Am mây ngủ
CHƯƠNG 5
Tối hôm đó, trong khi
Huyền Trân buông màn cho Thế tử Dayada ngủ. Thị Ngọc vào báo cho
nàng biết đoàn sứ giả Chiêm Thành đã về. Cả đêm Huyền Trân thao thức
không ngủ. Nàng mong ước sứ giả có đem về thơ của Thượng hoàng hay
của vua Anh Tông cho nàng. Sáng hôm sau, quan đại thần Bảo Lộc Kê
vào chầu vua Chế Chí. Chiều hôm đó, Thái hậu cho vời quan đại thần
vào cung để hỏi han. Sau khi uống hết chén trà Thái hậu ban, vị đại
thần tường thuật về chuyến đi. Ông nói là ông đã được vua Anh Tông
tiếp kiến và lưu lại kinh đô Thăng Long mười hôm. Sau đó vua cho
phái đoàn về nước và dặn rằng một sứ đoàn Đại Việt sẽ qua Chiêm
trong tháng tới để làm lễ hỏa đàn Hoàng hậu. Huyền Trân thất vọng
khi nghe vị đại thần nói là không có thư từ gì cho nàng.
Giữa tháng mười một, phái đoàn Đại Việt qua tới. Phái đoàn này gồm
có mười hai người do quan thượng thư Tả bộc xa là Trần Khác Chung
cầm đầu. Trong phái đoàn có bốn vị tăng sĩ Đại Việt. Bốn vị này,
theo sứ thần Đại Việt, là những vị sẽ tổ chức trai đàn cầu nguyện
cho vua Chế Mân theo nghi lễ Phật Giáo Đại Việt. Thái hậu
Paramesvari, tức là Huyền Trân, sẽ đứng ra làm chủ đàn. Sau khi trai
đàn hoàn tất, Thái hậu sẽ lên đàn hỏa. Cả hai trai đàn và hỏa đàn
đều được dựng trên bờ biển theo thủ tục Chiêm Thành.
Vua Chế Chí tiếp sứ thần Đại Việt và phê y cho việc lập trai đàn bên
cạnh hỏa đàn. Ngày khai đàn được chỉ định vào rằm tháng Chạp. Quan
thượng thư Trần Khắc Chung cũng đã được Thái hậu vời vào cung uống
trà. Trước mặt nhiều nữ quan và cung nhân Chiêm Thành, Thái hậu
không tiện hỏi nhiều về sự tình đất nước. Quan thượng thư tâu rằng
không có thư từ gì của Thượng hoàng cũng như của vua Anh Tông. Đêm
ấy Huyền Trân đã khóc một mình trong tẩm điện. Nàng không ngờ Phụ
hoàng và vua Anh Tông đã hờ hững với nàng như thế. Hoặc giả Thị
Khanh đã làm thất lạc những lá thơ của nàng? Dù sao Huyền Trân cũng
nhận thấy thái độ hơi khác thường của quan thượng thư Trần Khắc
Chung. Quan thượng thư trong khi nói năng vẫn lễ phép nhưng phong
cách của ông có vẻ rất xa lạ.
Ngày khai đàn đã tới. Vua Chế Chí ngự trên kiệu cùng với Hoàng hậu
ra dự trai đàn. Huyền Trân mặc y phục đại lễ của Hoàng thái hậu
Chiêm Thành. Ngồi trong kiệu của Huyền Trân có Thị Ngọc và một thị
nữ Chiêm Thành khác, tên là Ratna. Thế tử Dayada được các cung nữ ẵm
theo trong một chiếc kiệu che bằng lụa hồng, đi sau kiệu của Huyền
Trân. Trai đàn đã được thiết lập trang nghiêm có đủ cờ phướn và nhạc
cụ. Hỏa đàn đã được dựng sẵn toàn bằng gỗ trầm hương. Đám rước đông
có tới gần một vạn người. Huyền Trân được rước xuống thuyền cùng với
bốn vị tăng sĩ Đại Việt. Hai thị nữ cũng theo xuống với nàng. Thuyền
của Huyền Trân sẽ ra khơi làm lễ đón linh hồn của vị vua quá cố về
dự trai đàn. Quan thượng thư Trần Khắc Chung xin cho Thế Tử Dayada
được xuống thuyền với mẹ, nhưng vua Chế Chí không thuận. Ngài truyền
khiêng kiệu của Thế Tử tới bên kiệu của ngài.
Thuyền của Huyền Trân vừa rời bến thì các vị tăng sĩ bắt đầu đốt
nhang và tụng niệm. Giọng đọc kinh tiếng Việt làm Huyền Trân nhớ
nhà, rơi nước mắt. Thị Ngọc cũng bưng mặt khóc. Thuyền càng lúc càng
ra xa. Bây giờ là vào khoảng giờ Ngọ, mặt trời chói lọi trên đỉnh
đầu. Thuyền của Huyền Trân đã ra tới ngoài khơi; bốn người thủy thủ
Chiêm Thành kèm cho thuyền đứng yên trong khi các vị tăng sĩ làm lễ
chiêu hồn. Bỗng nhiên, không biết từ đâu, bốn chiếc thuyền nhẹ lướt
tới, trên chiếc nào cũng có bốn năm người thủy thủ. Huyền Trân nhận
ra đây là những thủy thủ người Đại Việt. Trong phút chốc bốn chiếc
thuyền nhẹ đã xáp lại vây quanh thuyền của Huyền Trân. Các thủy thủ
Đại Việt đã nhảy lên: Bốn người Chiêm lập tức bị kềm chế. Huyền
Trân, Thị Ngọc, người thị nữ Chàm và bốn vị tăng sĩ được chuyền rất
mau xuống các thuyền nhẹ. Người ta trói tay bốn người thủy thủ Chàm
và đặt họ nằm trong lòng thuyền. Lúc bấy giờ từ trong đất liền, một
chiếc thuyền khác cũng vừa ra tới. Huyền Trân nhìn kỹ thì thấy trên
thuyền có quan thượng thư Đại Việt và mấy vị tùy tùng. Phút chốc,
quan thượng thư và các vị tùy tùng cũng được đưa lên thuyền nhẹ. Bốn
chiếc thuyền lướt sóng như bay dưới những cánh tay lanh lẹ của các
thủy thủ. Huyền Trân biết rằng đây là một cuộc cướp người do sứ đoàn
Đại Việt tổ chức, thì ra vua Anh Tông đã sai quan thượng thư Trần
Khắc Chung vào cứu nàng. Quan thượng thư đã hành động một cách vô
cùng cẩn mật. Chính bốn vị tăng sĩ Đại Việt cũng không được biết một
chút gì về mưu lược này. Huyền Trân ngồi trên một chiếc thuyền với
hai người thị nữ, không ai nói với ai câu nào. Thị Ngọc hình như đã
hiểu được cớ sự, nhưng Ratna người thị nữ Chàm vẫn còn dương cặp mắt
kinh ngạc lên nhìn. Huyền Trân cầm lấy tay cô và bóp chặt cố ý cho cô
biết rằng cô không nên sợ hãi. Các thủy thủ vẫn ra sức chèo; bốn
chiếc thuyền cùng lướt sóng nhanh như những mũi tên bay về một
hướng. Bỗng Huyền Trân nhận thấy một chiếc thuyền lớn phía trước
mắt. Đây chắc là chiếc thuyền sẽ đưa nàng về Đại Việt. Các thủy thủ
thấy dáng thuyền đều hò reo và càng ra sức chèo. Trong giây lát cả
bốn chiếc thuyền nhẹ đều đã cặp vào hai bên hông chiếc thuyền lớn.
Từ trong thuyền lớn, các thủy thủ đã liệng thang dây xuống. Cuộc
chuyển người lên thuyền bắt đầu. Hai thủy thủ phía trên giúp Huyền
Trân leo lên, trong khi hai thủy thủ phía dưới sẵn sàng đỡ nàng.
Huyền Trân leo lên được trên thuyền thì hai thủy thủ đưa nàng ngay
vào trong khoang. Quan thượng thư Trần Khắc Chung đã lên tới trước
nàng. Đứng bên ông là một vị quan chức khác của triều đình Đại Việt.
Ông này cúi chào nàng và tự giới thiệu là An Phủ Sứ Đặng Vân.
Ratna và Thị Ngọc đều đã lên tới; bốn vị tăng sĩ cũng vậy. Thuyền
khá rộng, Huyền Trân và cả hai thị nữ được mời vào một khoang riêng.
Nhìn ra, Huyền Trân thấy thuyền đã bắt đầu cưỡi sóng lướt đi. Thị
Ngọc cho nàng biết các lá buồm trên thuyền đều đã được dựng lên;
căng phồng dưới sức gió. Các thủy thủ được lệnh cho thuyền đi với
tốc độ cao nhất để vượt thoát sự truy tầm của người Chiêm.
Nói chuyện với quan thượng thư chiều hôm ấy, Huyền Trân biết rằng
vua Anh Tông đã phái ông và An Phủ Sứ Đặng Vân vào để tìm cách cứu
nàng và đưa nàng cùng thế từ Dayada về Đại Việt. Hai người đã vặch
sẵn kế hoạch trước khi lên đường. Họ khởi hành từ giữa tháng mười,
đi đường bộ, và tới Thuận Châu thì dừng lại để hội ý với quan kinh
lược Đại Việt lưu nhậm. Chính tại đây mà phái đoàn sắm được thuyền
lớn, bốn chiếc thuyền nhẹ và tuyển được một đoàn thủy thủ thiện
nghệ. Quan An Phủ Sứ chịu trách nhiệm đưa đoàn thuyền từ cửa Thuận
An vào chực sẵn ngoài khơi cửa Thị lị bì nại, trá hình làm thuyền
ngư dân, và phái một thủy thủ người Chiêm vào để liên lạc với quan
thượng thư mà điều hợp thì giờ hành động. Kế hoạch đã không thành
công hoàn toàn như họ mong ước, vì họ không đưa được Thế tử Chế Đa
Gia cùng về.
Huyền Trân có cảm tưởng là mình không có quyền quyết định được gì
trong kế hoạch này. Đây là một kế hoạch của triều đình Đại Việt,
nàng bắt buộc phải tuân phục. Trong thâm tâm, nàng cảm thấy có một
cái gì đổ vỡ. Kế hoạch cướp người này chắc chắn sẽ gây nên ấn tượng
xấu về Đại Việt trong người dân Chàm. Niềm tin cậy của người Chiêm
sẽ chết theo sự ra đi này. Phụ hoàng của nàng chắc chắn không được
thông báo về kế hoạch này. Nàng biết nếu nàng có thể chấp nhận hỏa
đàn để giữ nguyên vẹn tình giao hảo Chiêm Việt thì Phụ hoàng nàng
cũng có thể chấp nhận sự đau xót kia để chu toàn ước nguyện hòa
bình. Anh Thuyên của nàng chắc đã nghe lời những vị triều thần như
Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung. Những người này làm gì có được trái
tim của Phụ hoàng. Họ khinh miệt dân Chàm, họ dòm ngó lãnh thổ Chàm.
Họ không làm sao thấy được cái đẹp của tình huynh đệ.
Hồi tưởng lại giây phút lên thuyền để ra khơi làm lễ chiêu hồn.
Huyền Trân bỗng giật mình. Nàng nghĩ rằng vua Chế Chí có thể đã biết
được kế hoạch của quan thượng thư Trần Khắc Chung, nhưng vua vẫn làm
lơ để cho nàng vượt thoát. Nội một việc vua truyền đưa Thế tử của
Chế Đa Gia đến gần vua cũng đủ chứng tỏ được điều ấy. Công chúa Đại
Việt có thể trả về cho Đại Việt, nhưng Thế tử Chiêm Thành phải ở lại
Chiêm Thành. Vua không nói, nhưng vua đã làm theo điều đó. Quan
thượng thư Trần Khắc Chung tưởng là đã đánh lừa được vua, kỳ thực
ông đã được vua cho phép hành động theo kế hoạch. Huyền Trân nhìn ra
trời biển phiá sau thuyền. Nàng biết rằng sẽ không có thuyền Chiêm
Thành đuổi theo. Nàng nghĩ đến bốn người thủy thủ Chàm bị trói nằm
trong lòng thuyền, và nàng mong ước rằng giờ này họ đã tự tháo gỡ
được dây trói để cho thuyền trở vào bờ. Nàng nghĩ đến đám quần chúng
đông đến gần một vạn người ngồi bên hỏa đàn và cảm thấy ruột nàng
đau thắt lại. Nàng nghĩ đến Thế tử Dayada, đến trái tim của nàng, để
lại trong lòng đất nước Chàm.
Thuyền đi êm đềm suốt đêm hôm ấy, và cả ngày hôm sau nữa. Nhưng giữa
đêm sau, một trận bão dữ dội nổi lên làm thuyền suýt lật nhào. Các
cột buồm đều bị gãy. Cả đêm, hai mươi thủy thủ trên thuyền chống cự
mãnh liệt với cơn bão. Ratna bình tĩnh, nhưng Thị Ngọc có khi hoảng
hốt ôm chặt lấy Huyền Trân. Cơn bão tiếp tục. Sáng hôm sau, các thủy
thủy cho thuyền ghé sát một con vịnh để tránh gió. Cơn bão kéo dài
đến bảy ngày bảy đêm. Thuyền bị thiệt hại nặng, không thể tiếp tục
cuộc hành trình. Quan An Phủ Sứ phái hai thủy thủ dùng xuồng nhẹ vào
bờ để để mua vật liệu sữa chữa thuyền, và đồng thời lấy thêm nước
ngọt và mua thêm thức ăn. Các thủy thủ này đều nói được tiếng Chàm.
May cho mọi người là thuyền lớn của họ có dáng dấp một ngư thuyền
Chiêm Thành nên đã không tạo nên nghi ngờ gì trong óc những người
người dân gần đó.
Thuyền phải đậu lại gần một tháng mới sữa chữa xong. Quan An Phủ Sứ
ra lệnh nhổ neo. Thuyền đi sáu hôm nữa thì tới được cửa Thuận.
Thuyền vào cửa được hai ngày thì mọi người lên bờ. Dù đây là lãnh
thổ mới của Đại Việt, đa số dân cư vẫn còn là người Chàm cho nên
Huyền Trân và các thị nữ đều phải cải dạng thường dân. Họ tìm tới
tạm trú tại dinh quan kinh lược sứ. Quan thượng thư Trần Khắc Chung
bàn tính kế hoạch gửi người về thành Phật Thệ để tìm cách bắt thái
tử Chế Đa Gia đem về. Ông nói ông chưa thể lên đường về kinh sư được
khi mà ông chưa hoàn tất nhiệm vụ vua Anh Tông giao phó. Mệnh lệnh
ấy là đưa công chúa và thái tử Chế Đa Gia về Đại Việt. Nay công chúa
đã qua được phía bên này biên giới, ông phải tìm cách đưa nốt Thế tử
qua. Ông bàn với quan An Phủ Sứ và kinh lược sứ về kế hoạch gửi người
về Chiêm, những người được gửi đi đều phải là người Chiêm, trung
thành với Đại Việt, để cho kế hoạch khỏi bị nghi ngờ. Huyền Trân
không biết ăn nói làm sao để quan thượng thư bỏ ý định trở về Vijaya
bắt cóc thái tử. Nàng thương con, nàng ao ước có Dayada trong tay
nàng để cưng chiều, để sung sướng, nhưng nàng thấy hành động bắt cóc
thế tử bất nhẫn quá và có tính cách khiêu khích quá. Thế tử Chế Đa
Gia thuộc về hoàng gia Chiêm Thành, từ trước đến nay bao giờ Huyền
Trân cũng nghĩ như thế. Nay nếu triều đình Đại Việt cho cướp thái tử
về thì dân Chiêm sẽ thấy là dân Việt tráo trở, thủ đoạn, không tôn
trọng lời cam kết. Huyền Trân không chịu đựng được ý tưởng đó, nhưng
nàng biết nàng không là gì cả trong một xã hội mà người đàn bà không
có quyền gì về mặt chính sự. Ai hiểu cho nàng ngoài Phụ vương của
nàng. Cuối tháng hai năm đó, một chiếc thương thuyền khởi hành từ
cửa Thuận, trên thuyền có tám người Chiêm đã được huấn luyện để về
Vijaya bắt cóc con nàng. Lạ quá, tuy Huyền Trân phản đối việc trở về
bắc cóc Thế tử Chế Đa Gia, trong lòng nàng lại phát sinh ra niềm hy
vọng là cuộc bắt cóc sẽ thành công để nàng có thể đoạt lại được cái
hạnh phúc làm mẹ. Huyền Trân cảm thấy giận mình vì cái niềm hy vọng
đó. Nàng thấy nàng đang đồng lõa với tính cách thủ đoạn và tráo trở
của hành động bắt cóc. Nàng chiến đấu với tự tâm, muốn loại bỏ ra
khỏi lòng nàng cái niềm hy vọng này, nhưng lạ thay, càng muốn đàn áp
nó, nàng càng thấy nó lớn lên. Nó mạnh hơn nàng. Nàng đau khổ vì
chính nàng. Cuối cùng nàng tự cho rằng lý do của sự yếu đuối đó nằm
ở sự kiện nàng chỉ là một người đàn bà. Mơ hồ trong tiềm thức, nàng
biết rằng đó chỉ là một sự tự bào chữa. Nàng là một người đàn bà
thật đấy nhưng không phải là một người đàn bà yếu đuối.
Thương thuyền khởi hành từ cuối tháng hai mà tói giữa tháng năm vẫn
không có tin tức trở về. Nóng ruột quá, quan thượng thư và quan An
Phủ Sứ gửi tiếp một đoàn lái buôn khác, lần này theo lộ trình đường
bộ, nhưng đến đầu tháng bảy vẫn không có tin tức của đoàn nào nhắn
về. Hiển nhiên là sứ mạng của cả hai đều đã thất bại, chưa chừng mọi
người đã bị bắt bớ và tù đày. Rằm tháng bảy năm ấy, quan thượng thư
và quan An Phủ Sứ quyết định bãi bỏ kế hoạch bắt cóc Thế tử Chế Đa
Gia. Ba chiếc thuyền được lập tức trang bị cho Huyền Trân và hai vị
đại thần trở về kinh sư. Đoàn tùy tùng gồm có hai mươi bốn người,
trong đó có cả Ratna và Thị Ngọc. Bốn vị tăng sĩ đã lên đường về
kinh sư từ trước ngày Phật Đản.
Kiệu đi ròng rã suốt hai mươi ngày mới về tới kinh đô Thăng Long.
Huyền Trân đã nhìn lại quê hương với những con mắt mới. Nàng luôn
luôn nhìn ra cảnh vật bên đường. Mỗi khi vượt đèo, qua sông, thấy
nước non cẩm tú, nàng không thể không nghĩ đến đất nước và dân tộc
Chiêm Thành. Đất nước kia và dân tộc kia cũng đã trở thành đất nước
của nàng và dân tộc của nàng. Người dân Chàm cũng như người dân
Việt, ở đâu cũng lam lũ, cần cù, đầy đủ sức chịu đựng và khao khát
hòa bình. Nhìn những mái tranh thấp thoáng sau lũy tre, nhìn những
đoàn thợ cấy lom khom trên ruộng lúa, nhìn những chú bé ngồi trên
mình trâu, nàng ao ước được rũ bỏ cái cốt cách vương giả của nàng để
có thể trở về sống đời sống dân dã của xóm làng. Nàng muốn tái sinh
trong một kiếp khác, thành một người dân quê. Có thể Phụ hoàng sẽ
giúp cho nàng toại nguyện.
Ngày mồng mười tháng tám, kiệu nàng về đến kinh sư. Về tới kinh sư
gặp
vua Anh Tông và Huệ Võ Đại Vương Quốc Chẩn, Huyền Trân được biết là
Tuyên Từ thái hậu, dì nàng, đã xuất gia vào ngày mồng tám tháng tư
năm ấy, Bà đã thọ Bồ Tát giới xuất gia tại chùa
Báo Ân ở Siêu Loại và hiện bà đang tu ở am Bình Dương gần chùa Sùng
Nghiêm ở tỉnh Hải Dương. Nàng cũng biết là kế hoạch dùng thuyền để
cướp nàng đem về Đại Việt là do quyết định của vua Anh Tông và của
triều thần. Thượng hoàng đã không được thông báo gì về việc này. Sau
một ngày nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe. Huyền Trân quyết định đi
thăm Thượng hoàng trên núi Yên Tử. Nàng định sau đó nàng mới về am
Bình Dương, ở Hạ Lôi thăm thái hậu.
Trang trước |
Trang kế
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường (Thích Nhất Hạnh) |
|

Lời nhà xuất bản
1. Chương 1
2. Chương 2
3. Chương 3
4. Chương 4
5. Chương 5
6. Chương 6
7. Chương 7
8. chương 8
9. Chương 9
10. Chương 10
11. Lời bạt
12. Niên biểu
|