. Học sinh phải
thở được không khí học tập dễ thở như hít thở khí trời tự nhiên, các
em phải là chủ thế chứ không phải là ‘vật thể’. Mọi cách giáo dục
cứng nhắc khuôn mẫu đều làm cho miếng đất giáo dục khô cằn và chai
cứng, và không thể có được những cánh đồng bội thu. Hiểu biết, khoa
học là sinh động, không phải là cái gì đơn điệu. Hãy xem thầy
Hermann Müller của Max Planck.
Hãy là những vị thầy của tương lai, biết cái mình biết và chưa biết
trong sự khiêm tốn, và luôn luôn phấn đấu để hiểu biết, để sáng tạo,
nâng giáo dục lên thành nghệ thuật. “Kiến thức tự nó là khô cứng.
Phải có thầy giỏi và trường tốt để làm sống nó lại” như Einstein
nói. Học sinh không phải học để biết quá khứ hay hiện tại. Mà các em
phải học để có khả năng biết được tương lai và tự hoạch định cho
mình! Mọi con đường dẫn đến khoa học, đến chân lý do đó không thể
đóng kín mà phải được mở ra. Trong hướng đó chúng ta tìm thấy ý
nghĩa của sứ mệnh cao cả và thiêng liêng của nhà giáo.
Cuối cùng nhưng không phải thứ yếu: nhà giáo theo nghĩa rộng không
phải chỉ có vai trò khi họ đứng lớp, mà họ còn có vai trò khi họ để
lại những tác phẩm hay: sách vở. Những nhà khoa học vĩ đại bao giờ
cũng là những con người tự học, và tìm đến các tác phẩm hay của
những vị thầy trí tuệ, dù có lên lớp hay không. Đó chính là mái
trường thứ hai rộng mở vươn đến tương lai cực kỳ quan trọng trong
việc phát triển trí tuệ của con người./.
19.11.2008
Đã đăng trên Tuổi Trẻ Online |