Am mây ngủ
CHƯƠNG 3
Hai bên đường từ kinh sư
đến chân núi Yên Tử, những hàng thông do Thượng hoàng ra lệnh trồng
xuống từ mười năm trước đây đã lên cao và xanh tốt. Đó là lần đầu
Huyền Trân được về núi Yên Tử. Nàng có đức tin rất vững chải nơi
Thượng hoàng, cho nên nàng nghĩ rằng những lời dạy của cha sẽ rất
cần thiết cho cuộc đời của nàng sau này. May cho công chúa là lúc ấy
Trúc Lâm đại sĩ vì có Phật sự nên từ am Đỉnh Trúc trên ngọn Ngọa
Vân, đã về tới am Long Đông ở lưng chừng núi, nên nàng không phải
leo trèo nhiều. Thượng hoàng đã nói chuyện với con thật lâu bên bờ
suối. Hai cha con ngồi trên hai phiến đá đối diện nhau.
Phụ hoàng bảo Chiêm Thành không phải là một nước di dịch như nhiều
người trong nước ta lầm tưởng. Chiêm Thành có một nền văn minh khá
cổ, chịu ảnh hưởng văn hóa Tây Trúc nhiều hơn văn hóa Đông đô.
Ngài nói rằng vua Chế Mân là một thanh niên anh tuấn, có vũ dũng mà
cũng có văn học. Tuy Harijit không biết chữ Nho nhưng chàng rất
thông thạo Phạn ngữ. Ở Chiêm Thành, Phạn ngữ cũng quan trọng như chữ
Nho ở Đại Việt. Trong thời gian gần tám tháng lưu lại kinh đô Phật
thệ, ngài thấy cái nhìn của ngài về nước Chàm thay đổi hẳn. Ngài rất
yêu mến Harijit, và muốn coi chàng như vua Anh Tông con ngài.
Harijit lên ngôi từ năm Ất Dậu, và đã từng có Hoàng hậu. Đó là một
nàng công chúa xứ Qua Oa tên là Tapasi; bà đã sinh hạ được hai vị
hoàng tử, nhưng Hoàng hậu đã qua đời. Năm nay Chế Mân mới vào khoảng
bốn mươi, lớn hơn vua Anh Tông chừng mười tuổi. Dân Chàm rất thương
yêu Harijit. Thượng hoàng bảo công chúa:
- Ta tin rằng sau khi về Chàm con cũng được dân chúng thương mến như
họ đã từng thương mến Harijit. Ta có thể nói chắc với con điều đó.
Nếu con để hết tâm lực của con vào thì con có thể xây dựng thật
nhiều cho vương quốc này và tạo được mối cảm tình bền chặt giữa hai
nòi Chiêm và Việt.
Huyền Trân nhìn giòng nước đang len lỏi qua những tảng đá dưới lòng
suối và nghĩ những lời nói vừa rồi của Thượng hoàng. Lát sau, nàng
nghe Thượng hoàng gọi nàng và bảo:
- Con hãy đưa bàn tay của con lên quan sát thử xem.
Huyền Trân đưa bàn tay trái của mình lên nhìn. Cổ tay nàng nhỏ; bàn
tay nàng mịn màng và có những ngón tay thuôn dài dịu dàng như những
búp măng non. Thượng hoàng nói tiếp:
- Con hãy nhìn thật lâu và nói cho ta biết là con có nhìn thấy ta
trong bàn tay của con không?
Công chúa đột nhiên phát giác ra rằng bàn tay của nàng là do Thượng
hoàng và Thái hậu mà có và sự có mặt của bàn tay này không khác sự
có mặt của Thượng hoàng và Thái hậu. Cái thấy đến với nàng mau như
một tia chớp giật. Chưa bao giờ công chúa nhìn bàn tay mình với một
cái nhìn thấu triệt đến thế. Nàng thưa với Thượng hoàng:
- Thưa Phụ hoàng, con có nhìn thấy.
- Không những ta và mẹ con có mặt nơi bàn tay con mà cả giống nòi và
đất nước này cũng có mặt nơi bàn tay con. Con ở đâu thì ta ở đó, con
làm gì thì ta làm cái đó và dân tộc con làm cái đó. Con hãy ghi nhớ
điều này cho cẩn thận. Con về Chàm cũng như ta về Chàm, và ta trông
cậy hoàn toàn nơi con để tránh cho hai dân tộc những cuộc đao binh
sau này.
Những lời nói của Thượng hoàng làm nẩy sinh một niềm thương cảm và
một sự quyết tâm nơi lòng công chúa.
Những lời ấy cũng lại như nước mát dội vào tâm não căng thảng và
nóng bừng của nàng. Huyền Trân cảm thấy những lo âu thắc mắc của
mình đã tiêu tán; nàng tự nguyện sẽ làm hết sức mình để khỏi phụ
lòng trông đợi của cha, của anh và của cả nước. Nàng theo Thượng
hoàng vào am để lạy Phật. Nhân dịp viếng thăm này, nàng được Thượng
hoàng giới thiệu với một vị tăng sĩ trẻ tuổi là Pháp Loa. Ngài cho
biết đó là một vị đệ tử mới của ngài, và ngài bảo nàng gọi ông là sư
huynh. Nói chuyện với vị sư huynh này, Huyền Trân biết ông còn là sa
di. Ông sẽ được thọ đại giới vào ngày rằm tháng bảy sắp tới. Thượng
hoàng có vẻ yêu mến người đệ tử trẻ tuổi này lắm.
Thấm thoát mà năm Ất Tỵ sắp qua và mọi người đã chuẩn bị ăn Tết Bính
Ngọ. Cái Tết này là cái Tết quê hương cuối cùng của mình đây, Huyền
Trân nghĩ. Ngày Nguyên Đán, khi được nghe vua Anh Tông mừng tuổi,
công chúa biết là mình đã lên mười chín. Vua Anh Tông cho nàng biết
là lễ cưới sẽ được cử hành vào tháng sáu chứ không phải vào tháng
hai như đã định năm ngoái. Càng hay, nàng lại có thêm thì giờ để học
tiếng Chàm và để sống với tất cả tâm hồn từng ngày từng giờ còn lại
của cái nếp sống Đại Việt quý báu. Bẩm tính thông minh, nàng học
tiếng Chàm rất chóng. Vị giao sư người Chàm của nàng cũng là một
nhạc sư. Ông rất giỏi Phạn ngữ. Ông đã kể cho Huyền Trân nghe cổ
tích Mahabharata, trước tiên bằng tiếng Đại Việt, rồi ông lặp lại
bằng tiếng Chiêm. Ông cũng đã dạy cho công chúa hát vài bản nhạc
Chiêm Thành. Ông sử dụng một cây đàn Chiêm năm dây trong khi ông
hát. Ông cũng sử dụng ống sáo, trống và tù và. Ông có dạy cho nàng
học một số bài thơ Chàm. Ông lại cho nàng xem những tập sách Phạn
ngữ đóng bằng lá buông, trông giống như những tập kinh Phật mà nàng
đã thấy một lần ở chùa Tư Phúc.
Mồng mười tháng sáu năm ấy, phái đoàn Chiêm Thành qua để làm lễ rước
dâu. Phái đoàn này rất đông, có mang theo cờ quạt, kiệu rước, một
đoàn âm nhạc và nhiều thị nữ. Thượng hoàng có xuống núi để tiễn đưa
công chúa. Sau khi lạy Thượng hoàng, Thái hậu Tuyên Từ và vua, công
chúa lên đường. Nàng đem theo hai người hầu, Thị Khanh và Thị Ngọc.
Công chúa không đem theo người thông ngôn bởi vì tiếng Chàm của nàng
đã tạm đủ để diễn đạt ý mình. Nàng chỉ đem theo một hòm xiêm y và
một hòm sách vở, trong đó có những tập sách Phật của Thượng hoàng
biên soạn và những tạp thi, văn và sử mà thầy học nàng là Văn Huệ
Vương ban tặng.
Cuộc hành trình kéo dài hơn một tháng trời, ngày đi đêm nghỉ. Có rất
nhiều sứ quán dọc đường, trạm nào cũng có đủ những tiện nghi như bếp
núc và lửa củi, Huyền Trân nhớ có lần kiệu vượt một cái đèo cao, từ
trên nhìn xuống cảnh mây nước bao la thật hùng vĩ. Đám rước càng về
tới gần kinh đô Phật Thệ thì càng đi chậm lại bởi vì dân chúng tụ
họp hai bên đường đón tiếp rất đông. Cờ biểu được trương ra và đoàn
nhạc vừa đi vừa biểu diễn đàn, sáo, tù và và trống. May cho nàng
trong những ngày ấy trời không mưa. Bây giờ mới là tháng bảy theo
lịch Đại Việt nhưng ở đây đã là tháng tám, vào giữa mùa gặt lúa.
Trai gái làm việc giữa đồng, đông đảo. Thấy đám rước đi qua ai cũng
ngừng tay, đứng dậy để nhìn; hoặc nếu ruộng ở gần thì họ chạy lại
đứng bên đường để đón kiệu đi qua. Khi quân hầu báo là sắp tới thành
Vijaya, tức là kinh đô Phật Thệ, Thị Khánh và Thị Ngọc bắt đầu lo
việc trang điểm lại cho công chúa. Huyền Trân vừa hồi hộp mà cũng
vừa tò mò. Nàng luôn luôn nhìn ra ngoài kiệu để quan sát. Thỉnh
thoảng nàng thấy những tòa tháp lớn xây dựng trên một đỉnh đồi, kiến
trúc rất lạ. Dân chúng ăn mặc không giống như ở Đại Việt. Có rất
nhiều người mặc xiêm y bằng lụa hai ba màu trông rất đẹp. Nàng thấy
nhiều ruộng muối trắng xóa, tương tợ những ruộng muối miền Hải Dương
nhưng bao la hơn. Ruộng đồng cũng tương tợ như ruộng đồng ở Đại
Việt. Nàng thấy những con đập dẫn nước vào ruộng, và có cảm tưởng
rằng dân Chàm rất am tường về nghề nông.
Từ trong thành Vijaya, một đám rước lớn đang tiến ra để đón phái
đoàn. Một đàn voi có phủ lụa nhiều màu, trên đầu voi những người nài
đầu chít khăn đỏ chói nhưng thân hình lại ở trần. Hai bên là quân
lính đi kèm, y phục sặc sỡ. Đoàn voi dừng lại. Công chúa được rước
từ kiệu khiêng sang kiệu voi có lọng ba tầng che phủ. Nhạc nhã vang
lừng. Dân chúng đổ xô ra hai bên đường để xem, đông không biết bao
nhiêu mà kể.
Đám rước về đến nội thành thì trời đã xế trưa. Vua Chế Mân thân hành
ra đón công chúa ở trước sân điện. Con voi mang kiệu công chúa qùy
xuống, các thị nữ người Chàm đỡ công chúa ra khỏi kiệu. Ngước mắt
nhìn lên, Huyền Trân thấy cung điện nguy nga, kiến trúc lạ kỳ, xây
dựng toàn bằng đá ong và gạch nung. Trước sân điện, có hai hàng voi
đá và nghê đá. Quân sĩ đứng dàn ra hai bên để vua Chàm tiến đến.
Công chúa Huyền Trân chắp tay cúi đầu chào vua theo kiểu Đại Việt.
Vua đáp lễ. Đây là Jaya Simhavarman đệ tam, công chúa nghĩ. Chàng
cao hơn vua Anh Tông, thân hình vạm vỡ nhưng nước da hơi sậm. Vua
mặc áo lụa thêu chỉ vàng, trên đầu đội một cái mũ cao có trang trí
nhiều bông hoa làm bằng kim tuyến, trên mũ có một cái chóp bằng lụa
trắng. Một người lính hầu đứng sau che lọng cho vua. Vua quay lại
truyền thị nữ đưa công chúa vào nội điện để giải khát.
Những ngày kế tiếp là những ngày thật từng bừng của cả kinh đô
Vijaya. Không những trong cung điện mà ở khắp kinh thành thiên hạ
đều có giăng đèn kết hoa rực rỡ. Lễ đăng quang của Hoàng hậu được
toàn dân hăng hái tham gia khiến cho Huyền Trân thấy được niềm kính
ái lớn lao của dân chúng Chàm dành cho ông vua của họ. Ngày lễ đăng
quang, nàng được phong hiệu là Hoàng hậu Paramesvari. Vua truyền
dựng ngay một bia đá ở Posah để ghi lại sự kiện lịch sử này.
Suốt ba ngày ba đêm, cả nước mở hội ăn mừng. Nhã nhạc vang lừng cung
điện. Đêm thứ nhất, một đoàn kịch nhạc trình diễn ngay trên sân
điện, kịch bản Mahabharata dưới ánh đuốc sáng rực trời. Quần chúng
tụ họp đông đảo. Vua và Hoàng hậu ngồi trên đài cao có mái che. Đêm
thứ hai, đoàn hát trình diễn tuồng Ramayana. Huyền Trân chưa được
biết cốt truyện này cho nên Harijit phải giải thích sơ lược cho nàng
trong suốt buổi trình diễn. Đêm thứ ba vũ nữ Chiêm Thành trình bày
những vũ khúc dân tộc. Vũ nữ Chiêm Thành không ăn mặc tha thướt như
ở Đại Việt. Những cánh tay trần và những bắp chân trần của họ được
trang phục bằng những chuỗi hạt cườm, cổ và bụng cũng vậy. Thân hình
họ uyển chuyển, điệu múa của họ rất mềm, nhất là những cánh tay của
họ. Ban đầu Huyền Trân cảm thấy hơi bỡ ngỡ, nhưng ngay sau đó nàng
thấy được tất cả cái đẹp của vũ nghệ Chiêm Thành. Nàng say mê nhìn.
Những ngày hội hè qua và lễ đăng quang chấm dứt.
Ngay trong ngày đầu gặp vua, nhìn vào hai mắt vua, Huyền Trân biết
là mình đẹp. Nàng làm cho vua Chàm ngạc nhiên hết sức khi nói những
lời đầu tiên với vua bằng tiếng Chàm. Nàng đã luyện giọng thật kỹ
với vị giáo sư của nàng về những câu nói mà nàng định nói trước tiên
với người. Nét mặt vua lộ vẻ hân hoan không ai không trông thấy. Vua
dặn nàng trong những lúc không có kẻ thứ ba thì cứ gọi vua là
Harijit. Tên đó, dân chúng cũng thường dùng để nói tới chàng.
Trong lòng người công chúa Đại Việt, tình yêu đối với ông vua Chàm
nảy nở rất mau chóng. Harijit không bao giờ bỏ lãng việc triều
chính, nhưng trong những thì giờ còn lại vua cứ quấn quít bên nàng.
Thị Khanh và Thị Ngọc vì tiếng Chàm còn yếu nên không giúp đỡ được
gì nhiều cho Huyền Trân; trái lại thỉnh thoảng còn nhờ nàng làm việc
thông dịch cho họ. Huyền Trân xin với vua cho hai người thị nữ này
được học thêm tiếng Chàm để đủ sức giao tiếp với các cung nhân và
với những người trong nội thành. Cùng một vài cung nhân thân cận,
nằng bắt đầu đi thám sát khắp nơi trong nội cung, hỏi han về công
dụng của từng ngôi nhà, từng phòng ốc, và bắt đầu sắp đặt cuộc sống
trong cung điện.
Vua Chế Mân thường đi du hành trong nhân gian để thị sát và để nghe
góng dân tình. Huyền Trân được theo vua trong nhiều chuyến đi như
thế. Tại kinh đô Vijaya, được vua cho đi xem bốn ngôi tháp nổi
tiếng: Tháp bạc, tháp vàng, tháp đồng, và tháp ngà. Vua lại đưa
Huyền Trân tới xem một ngôi tháp lớn mà vua mới xây dựng xong ở kinh
đô: đó là tháp Po Klaung Garai mà vua rất đắc ý. Tháp rất cao, phía
trên có tới hàng mấy mươi mái bầu, trang trí cực kỳ mỹ lệ. Vua cho
nàng biết là vua cũng đang xây tháp Yang Prong ở miền cao nguyên
Darlac.
Huyền Trân đã đi thăm nhiều tháp. Những tháp này đều có thờ kinga
tức là một trụ đá trần, đặt trên một phiến đá khác là yoni; một
tượng trưng cho dương, một tượng trưng cho âm. Vua nói cho Huyền
Trân biết là đá linga bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm của tháp,
và những tháp này thuộc về Ấn Độ giáo tức là Bà La Môn. Ba vị thần
linh của tôn giáo này là Brahma, Visnu và Siva tức là Tam Bảo của Ấn
Độ giáo. Huyền Trân nhận ra rằng Brahma là Phạm Thiên. Harijit nói
rằng ngày xưa dân chúng theo Phật Giáo rất đông đảo nhưng bây giờ
thì hai phần ba dân tộc Chiêm đã ngả theo Ấn Độ giáo. Biết Hoàng hậu
là người đạo Phật, vua đã đưa nàng đến ngôi chùa lớn nhất ở kinh đô
Vijaya, để nàng lạy Phật. Ở đây người ta gọi chùa là vihara; các
tăng sĩ mặc y màu cam chứ không phải mặc tràng nâu như ở Đại Việt.
Huyền Trân nhận thấy trong chánh điện ngoài tôn tượng đức Phật Thích
Ca còn có tượng đức Quan Thế Âm mà ở đây các thầy gọi là Lahshmindra
- Lokesvara. Vị sư trưởng ở Vihara cho Hoàng hậu biết là ở cố đô
Indraprura miền Bắc nước Chàm, phía Nam đèo mây, có một tu viện Phật
Giáo rất lớn, thành lập cách đây hơn bốn trăm năm, và hiện có gần
hai trăm tăng sĩ tu học. Tu viện này hiện đã bắt đầu hư nát, cần
được tu bổ. Huyền Trân ở lại chùa, nghe các thầy tụng kinh. Họ tụng
kinh toàn bằng tiếng Phạn, tuy vậy khi họ tụng đến thần chú Thiên
Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm thì nàng cũng nhận ra được, bởi vì
nàng đã thuộc lòng thần chú này, tuy cách phát âm tiếng Phạn của
người Việt rất là sai khác.
Những chuyến đi mà Huyền Trân ưa thích nhất là những chuyến đi thị
sát về đời sống dân dã ở thôn quê. Trong những chuyến đi này, nàng
được tiếp xúc thẳng với người dân Chàm. Nàng được đi thăm các ruộng
lúa, các ruộng muối, các nhà dệt lụa, các làng đánh cá. Huyền Trân
nhận ra rằng bờ biển Chiêm rất nhiều cá và dân Chàm là những ngư dân
thiện nghệ. Họ chế tạo những chiếc ghe nhẹ có thể đi rất mau trên
biển. Người dân Duyên Hải nào cũng bơi lội giỏi, cũng là những thủy
thủ khéo léo. Harijit cho nàng biết cũng vì lẽ đó mà Chiêm Thành có
một lực lượng hải quân rất hùng hậu. Quân lính Chiêm Thành, vua nói,
chỉ được cấp gạo ăn và áo mặc mà không được trả lương. Trong thời
bình, họ xây đắp tường lũy bằng gạch và tháp canh bằng đá để bảo vệ
các miền đông dân cư. Huyền Trân đã được nói chuyện với các bô lão,
với ngư dân, với các nàng thợ dệt, và các em bé. Chỉ có những người
khá giả mới đi giày dạ, còn phần đông đều đi chân đất. Y phục của
người dân thường được làm bằng một thứ vải lục gọi là ki pê i. Đàn
bà và con gái cũng có xâu lỗ tai và đeo khoen bạc hoặc đồng. Đàn bà
lớn tuổi thì búi tóc trên đỉnh đầu. Nhà cửa của dân quê có vẻ chắc
chắn hơn ở miền quê Đại Việt, bởi vì rất nhiều nhà được xây bằng
gạch nung trét vôi. Nhà cửa của kẻ khá giả có cả sân thượng, gọi là
kan lan. Những người nghèo lắm thì ăn mặc rất đơn giản: Họ chỉ quấn
một tấm ki pê i.
Nhận thấy nhiều trẻ em bị đau mắt nhặm, nàng xin với vua chế tạo một
thứ thuốc trị đau mắt mà nàng đã học được ở Đại Việt. Trong những
chuyến đi kế tiếp, nàng thường đem thuốc ấy đi theo, và mỗi khi gặp
trẻ em đau mắt, nàng thường bảo nấu nước muối rửa mắt cho chúng rồi
tự tay lấy thuốc đau mắt bôi cho các em. Mỗi lần như thế, vua Chế
Mân kiên nhẫn chờ nàng làm xong công việc rồi mới tiếp tục cuộc du
hành. Huyền Trân sung sướng lắm. Ở Đại Việt ít khi nàng được ra khỏi
cung cấm. Lần về thăm quê ở Hải Dương, nàng có được tiếp xúc trực
tiếp với dân quê và chơi đùa với trẻ em bách tính đâu.
Harijit cho nàng biết là ở Chiêm Thành có hai thị tộc lớn là thị tộc
cây dừa và thị tộc cây cau. Hai thị tộc này ngày xưa đã từng xung
đột nhau trong hàng trăm năm để giữ ưu thế, và nhiều cuộc đổ máu đã
từng xảy ra vì thế. Nhưng bây giờ hai bên đã thỏa hiệp. Thị tộc cây
dừa ngày xưa chiếm lãnh miền Bắc, lập kinh đô ở phía bắc đèo Mây,
gọi là kinh đô Indraprura, còn thị tộc cây cau thì chiếm lãnh miền
Nam, làm bá chủ vùng Panduranga.
Tết Chiêm Thành nhằm đúng vào ngày mồng một tháng mười một của lịch
Đại Việt. tại kinh đô Vijaya, ngày Tết được tổ chức thật linh đình.
Trước hoàng cung, lính ngự lâm dựng rạp để làm lễ. Rạp chứa được cả
vạn người. Khắp nơi đều có treo đền kết hoa. Tối ngày mồng một, vua
và Hoàng hậu ngự trên đài cao để xem đốt pháo thăng thiên. Pháo bay
rất cao, cả kinh đô đều trông thấy. Tiếng pháo nổ lớn như súng bắn
đá làm rung chuyển cả kinh kỳ. Khắp nơi dân chúng tổ chức các cuộc
vui như đua thuyền, leo cột mở, đấu vật, chọi gà, đấu voi, múa hát
và trình diễn kịch tuồng. Vua đưa Hoàng hậu tới dự những cuộc vui
dân dã. Huyền Trân nhận thấy một số điệu hò có vẻ quen thuộc, phảng
phất âm hưởng Đại Việt. Nàng chợt nhớ ra rằng trong quá khứ có nhiều
điều hát và điệu vũ tại Đại Việt đã được các vua Lý đem từ Chiêm
Thành về. Thầy học của Hoàng hậu ngày xưa đã có dạy nàng điều đó.
Vua Chế Mân nói cho hoàng hậu nghe về những "tọ" tức là những điệu
hát Chàm, như tọ mư yút, tọ tầm mư, tọ ra dao v.v... Nàng thấy dân
quê sử dụng các thứ đàn rasap và đàn kanh tương tự như đàn nhị của
người Việt. Đàn campi thì giống như đàn tranh, và đàn kaping thì lại
giống đàn bầu. Người Chàm cũng dùng trống kinang tương tự như trống
cơm của Đại Việt. Đêm nào tại rạp dựng trước hoàng cung cũng có một
đoàn ca vũ hoặc kịch nghệ trình diễn và đêm nào dân chúng cũng quy
tụ rất đông đảo, vòng trong, vòng ngoài chật ních. Tết Chàm cứ thế
kéo dài cho đến mười ngày mới hết.
Trong cung, vào những ngày rỗi rãi quốc sự, vua Chế Mân thường kể
cho Huyền Trân nghe về lịch sử Chiêm Thành. Vốn là một người con gái
ưa học hỏi, vị Hoàng hậu trẻ lắng nghe rất chăm chú khiến cho vua
lại càng ưa tâm tình với nàng. Vua kể cho Huyền Trân nghe cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên của vua và của Thượng hoàng Indravarinan đệ
ngũ. Hồi đó, Huyền Trân chưa sinh. Năm nàng sinh là năm Mậu Tí, tức
là năm Đại Việt vừa đánh bại được đạo quân xâm lăng của Hốt Tất
Liệt. Tên Harijit của chàng có nghĩa là con sư tử chiến thắng. Theo
Harijit thuật lại thì vào năm Nhâm Ngọ, vua nhà Nguyên sai tướng là
Toa Đô sang đánh Chiêm Thành. Toa Đô muốn mượn đường Đại Việt để đi,
nhưng vua Nhân Tông không cho, cho nên đã dùng đường biển. Hơn một
ngàn chiến thuyền ra đi từ Quảng Châu đến đổ bộ trên bờ biển Chiêm
Thành. Hồi đó Harijit chưa lên ngôi nhưng chàng đã mười tám tuổi
rồi, và thái độ cương quyết chống Nguyên của chàng đã làm cho chàng
trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến. Chàng ra lệnh đốt hết kho
lúa, tập hợp quân binh trên rừng núi và tổ chức kháng chiến. Quân
lính của Toa Đô bị thua nhiều trận đến thất điên bát đảo, trong khi
đó viện binh của Ô Mã Nhi do vua Nguyên gởi tới lại bị chặn đứng ở
biên giới Nguyên Việt. Năm Giáp Thân, Thoát Hoan đem quân sang đánh
Đại Việt; năm sau Toa Đô được lệnh rút quân ra khỏi Chiêm Thành, đi
lên miền Bắc để yểm trợ cho Thoát Hoan. Do đó mà Chiêm Thành thoát
ách đô hộ của quân Mông Cổ.
Huyền Trân kể cho vua Chế Mân nghe về cuộc kháng chiến chống quân
Mông Cổ của dân Đại Việt, với thật nhiều chi tiết. Thầy học của nàng
là Văn Huệ Vương đã dạy nàng rất kỹ về giai đoạn lịch sử này; ông đã
sống qua giai đoạn đó và đã từng quen với hầu hết những anh hùng của
cuộc kháng chiến. Vua Chế Mân say mê nghe nàng nói, và thỉnh thoảng
chen vào để hỏi thêm một vài chi tiết. Huyền Trân nói tướng Trần
Hưng Đạo là ông ngoại của nàng, và tướng Trần Quang Khải là thân
sinh của thầy học nàng.
Nhờ nói chuyện với vua mà nàng biết được rằng Chiêm Thành đã nhiều
lần bị các nước chân Lạp và Đại Việt xâm chiếm. Năm Ất Sửu, tức là
khoảng một trăm sáu mươi năm về trưóc. Chân Lạp đã qua xâm chiếm
kinh thành Vijaya và đô hộ nước Chàm trong suốt bốn năm ... Ba mươi
hai năm sau, Chiêm Thành quyết chí phục thù và đã đưa quân sang xâm
chiếm kinh đô Angkor. Giết vua Chân Lạp và cũng thiết lập một nền đô
hộ trên đất này trong bốn năm. Rồi cách đây đúng một trăm lẻ sáu
năm, vua Jayavarman đệ thất của Chân Lạp lại đưa quân sang xâm chiếm
Chiêm Thành và trong suốt mười bảy năm đã biến cải toàn nước Chàm
thành những quận huyện Chân Lap, khiến Chiêm Thành phải tranh đấu
kịch liệt lắm mới dành lại được quyền tự chủ. Nước Đại Việt cũng đã
từng gây nhiều khổ đau cho dân tộc Chàm. Vua Lê Đại Hành từng đem
quân xâm chiếm kinh dô Indrapura, đốt phá thành trì, lăng miếu, bắt
trên một trăm cung nữ, và chiếm lấy không biết bao nhiêu vàng bạc và
châu báu. Vua Chàm là Indravarman đệ tứ phải bỏ chạy vào Nam. Cũng
từ đó, kinh đô của nước Chiêm được xây dựng tại Vijaya. Vua Lý Thái
Tổ cũng đã từng qua xâm chiếm Chiêm Thành, giết vua Jaya Simhavarman
đệ nhị, bắt ba mươi thớt voi, năm ngàn tù nhân, tiến quân vào
Vijaya, bắt Hoàng hậu My Ê và trọn cả đoàn ca vũ Chiêm Thành về
nước. Lần đó quân Đại Việt đã chém giết hung bạo, xác của thường dân
Chàm chất đống đầy đồng. Cuộc xâm lăng thứ tư là do Lý Thánh Tông
cầm đầu với công phụ tá của tướng Lý Thường Kiệt. Vua Thánh Tông
cũng chiếm cứ Vijaya, bắt năm vạn quân Chiêm làm tù binh và sai
tướng Lý Thường Kiệt đuổi theo vua Ruhravarman đệ tam tới tận biên
giới Chân lạp và bắt được vua này đem về Đại Việt. Sau khi hứa dâng
ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh ở miền Bắc Chiêm Thành cho Đại
Việt, vua được thả về Chiêm. Sự kiện tàn ác nhất trong cuộc xâm lăng
này là quân Đại Việt đã được lệnh đốt hết tất cả nhà cửa của dân
gian trong nội thành Phật Thệ.
Harijit kể lại tất cả những điều đó với một giọng trầm buồn. Hoàng
hậu Paramesvari ôm mặt khóc. Nàng không ngờ giữa hai nước Chiêm Việt
đã có những giai đoạn lịch sử đau thương đến thế. Hồi còn bé, Huyền
Trân đã được nghe nói về những cuộc chiến tranh Chiêm Việt, và nàng
cứ nghĩ rằng tất cả tội lỗi là do người Chàm gây nên. Nàng biết rằng
Đại Việt có quyền đem quân ra biên giới để dẹp những cuộc khiêu
khích và phá rối của người Chàm, nhưng không ngờ là các cuộc chinh
phạt đã xảy ra lớn lao như thế. Có thể là người Chàm hiếu chiến và
ưa khiêu khích thật nhưng điều này có thể phát sinh từ một mối căm
hận lâu đời. Họ khó mà quên được rằng một phần đất của đất nước họ
nay trở thành lãnh thổ Đại Việt. Qua những biến cố lịch sử mà nàng
mới được nghe, Huyền Trân thấy được ước muốn thâm sâu của đồng bào
nàng trong việc mở mang bờ cõi về phương Nam. Nàng nghĩ đến hai châu
Ô và Ri vừa mới được chuyển nhượng sang cho Đại Việt. Nàng biết tuy
Thượng hoàng và vua Anh Tông không nghĩ đến cái lợi đó khi cho nàng
về với vua Chiêm, nhưng biết bao nhiêu quan chức trong triều đinh đã
nghĩ đến cái lợi đó. Quan Nhập Nội Thành Khiển Trần Khắc Chung nghĩ
đến đã đành, mà quan Tham Tri Chính Sự Đoàn Nhữ Hài tuy lúc đầu
chống đối chuyện hôn nhân của nàng cũng đã nghĩ đến. Huyền Trân vừa
về được bốn tháng mà đã cảm thấy mình là người Chiêm rồi. Giòng máu
Đại Việt còn luân lưu trong huyết quản của nàng, nhưng nàng đã bắt
đầu thương mến dân Chàm như là thương mến dân Việt. Nàng thấy sự
sống của người dân Chàm không khác gì sự sống của người dân Việt, cả
hai dân tộc cùng đau những nổi đau như nhau, cùng buốn những nỗi
buồn như nhau, cùng ao ước những nỗi ao ước như nhau. Trái tim nàng
đã hé mở, đã bao dung được cả hai dân tộc. Thượng hoàng năm xưa đã ở
lại đất Chàm gần tám tháng, chắc chắn trái tim của Thượng hoàng cũng
đã mở ra và từ đó ngài đã thương dân Chàm như chính dân mình. Đó là
một trái tim của người con Phật. Trái tim của Huyền Trân hiên đang
đập một nhịp với trái tim của vị thiền sư núi Yên Tử. Trái tim của
nàng đã trở thành trái tim của Thượng hoàng. Trong giờ phút đó, bỗng
nhiên Huyền Trân thấy được tất cả tầm quan trọng của sứ mệnh nàng:
Phải làm sao duy trì bồi đắp nền hòa bình Chiêm Việt, tránh cho dân
của cả hai nước những cuộc tàn hại như trong quá khứ.
Nàng lau khô nước mắt, và ngước nhìn lên vua Chiêm, nàng nói cho
Harijit biết ý tưởng đó của nàng. Vua Chiêm hiểu được tâm trạng của
nàng công chúa Đại Việt, và cầm lấy tay Hoàng hậu, trang trọng như
đang nắm giữ một vật gì quý báu nhất đời.
Đầu tháng Chạp năm ấy Huyền Trân thấy trong người khó ở. Vua Chế Mân
cho mời ngự y vào chẩn bệnh cho Hoàng hậu. Ngự y cho biết là Hoàng
hậu bắt đầu thai nghén. Vua mừng rỡ, lại càng cưng quý Huyền Trân
hơn, Hoàng hậu mong sẽ hạ sinh được một hoàng nam để nối chí Thượng
hoàng và cũng để nối chí của chồng. Huyền Trân biết đứa con của nàng
sau này sẽ không làm vua nước Chiêm Thành, bởi vì vua Chàm đã có tới
hai thái tử, và thái tử đầu đã được phong làm Đông Cung. Tên chàng
là Harijitputra, nghĩa là người con của sư tử chiến thắng, Harijit
năm ấy đã lớn. Đó là một người con trai dễ thương, mang trong mình
hai dòng máu Chiêm Thành và Qua Oa. Huyền Trân đã nói chuyện nhiều
lần với thái tử và tuy đã hai mươi hai tuổi, thái tử rất cung kính
đối với nàng. Trong những buổi trao đổi chuyện trò với thái tử,
Hoàng hậu thương nhân cơ hội để gieo vào lòng người con trai này
những hạt giống thân hữu và hòa bình.
Vua Jaya Simhavarman đệ tam có nói với Huyền Trân rằng dù Hoàng hậu
sinh con trai hay con gái thì vua vẫn mừng rỡ như nhau. Khi biết
được rằng Huyền Trân mong ước sinh con trai, vua ngẫm nghĩ hồi lâu
rồi nói:
- Nếu Hoàng hậu sinh con trai ta sẽ đặt tên cho thế tử là Dayada.
Rồi vua cho Huyền Trân biết tên đó có nghĩa là con trai, là hậu dệu,
là người nối dõi. Hoàng hậu rất bằng lòng tên ấy.
Năm sắp hết và Tết sắp đến, Hoàng hậu bàn với Thị Ngọc và Thị Khanh
về việc thiết lập trong cung một bàn thờ tổ tiên đế cúng lễ vào ngày
Nguyên Đán Mậu Thân. Ở Chiêm Thành, dân chúng không ăn Tết Nguyên
Đán theo truyền thống Đại Việt. Huyền Trân chưa bao giờ thấy nhớ nhà
nhớ nước như thế. Nàng bảo Thị Khanh đi tìm những vật liệu để nàng
làm bánh chưng và bánh dày cúng tết. Đêm Giao thừa, Huyền Trân thức
với hai người thị nữ. Ba người nhắc cho nhau ghe những câu chuyện
Tết thời trẻ thơ. Họ nói chuyện thân mật như ba chị em, và tuy hai
thị nữ gọi tên Huyền Trân là lệnh bà, họ cũng không thấy có gì ngăn
cách tình thân giữa họ và Hoàng hậu. Ba người nói chuyện với nhau
cho đến Giao thừa mới đứng dậy làm lễ tổ tiên. Huyền Trân vọng bái
về phương Bắc, tưởng nhớ đến Thượng hoàng, và tất cả những người
thân. Hai cô thị nữ cũng bắt chước nàng. Trong giờ phút đó, họ có
cảm tưởng rất gần gũi quê hương.
Huyền Trân đã hứa cho Thị Khanh về nước vào tháng sáu năm Mậu Thân
để lập gia đình. Thị Ngọc thì tình nguyện ở mãi bên cạnh Hoàng hậu.
Ngọc đã từng lấy niềm vui của Huyền Trân làm niềm vui của mình và đã
quen săn sóc nàng như săn sóc cho một người chị. Được Huyền Trân hỏi
về chuyện gia đình. Ngọc đã lắc đầu mỉm cười. Cuối cùng Ngọc đã thưa
với Hoàng hậu là nếu cần, nàng sẽ lấy chồng Chiêm Thành để có thể
mãi mãi được gần Hoàng hậu.
Huyền Trân đã học chữ Devanagari và đã đọc được những bản văn
dharmasastra bằng tiếng Phạn. Nàng cũng đã học đọc và viết chữ khar
- tapuk, một thứ chữ được thường dân sử dụng, cũng viết từ trái sang
phải như chữ Phạn chứ không phải viết từ trên xuống dưới như ở Đại
Việt. Nàng dạy cho Thị Ngọc học thứ chữ này, thông dụng cũng như chữ
Nôm ở Đại Việt. Chữ Phạn thì chỉ có giới trí thức và quý tộc mới
biết đọc và biết viết mà thôi.
Một hôm đi Panduranga, thị sát việc xây tháp Po Klaung Garai về, vua
Chế Mân lên cơn sốt. Huyền Trân cho gọi các ngự y vào chẩn mạch cho
vua. Ngự y nói là vua bị cảm cúm, bảo cung nhân đánh gió cho vua.
Hoàng hậu tự tay đi nấu cháo cảm và mang đến cho Harijit. Vua húp
được nửa bát, chảy mồ hôi, và thấy khỏe, nhưng sáng hôm sau, vua lên
cơn sốt trở lại. Cơn sốt kéo dài và vua nói mình mẩy vua đau nhức
như dần. Các ngự y lại được triệu vào. Nhiệt độ của vua lên rất cao,
và vua đã nói mê trong cơn sốt. Huyền Trân hoảng hốt. Các ngự y chầu
chực trong ba hôm liền mà vua vẫn mê man không tỉnh. Người ta cạy
miệng vua để đổ thuốc vào, nhưng không đẩy lui được cơn bệnh. Hoàng
hậu thức suốt ba đêm bên giường ngự. Thị Khanh và Thị Ngọc khẩn
khoản xin nàng đi nghỉ để họ thay thế, nàng cũng không nghe. Những
lương y nổi tiếng, kể cả mấy vị lương y Tây Trúc cũng được mời vào
cung tham vấn. Ai cũng lắc đầu trước tình trạng vua. Triệu chứng của
bệnh vua tương tự như triệu chứng của bệnh thương hàn, nhưng thuốc
thương hàn ngự y đem dâng đã không có hiệu quả nào. Vào giữa khuya
ngày mồng bảy tháng năm, vua băng.
Trang trước |
Trang kế
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường (Thích Nhất Hạnh) |
|

Lời nhà xuất bản
1. Chương 1
2. Chương 2
3. Chương 3
4. Chương 4
5. Chương 5
6. Chương 6
7. Chương 7
8. chương 8
9. Chương 9
10. Chương 10
11. Lời bạt
12. Niên biểu
|