Để có lớp trí thức xứng đáng
-
7.12.2008 |
Gs. Hoàng Tụy
Thời thế tạo
anh hùng thì cũng thời thế, cơ chế tạo ra phẩm chất người trí
thức. Nói rõ hơn là hoàn cảnh chính trị xã hội, là bản lĩnh, tài
năng các nhà lãnh đạo quốc gia, và một phần chính yếu, là môi
trường giáo dục đương thời. Cho nên tôi rất tán thành hãy bắt
đầu bằng vấn đề giáo dục để bàn chuyện xây dựng lớp trí thức
mới.
Về triết lý giáo dục
Sau nhiều năm Phần Lan nổi lên với những thành tựu kinh tế, khoa
học, công nghệ làm cả thế giới khâm phục, người ta phát hiện ra
cái gốc của sự thịnh vượng ấy là giáo dục. Ba phần tư thế kỷ qua,
nước Mỹ đã chiếm vị trí số một trên hầu hết mọi lĩnh vực khoa học,
công nghệ then chốt. Nếu nói trí thức là nói tài năng thì không
đâu tài năng nở rộ nhiều như ở Mỹ. Nhiều người chúng ta bất bình,
phẫn nộ chính đáng với một số chính sách nước lớn có khi quá tàn
bạo của giới cầm quyền Mỹ, song vẫn chưa bao giờ hết ngưỡng mộ trí
tuệ và tài năng của trí thức Mỹ mà những mầm mống thịnh vượng đã
nảy nở từ những đại học đầu tiên khi Mỹ mới lập quốc. Đọc thư của
Tổng thống Pháp gửi các nhà giáo Pháp, đọc bài diễn văn nhậm chức
của bà Chủ Tịch ĐH Harvard, càng thấy rõ vấn đề trí thức nói cho
cùng là vấn đề giáo dục. Nước Pháp muốn khôi phục truyền thống văn
hóa rạng rỡ của mình từ Thế kỷ Ánh sáng, nước Mỹ muốn tiếp tục dẫn
đầu trong thế kỷ văn minh trí tuệ, đều thấy cần dựa vào trụ cột
giáo dục. Mà trong giáo dục thì quan trọng trước hết là tư duy cơ
bản về giáo dục, tức là triết lý giáo dục, đương lối giáo dục.
Khi góp ý kiến về chính sách
trí thức cách đây không lâu tôi có đề nghị không nên đi sâu
phân tích các yếu kém khuyết điểm của trí thức đang làm hạn
chế sự đóng góp của họ vào công cuộc chấn hưng đất nước, mà
nên suy nghĩ xem vì đâu dân tộc VN vốn thông minh không kém
nhiều dân tộc khác, mà chí khí kiên cường càng không nhường
ai, lại chưa có được một tầng lớp trí thức xứng đáng với dân
tộc?
|
Nhìn lại lịch sử hình thành lớp trí thức VN qua các thế hệ, tôi
vẫn băn khoăn một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, hình
như chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng, trí tuệ
và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30-45 thế kỷ
trước– thời kỳ Tự lực Văn đoàn, trào lưu Thơ mới, có các nhạc sĩ
Văn Cao, Đặng Thế Phong, có các nhà khoa học, giáo dục hiện đại
Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn
Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Trần
Đức Thảo, có những nhà hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Phan Thanh... Hầu hết những trí thức này đều học
trường Pháp ra, mà sao tinh thần dân tộc rất cao và năm 1945 tuyệt
đại bộ phận họ đều đi theo cách mạng để chống lại thực dân Pháp.
Điều đó tựa hồ mâu thuẫn với quan niệm phổ biến xưa nay là nhà
trường thực dân chỉ cốt đào tạo ra những người làm tay sai cho
thực dân.
Trong khi đó, các thế hệ trí thức được đào tạo sau này ở Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa cũ một cách bài bản, lớn lên trong
nền giáo dục thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp, hằng
ngày được gián tiếp hay trực tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, ghét bóc lột, xả thân vì dân
vì nước... mà sao có vẻ như phẩm chất không được như ta kỳ vọng.
Dường như có cái gì không thật, có cái gì chưa ổn lắm, cho nên gặp
hoàn cảnh không thuận lợi thì bộc lộ nhiều nhược điểm. Chúng ta có
biêt bao tiến sĩ, giáo sư và gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ
(chức danh này chưa có ở VN, nhưng nếu muốn trưng ra thì cả nước
hiện nay cũng có thể trưng ra cả nghìn viện sĩ kiểu này chứ không
ít), rồi lại có cả những “bộ óc vĩ đại thế kỷ 21”, nhiều nhân vật
trí thức xuất chúng đến nỗi đang có kế hoạch phải dành 25 hecta
đất vào thời buổi đất quý hơn vàng, để xây một Văn Miếu hiện đại
mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiều bậc đại trí. Thế nhưng có ai dám
chắc cái gia tài trí thức lớn ấy sau này sẽ được con cháu hoan
nghênh khi đất nước đến hồi hưng thịnh?
Đó là
cái nghịch lý cần phân tích và lý giải khi bàn về giáo dục và đào
tạo.
Riêng tôi nghĩ rằng nền giáo dục, văn hóa Pháp mà thế hệ trí thức
tiền bối 30-45 đã được hưởng thật sự là một nền giáo dục tiên tiến
thời đó. Cái phần thực dân trong nền giáo dục ấy chỉ là cái vỏ
ngoài do bọn thực dân áp đặt ở thuôc địa mà cũng chỉ có tác dụng
rất hạn chế, còn cái phần nhân văn, cái phần văn hóa cơ bản, cái
phần thật sự là tinh túy trong triết lý giáo dục của nó thời đó
thì ai tiếp thu được đều tốt cho họ, cho đất nước họ, cho nhân dân
họ, không cứ là cho người Pháp, cho nước Pháp. Có lẽ chính vì nhìn
thấy điều ấy mà Phan Chu Trinh đã sáng suốt đề ra: hưng dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh. Giờ đây khi mà văn hóa, giáo dục
đã lệch pha quá xa với kinh tế, đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ
nghiêm túc vê đường lối, triết lý giáo dục, chứ không phải chỉ bàn
chuyện nay hai không, mai năm không, v.v... Những việc này cũng
cần làm để khởi động dạo đầu cho công cuộc cải cách, nhưng sa đà
vào đó mà quên đi cái cốt lõi sẽ có tác dụng ngược lại.
Không
thể máy móc vơ đũa cả nắm, nhưng có một sự thật là dường như
phần lớn những cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây đều thiếu căn bản về văn hóa phổ quát. Tư
duy của họ chỉ phát triển theo một đường ray mà hễ ai trật ra là
nguy hiểm. Cho nên trừ những trường hợp hãn hữu, họ thường chỉ là
những chuyên viên kỹ thuật được trang bị một số vốn kiến thức kỹ
thuật, chuyên môn hẹp nào đó, ở thời đó, và cũng rất mau lạc hậu,
nhưng thiếu một nhãn quan rộng, thiếu một tầm nhìn ra ngoài ngành
nghề hẹp của mình, cho nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển
chuyên môn, và càng bị hạn chế đứng trước những vấn đề xã hội, văn
hóa không thuộc phạm vi chuyên môn hẹp của mình. Mỗi người chỉ
biết việc của mình, chỉ lo cho mình, ít khả năng và cũng không
thích thú hợp tác với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch
ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy
văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày
càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa
nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo
danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh
thời đại của trí thức VN. Chưa bao giờ trong xã hội ta có
nhiều Xuân Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi quan, nhưng thà
nhìn khắt khe môt chút để biết người biết ta, còn hơn nhắm mắt chủ
quan một cách lố bịch.
Những sai
lầm làm tha hóa giáo dục.
Trở lại
vấn đề giáo dục hiện nay của ta, điều tôi lo lằng nhất là sự tha hóa
trầm trọng của nó. Nói khủng hoảng nhưng nét chính của khủng hoảng
ấy là sự tha hóa, biến chất. Giáo dục có nguy cơ trở thành phản giáo
dục. Có nhiều nguyên nhân nhưng trực tiếp làm tha hóa giáo dục có ba
sai lầm lớn mà tôi gọi là sai lầm hệ thống trong quản lý
giáo dục.
Có thể nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian
dối, tiêu cực, dối trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào
xương tủy của giáo dục mà không một phong trào “nói không” nào
có thể chữa trị được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới sai
lầm trong chính sách đối với người thầy.
|
1. Chính
sách đối với người thầy.
Đó là sai lầm đầu tiên và tai hại nhất do quan niệm lệch lạc về sứ
mạng và vai trò người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Phản ứng lại
tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán cho thầy quyền uy tuyệt đối,
biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ
động, là đúng. Nhưng từ đó đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại,
phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục. Với
cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh một
chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách giáo
khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất lượng đại học
thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v... dẫn đến hoàn
toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực
chuyên môn và đạo đức hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử
dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng phạm sai lầm lớn. Đặc
biệt tệ hại là chính sách lương. Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh
nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả lương cho thầy cô
giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là
do tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các thầy cô
“tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm, đến
nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thể
nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối, tiêu
cực, dối trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào xương tủy của giáo
dục mà không một phong trào “nói không” nào có thể chữa trị được đều
có nguồn gốc sâu xa liên quan tới cái lỗi hệ thống cơ bản này.
2. Tập trung
tất cả việc dạy và học vào thi cử,
nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học
phần để bảo đảm kết quả học tập vững chắc và thực chất thì dồn hết
cố gắng vào các kỳ thi tốt nghiệp, thi “quốc gia” nặng nề, căng
thẳng, rất hình thức mà thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi
rất đặc biệt của giáo dục VN: gần thi mới lo học, học đối phó, học
nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi cái gì học cái nấy, thi thế nào học
thế ấy, chủ yếu là học thuộc lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu.
Trước đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay bộ đề thi biến tướng thành
các bảng “cấu trúc đề thi”. Nghĩa là tư duy có thay đổi gì đâu, hai
mươi năm trời, tốn bao công nghiên cứu, cuối cùng trở lại gần như
điểm xuất phát, dưới một hình thức có vẻ mới để che dấu một phương
pháp cổ lỗ. Lại còn chuyện thi trắc nghiệm, thi tự luận. Người ta
thi trắc nghiệm với một mục đích khác, ta không nghiên cứu kỹ, đưa
ra áp dụng đại trà vào thi tốt nghiệp THPT trong khi trình độ chuyên
nghiệp về kiểu thi này còn chưa bảo đảm, cho nên gây tốn kém và làm
khổ cả học sinh lẫn thầy giáo. Rồi đùng một cái cấm các trường không
được áp dụng hình thức trắc nghiệm khi thi học kỳ, làm cả thầy và
trò hoang mang, không hiểu giáo dục là cái gì mà có thể quản lý tùy
tiện như thế. Đem việc học phụ thuộc vào việc thi, khiến thi chứ
không phải học trở thành hoạt động giáo dục chủ yếu, đến mức muốn
hiểu thực chất giáo dục VN như thế nào chỉ cần quan sát hoạt động
của nhà trường và xã hội trong mùa thi. Từ kiểu thi nhiêu khê
đẻ ra những dich vụ kỳ lạ hiếm thấy: kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê,
viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng học giả, v.v... Cho
nên chừng nào còn duy trì kiểu học và thi này thì xã hội còn phải
trả giá nặng nề cho sự tụt hậu của giáo dục. Chưa kể nếu tính hết
mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi thì lãng
phí lên tới con số khủng khiếp, bình thường đã khó chấp nhận, với
tình hình kinh tế khó khăn như lúc này càng khó chấp nhận hơn. Nhiều
nước như Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ nhàng hơn ta mà họ đã
phê phán cái “địa ngục thi cử” của họ, còn thi cử như ta không biết
phải gọi là cái địa ngục gì.
3.
Chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng,
bất chấp mọi
chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm
quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và không cạnh tranh nổi ngay
với các nước trong khu vực. Đây chính là bệnh thành tích, chứ không
là gì khác. Phát triển số lượng thì dễ, nhất là khi người dân còn
khát học tập như trong xã hội ta. Chỉ đảm bảo chất lượng mới khó,
vậy nên cứ chọn cái dễ mà làm, dễ gây ấn tượng, dễ báo cáo thành
tích. Trên đã vậy thì làm sao chống được bệnh thành tích ở dưới.
Trong hoàn cảnh ấy mà có người còn bênh vực bệnh thành tích, viện lẽ
chỉ nhấn mạnh chất lượng lúc này là xa xỉ (!), thì thật không hiểu
nổi ta muốn phát triển giáo dục và khoa học theo kiểu nào. Nguy hại
là căn bệnh này nghiêm trọng nhất ở cấp đại học và đào tạo thạc sĩ,
tiến sĩ, tuyển chọn, công nhận GS, PGS. Trong thời đại toàn cầu hóa,
muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và tôn trọng luật chơi,
trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thế nhưng
từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng
dạy, cho đến việc tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trình
nghiên cứu khoa hoc, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển
chọn, đánh giá GS, PGS, đánh giá các đại học... phần lớn đều không
theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác,
nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế,
thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi
dụng mưu lợi ích riêng cho từng nhóm thay vì phục vụ sự nghiệp
chung. Sự thiếu hiểu biết và coi thường các chuẩn mực quốc tế thể
hiện trong mọi chủ trương xây dựng đại học, cho đến gần đây nhất vẫn
rất chủ quan. “Điếc không sợ súng” đó là căn bệnh cố hữu của ngành
giáo dục.
Tất cả các sai
lầm hệ thống nêu trên khiến giáo dục dần dần biến chất, xuống cấp,
xa rời tất cả những giá trị cao quý còn sót lại từ quá khứ. Xu hướng
tha hóa ấy phát triển có nguy cơ đẻ ra một nền giáo dục phản giáo
dục.
Hoàng Tụy
Theo Tia Sáng. |
|


THÔNG TIN - XÂY DỰNG
|
|