Am mây ngủ
CHƯƠNG 6
Tiếng tụng kinh của chú
Pháp Đăng đã im bặt từ lúc nào mà đến bây giờ Huyền Trân mới nhận
thấy am Long Động chìm trong một sự thanh tịnh tuyệt đối. Chỉ trong
mấy khoảnh khắc thôi mà hình ảnh của bao nhiêu năm tháng của cuộc
đời nàng đã diễn lại đầy đủ trong trí hồi tưởng của nàng. Huyền Trân
có cảm tưởng là mình đã sống qua hàng thế kỷ, đã trải qua bao nhiêu
e ngại, sợ hãi, sung sướng, hồi hộp, lo âu, thất vọng và hy vọng.
Nàng đã từng cảm thấy mệt mỏi và chán nản, dù nàng biết mình mới có
hai mươi mốt tuổi đầu. Nàng nhớ lại lúc nàng mới thức giấc ở am Long
Động, và cảm thấy thoải mái an lạc mà nàng đã được thừa hưởng trọn
vẹn trong lúc ấy. Tâm hồn nàng lúc đó sao mà bình an và thanh thản
một cách lạ. Chưa bao giờ trong quá khứ mà nàng được hưởng cảm giác
này. Huyền Trân nghĩ rằng nếu cảm giác đó đã tới một lần thì nó có
thể tới một lần khác, nhiều lần khác, nếu nàng thật sự mong muốn.
Nàng đã từng chấp nhận nằm trên giàn hỏa rồi thì nàng không còn phải
sợ hãi bất cứ cảnh huống nào của cuộc đời. Có lẽ vì vậy mà nàng có
khả năng nếm được sự tịch lạc. Nàng chưa thực sự biết tu thiền,
nhưng nàng nghĩ sự an lạc mà người tu thiền có thể đạt đến cũng
tương tợ như sự an lạc mà nàng vừa được biết tới mùi vị. Huyền Trân
duỗi hai tay theo chiều dài thân thể, ngước nhìn trần nhà còn đen
tối và lắng nghe sự yên tĩnh bên ngoài và bên trong tâm nàng. Tiếng
tụng kinh của chú Pháp Đăng không còn nữa, nhưng sự thanh tịnh vẫn
còn, và cảm giác an lạc lại bắt đầu trở lại. Huyền Trân bất giác cảm
thấy vui mừng, và trong đêm tối nàng mỉm cười. Nụ cười thật mầu
nhiệm. Nụ cười đến một cách bất ngờ. Chưa bao giờ nàng cười một nụ
cười như thế. Nụ cười này chỉ có nghĩa đối với nàng mà không có
nghĩa với bất cứ một ai khác. Nàng duy trì nụ cười ấy trên môi và
cảm nghe hơi thở nhè nhẹ và đều đặn của mình. Nàng tự dặn là đừng
đánh mất giây phút an lạc quý báu này trong những hồi tưởng và lo sợ
vẫn vơ.
Có hai tiếng bảng của chú Pháp Đăng vọng lên. Hai tiếng bảng rành
rọt và nghiêm trang như một hiệu lệnh. Huyền Trân từ từ đứng dậy.
Trời đã tờ mờ sáng. Nàng mở cửa liêu bước vào tổ đường. Chú pháp
Đăng đã dọn cháo sáng trên bàn. Chú lễ phép:
- Mời lệnh bà dùng cháo sáng. Ăn cháo xong chúng ta sẽ khởi hành lên
am Đỉnh Trú.
Huyền Trân ngồi vào chiếc ghế gỗ. Trên bàn, trước mặt nàng, có một
bát cháo gạo đỏ nấu đặc, một đĩa dưa cải, một chén nước tương và một
đôi đũa. Chú Pháp Đăng ngồi phía bên kia bàn và trước mặt chú cũng
có từng ấy thứ. Chú chắp tay mật niệm rồi nâng bát cháo lên ăn thật
thong thả và im lặng. Huyền Trân bắt chước chú nàng cầm đũa và ăn
cháo một cách thật thong thả và im lặng. Bát cháo gạo đỏ sao mà ăn
ngon lành đến thế, nàng nghĩ. Chú tiểu ăn xong, lại chắp tay mật
niệm rồi đi lấy cho Huyền Trân một bát nước chè. Lâu quá Huyền Trân
không được uống chè tươi pha gừng. Nàng cảm thấy ấm cả bụng.
Khi hai người khởi hành thì trời sáng tỏ, tuy sương vẫn còn khá dày
trên chòm cây xa. Chú Pháp Đăng đưa tay chỉ cho Huyền Trân thấy ngọn
đồi bên cạnh am Long Động. Chú nói:
- Lệnh bà nhìn xem, quả núi này trông giống như con lân, cho nên
người ta thường gọi am này là am Lân.
Huyền Trân đưa mắt nhìn thì quả nhiên dáng núi hình con Lân thật.
nàng quay lại nhìn xuống phía trước am thì thấy dòng suối chảy giữa
những gốc thông già, bên suối có những tảng đá lớn nhỏ xen nhau. Năm
xưa trước ngày về Chiêm, nàng đã từng ngồi với Thượng hoàng một buổi
chiều bên bờ suối và trên những tảng đá đó. Nàng cảm tưởng là buổi
chiều hôm ấy chỉ là buổi hôm qua. Hai người theo con đường dốc sau
am leo lên. Đường mòn tuy dễ đi, nhưng hai người phải vượt qua nhiều
con suối. Đã có những chiếc cầu gỗ bắc qua các con suối cho nên
không ai bị ướt chân. Huyền Trân đếm được cả thảy chín con suối. Qua
con suối thứ chín, hai người gặp một ngọn núi chắn ngang trước mặt.
Chú pháp Đăng nói về Huyền Trân đó là núi Voi Xô. Dưới chân núi có
một bãi cát trắng. Cát này chắc là do nước mưa chuyên chở từ trên
núi xuống, lâu ngày thành bãi. Chú lại nói rằng mỗi khi vua Anh Tông
lên núi thăm đại sĩ, ngài hay dừng kiệu nơi đây để nghỉ ngơi.
Chú pháp Đăng đưa Huyền Trân vượt một cánh đồi thông, leo một con
dốc, rồi vượt một cánh rừng thông khác. Một hồi sau, hai người tới
một dòng suối lớn. Chú tiểu nói:
- Thưa lệnh bà, đây là suối Hồ Khê.
Nước suối màu đỏ, lòng suối rộng. Chú Pháp Đăng cho Huyền Trân biết
là suối này phát nguồn từ trên đỉnh núi, và vì chảy qua rừng lim cho
nên nước suối đỏ ngầu. Giữa lòng suối, Huyền Trân trông thấy những
hòn đá lớn. Nhìn lên, nàng thấy hàng ngàn cây thông vươn cao trên
núi. Đi sâu vào đồi thông, hai người tới am Thạch Thất. Am này được
xây toàn bằng đá xanh lấy tại chỗ. Chú pháp Đăng cho Huyền Trân biết
là chính trong am này mà đại sĩ Trúc Lâm đã sáng tác Thạch Thất Mỵ
Ngữ. Chú nói mấy năm gần đây ngài ít ở Thạch Thất lắm và chỉ ưa cư
trú trên am Ngọa Vân thôi. Từ Thạch Thất trở đi, con đường bắt đầu
khó đi nhưng cảnh trí rất ngoạn mục. Có nhiều nơi phong cảnh thâm u
và rậm rạp. Vượt ra khỏi một cánh rừng, hai người đi tới một nơi
thật sáng tươi và quang đãng. Đi một hồi lâu nữa thì tới một cái dốc
có cây cối um tùm và êm mát. Thấy Huyền Trân có vẻ thấm mệt, chú
Pháp Đăng bảo nàng:
- Lệnh bà vào đây ngồi nghỉ một chút cho đỡ mỏi chân đã.
Huyền Trân gật đầu. Chú tiểu đưa nàng tới dưới những cành cây sum
sê. Ở đây có mấy chiếc ghế ghép bằng thân cây cho người bộ hành ngồi
nghỉ. Chú nói:
- Chỗ này là Quán Mát. Đại sĩ hay ngồi nghỉ tại đây. Hoàng Đế Anh
Tông mỗi khi lên thăm đại sĩ cũng thường dừng kiệu tại đây.
Chú chỉ cho Huyền Trân thấy một cái am tranh ở phía xa, thấp thoáng
sau cành lá, và cho nàng biết đó là am Trung Thạch.
Chú nói sư huynh Pháp Loa của chú đã từng nhập thất tại am này.
Huyền Trân ngồi nghỉ trên một thân gỗ. Nàng bảo chú Pháp Đăng ngồi
xuống thân gỗ trước mặt nàng rồi hỏi:
- Này chú Pháp Đăng, ai dạy chú gọi tôi là lệnh bà thế hả chú?
Chú tiểu lễ phép:
- Thưa lệnh bà, có ai dạy đâu. Hôm qua cháu nghe chị Thị Ngọc, chị
ấy gọi như thế nên cháu cũng theo đấy mà gọi.
Huyền Trân mỉm cười. À thì ra chú này bắt chước Thị Ngọc. Nàng nói:
- Này chú, gọi tôi là lệnh bà thì nghe khách sáo lắm, mà chú xưng
cháu với tôi nghe càng buồn cười hơn nữa. Giờ tôi hỏi chú nhé: Chú
có biết tôi là con của đại sĩ không?
- Dạ chưa biết.
- Còn chú, chú là đệ tử của đại sĩ thì cũng như con của ngài. Vậy
chú cứ xem tôi là chị của chú, và chú gọi tôi là chị.
Chú Pháp Đăng cúi đầu:
- Thưa cháu không dám.
- Sao lại không dám? Tôi không phải là chị của chú hay sao? Tôi cũng
sẽ học đạo với đại sĩ và tôi cũng sẽ là đệ tử của đại sĩ. Vậy chú
gọi tôi là chị thì lại càng đúng nữa. Nói thật với chú, tôi ghét
người ta gọi tôi là lệnh bà lắm. Chú gọi tôi là chị đi, và đừng xưng
cháu với tôi nữa. Cứ xưng là em cũng được rồi.
Chú Pháp Đăng ngửng đầu nhìn bà công chúa mà khắp nước ai cũng biết
tên, rồi cúi đầu đáp khẽ:
- Thưa vâng.
- Vậy thì chú Pháp Đăng, chú đi tu được mấy năm rồi, nói cho chị
nghe đi.
- Thưa lệnh bà, à dạ thưa ... chị, em đi tu mới được hai năm thôi.
- Chú tụng kinh hay lắm. Giọng của chú rất trong. Đại sĩ yêu chú lắm
phải không?
- Vâng, em được đại sĩ thương yêu lắm. Em chỉ mới có mười hai tuổi
thôi, mà đã được đại sĩ cho viết lời "tán ngữ" trong sách Tuệ Trung
Thượng Sĩ Ngữ Lục rồi. Sách ấy mới được in xong chị ạ. Em có tới hai
bản, em biếu chị một bản.
- Ngoài chú ra, còn có ai được viết lời tán ngữ trong sách đó nữa hả
chú?
- Trước hết là đại sĩ, rồi đến sư huynh Pháp Loa, sư huynh Bảo Pháp,
sư thúc Tông Cảnh, cư sĩ Như Pháp, sư huynh Pháp Cổ, và sư huynh Huệ
Nghiêm. Em là người chót được viết lời tán ngữ. Lời tán ngữ nào cũng
hay hết chị ạ, chỉ có lời tán ngữ của em là dở, vậy mà đại sĩ cũng
cho in vào cuối tập.
- Chú viết như thế nào, đọc cho chị nghe đi.
- Em viết: "Thượng sĩ là một vị Bồ Tát, sanh trong nhà họ Trần, anh
ruột của vị anh hùng Vạn Kiếp Trần Hưng Đạo Đại Vương. Thuở nhỏ,
thượng sĩ là người trung hiếu, cư xử trọn đạo với vua cha. Gặp thời
nước nhà bị nạn, ngài đã hai lần ngăn giặc. Sau đó, ngài đưa mình
vào cảnh thiền, rong chơi cùng khắp". Dở không, thưa chị?
- Chú viết hay lắm. Mà chú nói cho chị biết chú đi tu để làm gì vậy
hả chú?
- Em cũng muốn được như sư huynh Pháp Loa.
- Sư huynh Pháp Loa là gì mà chú ưa thích như vậy?
- Sư huynh Pháp Loa là người nối nghiệp đại sĩ để duy trì và hoằng
dương chánh pháp. Sư huynh còn quan trọng hơn sư huynh Bảo Sát nữa,
thưa chị. Hồi đầu năm này em được đi hầu đại sĩ ở chùa Bảo Ân và
được dự lễ đại sĩ trao pháp y cho sư huynh Pháp Loa. Cảnh tượng
trang nghiêm lắm chị ạ. Chị muốn nghe em kể lại không?
Huyền Trân thấy trong lòng vui vui khi nói chuyện với chú tiểu. Nàng
thấy giọng chú thật ngộ nghĩnh, nhất là khi chú dùng những danh từ
Phật học như "hoằng dương chánh pháp", "pháp y" và "trang nghiêm".
Nàng gật đầu:
- Chú kể cho chị nghe đi.
- Sáng hôm sau mồng một Tết, sau khi tụng xong buổi công phu sáng,
đại sĩ đưa sư huynh lên lạy ở nhà tổ. Xong rồi, tất cả đại chúng
xuống ăn cháo sáng. Ăn sáng xong rồi thì mọi người mang y hậu đại lễ
vào và lên pháp đường. Chuông trống và đại nhạc được đánh lên uy
nghi lắm thưa chị. Vừa lúc đó Hoàng đế ngự giá tới chùa, có rất
nhiều người đi theo hầu. Hoàng đế là vị đàn việt lớn nhất của Phật
pháp cho nên ngài ngự ở ghế khách nơi pháp đường, trong khi Huệ Võ
Đại Vương và các quan đều phải đứng trước sân. À thưa chị, có phải
Huệ Võ Đại Vương là anh ruột của chị không, thưa chị?
- Phải, chú kể tiếp đi.
- Lúc ấy đại sĩ lên pháp tòa để thuyết pháp. Thuyết pháp xong, ngài
đi xuống, cầm tay sư huynh Pháp Loa dắt lên toà, bảo sư huynh ngồi
lên đó. Xong ngài đứng chắp tay trước mặt sư huynh mà làm lễ vấn
tấn. Vấn tấn là thăm hỏi đó thưa chị. Sau khi sư huynh đáp lễ, đại
sĩ mới lấy pháp y trao cho sư huynh khoác vào. Rồi đại sĩ ngồi xuống
bên chiếc ghế khúc lục để nghe sư huynh thuyết pháp. Sư huynh thuyết
pháp xong, đại sĩ đứng dậy. Trước mặt Hoàng thượng, bách quan và đại
chúng, ngài lên tiếng bảo rằng hôm nay ngài đem cả sơn môn Yên Tử và
chùa Báo Ân trao lại cho sư huynh, ủy cho sư huynh kế thế trụ trì và
làm tổ thứ hai của Giáo Hội Trúc Lâm. Sau đó, tất cả mọi người, từ
Hoàng đế cho bách quan và đại chúng, đều đứng dậy chắp tay làm lễ sư
huynh.
Huyền Trân nhìn chú Pháp Đăng, cười:
- Nếu tôi là chú thì tôi không ước muốn được như sư huynh Pháp Loa
đâu. Làm tổ của một môn phái mệt lắm và phải lo nhiều chuyện lắm.
Tôi chỉ ước muốn được như chú mà thôi. Ở đây thanh tịnh và thảnh
thơi biết bao nhiêu. Chú lại được đại sĩ thương yêu không kém gì sư
huynh Pháp Loa. À, này chú, tại sao bây giờ ở trên núi ít người quá
vậy? các thầy đi đâu hết mà chùa Long Đông chỉ có một mình chú thôi
hả chú?
- Các sư huynh đã xuống núi hết theo lời đại sĩ chỉ dạy. Chỉ còn có
sư huynh Bảo Sát ở lại trên am Tử Tiêu, thưa chị. Mùa hè năm nay đại
sĩ an cư ba tháng tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Đức La, đại chúng đến kết
hạ đông có trên hai trăm vị. Ngài đã giảng sách Truyền Đăng Lục cho
đại chúng nghe suốt mùa an cư và đến ngày rằm tháng bảy, sau lễ Tự
Tứ, ngài cũng đã làm lễ ủy cho sư huynh Pháp Loa trụ trì luôn chùa
này. Ngày mười sáu ngài về đây và lên cư trú nơi am Tử Tiêu. Ngài
bảo sư huynh Pháp Loa lên ở đó hầu ngài và giảng cả bộ Truyền Đăng
Lục cho riêng một mình sư huynh học. Hết tháng bảy, ngài cho tất cả
các sư huynh xuống núi và giữ lại một mình sư huynh Bảo Sát. Ngài
nói với sư huynh Bảo Sát là ngài muốn cùng sư huynh đi thăm hết mọi
nơi trên núi Yên Tử, và không muốn có ai trên này. Do đó mà bây giờ
ở đây chỉ có ba người là đại sĩ, sư huynh Bảo Sát và em mà thôi.
Huyền Trân tính nhẩm trong trí và biết rằng năm nay Phụ hoàng nàng
đã năm mươi tuổi. Tuổi cao như vậy mà Phụ hoàng nàng còn phải lo bao
nhiêu là việc. Hết việc đời, tới việc đạo. Nàng mừng thầm khi biết
cha sắp đặt và giao phó công việc sơn môn cho sư huynh Pháp Loa.
Ngài xuất gia như vậy là đã gần mười năm rồi. Ngài đi tu năm bốn
mươi mốt tuổi, hồi đó nàng mới mười hai. Nàng nhớ ngày Thượng hoàng
xuất gia, cả nước náo động, Thái hậu và tất cả các cung phi đều khóc
và đưa tiễn ngài tới chân núi Yên Tử. Nhiều người không chịu trở về
cung. Họ lập am dưới chân núi mà ở. Thượng hoàng không nở đuổi. Vì
vậy dưới chân núi Yên Tử làng Nường và làng Mụ được thành lập. Mấy
năm sau, một ni viện được xây dựng lên để làm chỗ tu hành cho các bà
phi xuất gia. Cũng vào ngày Thượng hoàng đi xuất gia, thầy Trí Thông
trú trì chùa Báo Ân phát tâm đốt cháy bàn tay của mình để cúng
dường. Ông nói: "Một ông vua đi tu để xiển dương Phật pháp là một cơ
hội lớn chưa từng có trên đất nước này". Cả kinh thành Thăng Long
bàn tán về chuyện thầy Trí Thông đưa bàn tay lên ngọn nến để cho bàn
tay cháy từ ngón tay tới khủy tay từ sáng tới chiều mà sắc mặt an
nhiên không thay đổi. Huyền Trân đã xin phép Tuyên Từ thái hậu để
đến chùa Báo Ân xem và đã tự mình chứng kiến cảnh tượng lạ lùng ấy.
Huyền Trân biết rằng từ hồi còn thơ ấu, Phụ hoàng đã được học Phật
pháp với Thượng sĩ Tuệ Trung, thúc tổ của nàng, người mà cả thiên hạ
đều cho là bậc chứng đạo cao siêu, kinh luận uyên bác. Ngày Phụ
hoàng xuất gia, thượng sĩ đã khuất núi rồi, do đó quốc sư Đạo Nhất
đã làm lễ xuất gia cho ngài. Từ cuộc sống trong cung vàng điện ngọc,
Phụ hoàng đã đi sang suộc sống của người đạo sĩ không cửa không nhà.
Hồi mới đi tu, ngài đã tu luyện theo hạnh đầu đà khổ hạnh, cho nên
ngài chỉ mặc áo vá, ngủ dưới những mái lá trên núi Yên Tử, ăn uống
sơ sài và kham khổ. Hồi ấy ngài lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà. Giới
Phật tử tôn xưng ngài là Hương Vân Đầu Đà. Ở trên núi đã mười năm mà
ngài chưa cho lập ngôi chùa nào cả. Tất cả những nơi cư trú hành đạo
của ngài và của trên mười vị đệ tử chỉ là mười mấy cái am tranh, cao
nhất là am Tử Tiêu và thấp nhất là am Long Động. Am Ngọa Vân nằm vào
vị trí trung ương, thấp hơn am Tử Tiêu, nhưng cao hơn nhiều am khác.
Nghĩ đến am Ngọa Vân, Huyền Trân đứng dậy. Chú Pháp Đăng cũng đứng
dậy theo nàng. Chân của hai người giờ đã bớt mỏi. Họ đi băng qua một
vài cánh rừng và leo trèo một hồi nữa thì thấy dáng am Ngọa Vân:
Vào tới am, không thấy Trúc Lâm đại sĩ, chú Pháp Đăng biết là ngài
đang ngồi thiền bên am Thiền Định. Chú nói khẽ với Huyền Trân, tay
chỉ về phía một cái am nhỏ phía tay trái hiện sau mấy cội thông già:
- Đại sĩ đang ngồi thiền ở đó, mình không nên tới gần mà làm kinh
động đến ngài. Để em chỉ cho chị xem qua địa thế ngọn Ngọa Vân này.
Chú đưa Huyền Trân qua phía mặt đến một cái am dựng sát vào khe đá:
- Đây là am Một Mái, bởi vì nó chỉ có một cái mái mà thôi, như chị
thấy. Đại sĩ thường ngồi ở đây để đọc kinh và đọc sách. Chỗ này mát
mẻ và thanh tịnh lắm thưa chị. Còn cái am bên trái mà em vừa chỉ cho
chị là am Thiền Định, nơi đại sĩ ngồi thiền mỗi ngày nhiều bận. Lát
nữa sau khi đại sĩ xuất thiền em sẽ đưa chị sang đấy thăm. Gần đó có
suối Rồng, thác nước đẹp lắm chị ạ. Nước đổ như bay từ trên núi cao
xuống, thưa chị. Dưới suối có tảng đá vuông, ngài hay xuống tắm ở
đấy, thưa chị. Chị xem, con suối là đuôi con rồng, am Một Mái dựng
sát khe núi là cái đầu rồng, còn am Ngọa Vân đứng giữa là lưng con
rồng. Chị lại đây mà xem. Đứng ở trước am Ngọa Vân nhìn xuống chị có
thể thấy được cả thiên sơn vạn thủy đang chầu lại, đẹp lắm.
Huyền Trân nhìn xuống và thấy lời chú Pháp Đăng rất đúng. Cảnh tượng
vừa đẹp vừa hùng vĩ gây trong lòng nàng một cảm giác lâng lâng. Ước
gì nàng được ở lại đây vài hôm.
Huyền Trân cười:
- Cho nên ngọn núi này mới được gọi là Ngọa Vân phong.
Nói xong câu ấy nàng nghe tiếng chân dẫm trên lá khô phía sau.
ngoảnh lại, Huyền Trân thấy Trúc Lâm đại sĩ đang tươi cười bước tới.
Chú Pháp Đăng chắp tay trước ngực và cúi đầu chào kính cẩn. Huyền
Trân cũng bắt chước chú, chắp hai tay lại và cúi đầu. Đại sĩ bảo:
- Các con lên sớm lắm.
Ngài đưa Huyền Trân và chú Pháp Đăng vào am. Chú Pháp Đăng đứng dậy
định vào sau nhà trù nấu nước pha trà thì đại sĩ bảo:
- Thôi con đừng nấu trà nữa. Ta nên khởi hành lên am Tử Tiêu ngay.
Thầy có làm sẵn một nắm cơm và một gói muối vừng. Chúng ta sẽ thọ
trai ở giữa đường. Cơm và vừng để ở trên bàn, gần cây đèn đó con.
Chú Pháp Đăng đi lấy từ trên vách am xuống một cái túi gai, bỏ mo
cơm và gói vừng vào đấy rồi đeo lên vai. Đại sĩ ra khỏi am. Ngài đợi
Huyền Trân và chú Pháp Đăng ra rồi nhẹ tay khép cánh cửa gỗ lại. Ba
người đi vòng ra phía sau am và bắt đầu leo lên một cái dốc. Đường
khó đi hơn trước, có những nơi đường dốc cheo leo nhưng Huyền Trân
nhận thấy đại sĩ vẫn leo trèo thăn thoắt. Hai chân ngài có vẻ còn
cứng cáp. Người mang theo một cây gậy trúc. Mười năm không hề lên
võng xuống kiệu, chắc ngài đã quen lắm với sự leo trèo trên những
con đường núi khó đi. Chú Pháp Đăng cũng leo trèo rất giỏi. Nhiều
lúc, chú phải đứng đợi nàng, hoặc đưa tay giúp nàng để nàng khỏi
trượt chân. Ba người đi tới am Trượng, Huyền Trân ngửi thấy mùi hoa
phảng phất. Đúng rồi, đây là mùi hoa mộc mà nàng rất quen thuộc.
Trước sân chùa Tư Phúc nàng đã từng hái hoa này cài lên tóc. Nhìn
lại, nàng thấy rất nhiều cây mộc trước am Trượng, cây nào cũng lốm
đốm hoa trắng.
- Chú Pháp Đăng, nàng gọi chú, lại đây xem những cây hoa mộc.
Chú Pháp Đăng lại gần nàng:
- Tất cả những cây hoa mộc này đều do đại sĩ trồng đó thưa chị. Ngài
trồng những cây này có lẽ vào năm em mới lên ba hoặc bốn tuổi.
Những cây hoa mộc đã lên cao quá đầu người. Hai người đi theo đại sĩ
về phiá trái của am. Tại đây, chú Pháp Đăng chỉ cho Huyền Trân thấy
hai cái am dựng gần nhau, một cái là am Thung, một cái là am Dược.
Chú cho nàng biết là tại các am ngày xưa ngự y thường lên đây để hái
thuốc và luyện thuốc. Am Thung là nơi để giả thuốc còn am Dược là
nơi để bào chế thuốc thành viên. Huyền Trân biết rằng thuốc luyện ở
đây là vừa để cho hoàng gia xử dụng vừa để cho triều đình cung cấp
cho dân chúng trong những mùa dịch lệ và đói lạnh. Nàng biết các
viên Hồng Ngọc Sương mà dân chúng khắp nơi đều biết tiếng đều được
chế luyện nơi đây. Vào những năm mất mùa, triều đình hay ủy các chùa
phát gạo cho người đói, và những gia đình có người bịnh thì được
phát hai viên Hồng Ngọc Sương. Huyền Trân đi vào am Dược thì thấy am
khá rộng. Trong am có những hộc gỗ, có lẽ để chứa đựng các món thuốc
khác nhau.
Nhưng đại sĩ đã giục hai người đi tiếp. Từ am Dược có đường mòn dẫn
lên am Tử Tiêu. Sau một hồi leo trèo, đại sĩ dừng lại, dạy hai người
ngồi nghỉ chân trên một khoang đất có đá, và có những khóm trúc mọc
xen kẻ giữa những tảng đá. Chú Pháp Đăng lấy cơm và muốn vừng dâng
lên đại sĩ. Ngài ngồi trên một tảng đá trong tư thế kiết già. Sau
khi mật niệm, ngài nhận cơm và muối rồi thong thả ăn từng miếng nhỏ.
Chú Pháp Đăng đưa cơm mời Huyền Trân. Đến phiên chú, chú cũng mật
niệm như đại sĩ trước khi ăn. Ăn xong, chú đi hái một tờ lá, uốn lại
thành hình một cái phễu rồi chạy ra dòng suối chảy ngang gần đó lấy
nước đem về dâng đại sĩ. Huyền Trân theo chú ra suối. Nàng quỳ gối
trên một phiến đá, cuối xuống vốc nước suối vào lòng bàn tay, rồi
đưa lên uống. Nước suối thật mát.
Huyền Trân nhìn xuống dòng nước nhỏ đang len lỏi qua sỏi đá, trong
suốt như pha lê. Lòng nàng bình thản một cách lạ. Nàng thấy không có
một sự lo sợ nào hoặc ước muốn nào có thể đến làm náo động sự bình
thản đó. Nàng biết là mình đang ở trên núi Yên Tử, cao gần tới đỉnh
núi, với người mà nàng yêu kính nhất. Người ấy là cha nàng, nhưng
cũng là người hiểu nàng hơn ai hết trên cuộc đời này. Có bao nhiêu
người trên đời hiểu được tâm sự của đại sĩ, nàng không biết. Nàng
chưa đọc hết những thư tịch mà Phụ hoàng sáng tác, nhưng nàng có cảm
tưởng là chưa chắc những kẻ đã được đọc hết các sách của ngài như
Thạch Thất Mỵ Ngữ, Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục và
Đại Hương Hải Ấn Thi Tập v.v... cũng không thể hiểu được ngài hơn
nàng.
Chợt Huyền Trân chú ý đến chú Pháp Đăng. Chú đã vốc nước uống rồi
và hiện tại chú đang ngồi bên bờ suối và hai tay chú khoát nước đùa
giỡn tinh nghịch trên mặt suối. Hình ảnh bàn tay chú đập mạnh vào
tâm não của Huyền Trân. Ngày xưa, vào tuổi chú, nàng cũng rất ham
đùa nghịch, nhưng chưa bao giờ nàng dừng lại và thấy được bàn tay
của mình một cách rõ rệt như buổi chiều cách đây hai năm, ngồi bên
bờ suối trước am Lân, được Phụ hoàng mở mắt cho. Giờ phút này, nàng
thấy được bàn tay của chú Pháp Đăng. Hai bàn tay kia là của chú,
nhưng chưa chắc gì chú đã thấy như nàng đang thấy. Chú là đệ tử của
đại sĩ, nhưng chắc là chú chưa được đại sĩ mở mắt cho để có thể nhìn
rõ được hai bàn tay của chú. Chú đi tu đã hai năm rồi. Hiện giờ chú
đang ở trong một thế giới thanh tịnh và an lạc mà chú nào có hay
biết. Chú đang nghĩ đến tương lai, chú đang cố gắng học đạo để ngày
mai có thể được như sư huynh Pháp Loa, ngồi trên pháp tọa, trước con
mắt kính ngưỡng của vua quan và trăm họ. Huyền Trân thấy con đường
chú đi còn dài quá, và trong lòng nàng, một mối thương cảm chợt nảy
sinh. Con đường dài không phải là chỉ dài cho một mình chú mà còn
dài cho cả chính nàng, bởi vì nàng nhận ra rằng chú và nàng không
phải là hai thực thể cách biệt.
Huyền Trân không ngờ là nhìn bàn tay chú tiểu nàng đã nghĩ tới
Dayada, con nàng. Mối thương cảm trong nàng dường như không phải chỉ
được phát sinh từ lòng nàng mà đã được phát sinh từ lòng người cha
yêu kính. Bàn tay của nàng còn đây, nhưng nàng cũng đã trao nó lại
cho đứa vừa đầy một tuổi của nàng. Dayada sẽ mang bàn tay ấy về đây,
và sẽ trao cho ai trong một tương lai mờ mịt? Và bàn tay của chú
Pháp Đăng nữa. Phụ hoàng đã trao sự thương yêu cho chú. Bàn tay của
chú tuy không cùng trong một huyết thống vẫn là bàn tay của ngài,
vẫn là bàn tay của nàng. Chỉ mới có một ngày thôi mà Huyền Trân đã
thấy yêu mến chú Pháp Đăng như yêu thương một đứa em ruột thịt của
nàng. Chưa chắc nàng đã thấy gần gũi với anh Quốc Chẩn của nàng hơn
là với chú tiểu vốn xuất thân từ một nhà dân dã. Huyền Trân bỗng cảm
thấy mình đã đi vào tương lai và trái tim của nàng cũng như bàn tay
của nàng đã lên đường, không có cách gì kéo chúng lại được. Nàng tự
nhủ là sẽ đem những điều nàng vừa cảm thấy để hỏi cha nàng, mong
rằng đại sĩ sẽ soi sáng, đường đi nẻo về của tâm ý nàng.
- Chúng ta đi thôi, các con.
Huyền Trân giật mình, ngưng dòng suy tưởng. Đại sĩ đứng dậy. Chú
Pháp Đăng cũng đã đứng dậy. Chú mang chiếc đãy gai lên vai. Chiếc
đãy bây giờ nhẹ nhõm.
Ba người theo con đường mòn đi thành một hàng, đại sĩ đi trước, và
chú Pháp Đăng đi sau nàng. Dốc tuy cao nhưng con đường quanh co nên
dễ đi. Huyền Trân để ý thấy có nhiều bụi trúc thật là xinh đẹp.
Thỉnh thoảng nàng lại nghe tiếng nước suối chảy róc rách. Đi một hồi
thật lâu nữa thì ba người lên tới am Tử Tiêu.
Đứng trên am nhìn xuống núi, cảnh tượng thật là kỳ tuyệt. Huyền Trân
thấy cả những đám mây bay phía dưới. Chú Pháp Đăng chỉ cho nàng thấy
núi Đông Cứu xa xa. Nhìn về bên phải, nàng thấy biển Nam Hải, eo
biển cong như hình một con ngao. Ở đây thật là cảnh tiên, nàng có
cảm tưởng là đã xa lánh được vĩnh viễn cõi hồng trần.
Đại sĩ nói với chú Pháp Đăng:
- Sư huynh Bảo Sát đi vắng. Con vào quét dọn bên trong và bên ngoài
am đi, rồi hãy pha trà.
Ngài quay lại bảo Huyền Trân:
- Bây giờ ta đưa con lên đỉnh núi.
Đại sĩ Huyền Trân đi vòng bên bàn tay trái để đi lên sau am. Con
đường mòn đưa dần lên đỉnh núi. Hai người đi hồi lâu thì tới một
ngọn đèo. Ở đây trúc mọc rất nhiều và trên đọt trúc lại có hoa. Đại
sĩ cho biết đây là đèo Hoa Trúc. Vượt lên đèo, Huyền Trân theo đại
sĩ lên tới đỉnh núi. Đỉnh núi rộng có tới mấy mẫu, trúc và đá chen
nhau. Trúc và đá phối hợp thành những cảnh tượng rất ngoạn mục. Lại
có cả hai cái ao sen. Các bông sen đã tàn, duy chỉ còn các gương sen
vươn thẳng trên mặt hồ.
Huyền Trân theo chân đại sĩ tới ngồi bên một phiến đá rộng, vuông và
phẳng. Nàng đã biết là nàng đang ngồi trên đỉnh cao nhất của núi Yên
Tử, bên cạnh người cha kính yêu của nàng. Nàng có cảm tưởng là hai
cha con nàng đã lên tới cõi trời. Người ta đồn rằng ở đây thỉnh
thoảng có các vị tiên trên trời bay xuống để đánh cờ và uống rượu.
Phiến đá vuông trên đó nàng đang ngồi với cha hẳn là bàn cờ của các
vị tiên.
Đại sĩ ít nói quá, nhưng nhìn vào khuôn mặt hiền từ và trầm lặng của
cha, Huyền Trân biết ngài rất vui được ngồi với đứa con thân yêu
trên đỉnh núi này. Ở đây chưa có am thất gì hết, nhưng chắc chắn là
đại sĩ đã từng lên đây nhiều lần. Sen ở dưới mấy cái ao nhỏ chắc
cũng đã do ngài trồng. Huyền Trân đứng dậy nhìn ra bốn phía. Nàng
chỉ thấy có trời xanh, và biển cả dàn trải phía xa. Những ngày có
mây trên đỉnh núi, có lẽ đứng dậy sẽ không nhìn thấy gì, kể cả trời
lẫn biển. Kinh thành Thăng Long nằm về phương Tây, nơi do anh cả của
nàng là vua Anh tông và triều thần đang cư trú, nắm giữ vận mệnh của
nước, nhưng mà ở đây, trên một phiến đá vuông là ông thầy tu mà toàn
dân thương kính. Ông thầy tu mà ngày xưa đã từng đuổi được quân Mông
Cổ phía Bắc, trấn an biên thùy phương Tây và đem khúc ruột của chính
mình cắt ra mà thiết lập tình hòa giải phương Nam. Ở đây không có
ngai vàng, không có thành quách, không có lính tráng. Chỉ có mấy cái
am tranh, nhưng mà ở đây có trái tim của đất nước, của đạo pháp,
Huyền Trân ngồi xuống và chiêm ngưỡng người cha già đáng kính.
Vừa lúc ấy, đại sĩ quay lại nhìn nàng, trên môi người thoáng một nụ
cười hiền hậu. Ngài nói:
- Ta muốn con được gặp sư huynh Bảo Sát của con sáng hôm nay, nhưng
con phải đợi thêm vài hôm nữa. Sáng nay sư huynh của con đã được ta
phái về kinh sư có chút việc.
Rồi ngài cho Huyền Trân biết sư huynh Bảo Sát phải về kinh đô gấp
rút như vậy là vì ngài đã nhờ sư huynh nhắn vua Anh Tông một việc.
Ngài đề nghị với vua Anh Tông cho người đưa ba trăm người Chiêm
Thành trả về nước họ, để gián tiếp xin lỗi về việc quan thượng thư
Trần Khắc Chung đã cướp Huyền Trân đem về Đại Việt.
- Sư huynh con sẽ tới kinh sư ngày mai. Ta có dặn là hãy để cho
những người Chiêm ấy về nước mà đừng tiếc, dù trong só đó có những
người thợ chuyên môn thật khéo, và ta cũng đã đề nghị với quan gia
là nên cho họ về bằng thuyền, và ủy trại chủ Châu hoá đưa họ đi. Ta
hy vọng việc này sẽ làm dịu bớt nỗi bất bình của người bên đó.
Huyền Trân xúc động, thì ra người cha yêu quý báu của nàng dù ngồi
trên đỉnh núi cao vẫn nghĩ đến tình chung thủy và nghĩa chu toàn.
Tại sao người im lặng như thế mà hiểu được cuộc đời một cách thâm
sâu như thế? Huyền Trân có cảm tưởng nàng không cần thổ lộ cho cha
một tí gì về nỗi lòng của nàng. Nàng không thấy sự cần thiết. Người
không hỏi nhưng người đã nhìn thấu. Chắc người cũng đã nhìn thấu
được sụ an lạc mới nảy sinh trong lòng nàng từ sáng hôm nay. Một
giọt nước chầm chậm hình thành trên mi nàng. Giọt nước mắt ấy, long
lanh như một hạt châu, đã lâu lắm mới đủ sức nặng để rơi xuống.
Huyền Trân mỉm cười thật nhẹ. Có lẽ đây là giọt nước mắt đầu tiên
của loài người đã rơi xuống trên phiến đá tiên, nhưng đây không phải
là một giọt lệ đau thương. Đây là một giọt lệ sung sướng.
Trang trước |
Trang kế
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường (Thích Nhất Hạnh) |
|

Lời nhà xuất bản
1. Chương 1
2. Chương 2
3. Chương 3
4. Chương 4
5. Chương 5
6. Chương 6
7. Chương 7
8. chương 8
9. Chương 9
10. Chương 10
11. Lời bạt
12. Niên biểu
|