Luật Hồng
Đức và
vấn đề dân chủ - tinh thần và thể chế
NHẬP ĐỀ
A) NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA VẤN ĐỀ VIỆT NAM
Nếu nghiên cứu một cách thấu đáo vấn đề Việt Nam, chúng ta có
thể nhận thấy những điểm NGHỊCH LÝ sau đây về mặt:
1) KINH TẾ XÃ HỘI Chỉ hơn một thập niên sau 1975,Việt Nam
bị xếp vào hạng một trong những nước nghèo nhất thế giới, trong
khi trước 1975, mặc dầu có tình trạng chiến tranh, nhưng có lẽ
nhờ có môt chút TỰ DO, nên miền Nam VN cũng đã đạt được mức phát
triển "ngang ngữa" với các nước láng giềng sau này trở thành
những "con Rồng Á Châu". Nay thì tình trạng KINH TẾ của Việt Nam
khá hơn trước, nhưng cũng còn lâu mới đạt được mức độ lý tưởng
của tiềm năng dân tộc.
2) QUÂN SỰ CHÍNH TRỊ Giới lãnh đạo CSVN ngày nay có thái
độ khúm núm, sợ sệt, cầu cạnh, đối với giới cầm quyền Bắc Kinh
để mong được giúp củng cố địa vị cá nhân, gia tăng quyền lực của
đảng Cộng sản, đến độ họ không ngần ngại bán đất, dâng biển của
Tổ Tiên để lạiï. Trong khi đó, Tiền Nhân ta, có lẽ nhờ được hun
đúc trong bầu khí Văn Hóa Truyền Thống nên có được tinh thần
"uy vũ bất năng khuất" như Trần Bình Trọng, hay oai hùng như Lý
Thường Kiệt với thành tích "Phá Tống Bình Xiêm", hay thao lược
như Trần Hưng Đạo đã đánh bại ba lần đạo quân Mông Cổ hùng mạnh
nhất thế giới đương thời, hay lẫm liệt như Nguyễn Huệ nhất
quyết đòi Trung Hoa phải trả lại hai tỉnh Lưỡng Quãng của Tổ
Tiên Lạc Việt v.v.
3) NGUỒN GỐC VĂN MINH Cách đây không lâu trở về trước, có
lẽ do tình trạng phôi thai của Khoa Học, cũng như dụng ý của
Thực dân Tàu rồi Thực dân Tây, người Việt bị mang tiếng là một
dân tộc chỉ chuyên HỌC MƯỚN VIẾT NHỜ. Trong khi đó, các khám phá
Khoa Học mới nhất cho thấy là Tổ Tiên chúng ta đã khai sinh ra
nền văn hóa Nông Nghiệp ĐẦU TIÊN của Nhân loại và đã giúp SÁNG
LẬP ra các nền VĂN MINH LỚN như Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà.
4) NHÂN QUYỀN DÂN CHỦ Một số ít các nhà quan sát cũng đã
bắt đầu hé thấy các điểm MÂU THUẪN nêu trên. Nhưng còn những
điều NGHỊCH LÝ sau đây trong lãnh vực NHÂN QUYỀN DÂN CHỦ thì rất
ít người nhận biết, và nếu có biết đến thì cũng có lẽ chưa có ai
thấy đúng tầm mức quan trọng của vấn đề.
Thật vậy, trong khi nhà cầm quyền CSVN ngày nay bị các cơ quan
Nhân Quyền Quốc Tế "lên lớp" trong các bản phúc trình hàng năm
của họ về mặt vi phạm Nhân Quyền và đàn áp Chính Trị và Tôn
Giáo, thì có ai ngờ rằng vào khoảng hơn 500 năm trước đây, trong
khi hầu hết toàn thể Nhân loại đang ở trong tình trạng dã man,
mông muội thì Tổ Tiên chúng ta đã thành tựu được bộ QUỐC TRIỀU
HÌNH LUẬT còn được gọi là LUẬT HỒNG ĐỨC, mà sau khi được phân
tích đối chiếu với các tiêu chuẩn NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ và các điều
khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, chúng ta sẽ ngạc nhiên một
cách thú vị là không những các quy định nằm trong Luật Hồng Đức
về mặt nhân bản và nhân đạo tiến bộ bỏ xa luật pháp của các nước
Đông Á và Tây Phương ít ra là bốn thế kỷ, mà còn VƯỢT QUA ở một
số điểm cả Hiến Chương Liên Hiệp Quốc lẫn Luật Pháp Tây Phương
ngày nay.
B) NHÂN QUYỀN VÀ DÂN CHỦ
Nghiên cứu Bộ Luật Hồng Đức về khía cạnh Nhân Quyền có lẽ cũng
là dịp tốt để bàn về vấn đề Dân Chủ. Lý do là như chúng ta có
thể nhận thấy trong thời cận đại, nền DÂN CHỦ Tây Phương đã
thành hình SONG SONG với việc tranh đấu cho những QUYỀN căn bản
của người DÂN và hai ý niệm NHÂN QUYỀN và DÂN CHỦ thường đi đôi
như hình với bóng.
Vây nên, nếu nền LUẬP PHÁP VN qua Bộ LUẬT HỒNG ĐỨC đã ĐI TRƯỚC
Nhân Loại ít nhất 4 thế kỷ về mặt NHÂN QUYỀN thì có lẽ một hiện
tượng tương tự cũng đã xảy ra về khía cạnh DÂN CHỦ. Nhưng có lẽ
phát xuất từ tinh thần VỌNG NGOẠI của đa số trong giới Trí Thức
VN do ảnh hưởng nặng nề của thời kỳ Thực Dân Đô Hộ gần đây, các
PHONG TRÀO TỰï DO DÂN CHỦ VIỆT NAM hôm nay để giải quyết các vấn
đề thiết cận của mình, của dân tộc mình, có vẻ CHỈ trông chờ
giải pháp đến từ BÊN NGOÀI, mà không đếm xỉa gì đến NỘI LỰC của
mình, của nền Văn Hóa TỔ TIÊN để lại.
Để bổ túc sự THIẾU SÓT rất trầm trọng nêu trên, chúng tôi sẽ đề
cập đến TƯƠNG QUAN giữa LUẬT HỒNG ĐỨC và vấn đề DÂN CHỦ dưới hai
khía cạnh TINH THẦN và THỂ CHẾ. Nhưng trước đó, chúng tôi xin
được lướt qua sự HÌNH THÀNH của nền DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG.
I) SỰ HÌNH THÀNH CỦA NỀN DÂN
CHỦ TÂY PHƯƠNG
A) LỊCH SỬ
Chúng ta thường nghe nói Lịch Sử của nền Dân Chủ Tây Phương bắt
nguồn từ ba cuộc CÁCH MẠNG Anh Quốc (1642), Hoa Kỳ (1776) và
Pháp Quốc (1789).
B) NGUỒN GỐC
Về nguồn gốc xa xưa của nền Dân Chủ Tây Phương, thì người ta
thường nghĩ đến ảnh hưởng của HY LẠP và LA MÃ. Nhưng ngay nền
Cộng Hòa LA MÃ cuối cùng cũng đã trở thành ĐỘC TÀI CHUYÊN CHẾ
khi La Mã trở thành ĐẾ QUỐC.
Khi thời Trung Cổ chấm dứt với sự lớn mạnh của giai cấp Thương
Gia Trung Lưu giàu có, thì tại Âu Châu nẩy sinh một khuynh hướng
muốn làm sống lại các Giá Trị Dân Chủ kiểu Hy Lạp, La Mã trong
thời PHỤC HƯNG (Renaissance) và sau đó trong thời CẢI CÁCH
(Reformation).
C) THẾ KỶ ÁNH SÁNG
Nhưng ảnh hưởng quyết liệt nhất đối với sự ra đời của nền Dân
Chủ Tây Phương có lẽ bắt nguồn từ thế kỷ XVIII còn được gọi là
THẾ KỶ ÁNH SÁNG (le Siècle des Lumières) với các Triết Gia hay
Chính Trị gia sau đây:
1) LOCKE Locke quan niệm CHỦ QUYỀN không thuộc về Nhà
Nước, mà về NGƯỜI DÂN. Và Quyền hành của NHÀ NƯỚC bị ràng buộc
bởi luật "Tự nhiên" hay Dân luật. Nhiều ý tưởng của Locke về
quyền Tự Nhiên, quyền Tư Hữu, về Trách Nhiệm của Nhà Nước, về
luật của Đa Số được đưa vào Hiến Pháp của Hoa Kỳ.
2) VOLTAIRE Voltaire tố cáo tất cả những hình thức MÊ
TÍN, ĐÀN ÁP, KỲ THỊ ở mọi lãnh vực. Ông chủ trương ĐẠO ĐỨC phải
được dựa trên các nguyên tắc TỰ DO TƯ TƯỞNG, TÔN TRỌNG THA NHÂN.
3) MONTESQUIEU Montesquieu được biết nhiều với chủ trương
TAM QUYỀN PHÂN LẬP (Séparation des Pouvoirs): Lập Pháp, Hành
Pháp, Tư Pháp, nhằm bảo đảm TỰ DO và các QUYỀN của CÁ NHÂN.
4) ROUSSEAU Nổi tiếng về mặt CHÍNH TRỊ với tác phẩm "Khế
Ước Xã hội"( le Contrat Social), Rousseau bênh vực cho TỰ DO CÁ
NHÂN chống lại các loại ĐÀN ÁP đến từ Nhà Nước và Giáo Hội.
5) FRANKLIN Về mặt CHÍNH TRỊ, Franklin gây ảnh hưởng cũng
như chịu ảnh hưởng của các triết gia, tư tưởng gia, lãnh tụ cuộc
Cách Mạng Pháp.
6) JEFFERSON Là nhân vật Hoa Kỳ sáng giá nhất của Thế kỷ
Ánh Sáng, mà ba công việc quan trọng nhất trong sự nghiệp CHÍNH
TRỊ của Jefferson là các vận đông của ông về việc thiết lập một
hệ thống GIÁO DỤC CÔNG LẬP, soạn thảo TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP của Hoa
Kỳ và Đạo Luật về TỰ DO TÔN GIÁO tại Tiểu Bang Virginia.
Phần trình bày trên đây phản ảnh lối nhìn thông thường của đa số
những người bàn về vấn đề DÂN CHỦ ngày nay. Theo họ, NGUỒN GỐC
Dân Chủ phát xuất từ TÂY PHƯƠNG, gần thì từ thế kỷ XVIII, còn xa
thì từ HY LẠP, LA MÃ. Nhưng nếu nghiên cứu một cách thấu đáo,
nghiêm chỉnh hơn thì chúng ta có thể nhận thấy vấn đề không chỉ
đơn giản như vậy !
II) ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRÊN
TƯ TƯỞNG CỦA THẾ KỶ ÁNH SÁNG
Thật vậy, G. LANSON, người sáng lập ra khoa Lịch Sử Văn Học PHÁP
có nhận xét sau đây: "Giữa năm 1692-1723 trong giai cấp thượng
lưu xã hội Pháp xuất khởi một ý thức xã hội và một tinh thần cải
cách MÀ TRƯỚC KIA CHƯA CÓ NHƯ VẬY BAO GIỜ"
A) SỰ THAY ĐỔI TƯ DUY TRONG XÃ HỘI TÂY PHƯƠNG
Theo Lanson, cuộc biến đổi đó gồm 6 điểm đặc biệt sau đây:
1) Nhu yếu suy tư cách rõ ràng mạch lạc căn cứ trên sự
kiện và kinh nghiệm chống với thiên kiến hay quyền lực. Chỉ tìm
chân lý vì chân lý.
2) Lấy lương tâm làm tòa án tối cao độc lập ngoài giáo
điều. Như thế mỗi người có thiện chí ở mọi nơi, không phân biệt
nòi giống hay tôn giáo, đều có những nguyên tắc luân lý cốt yếu
như nhau và cá nhân có quyền xét đoán cái gì là tốt, cái gì là
xấu cho mình. Nói chung, cái tốt là những cái gì trung bình
(không thái quá, không bất cập).
3) Tốt lành và khoái trá trở nên đồng cư, người ta không
thể khử trừ mà chỉ nên hướng dẫn dục vọng, nhấn mạnh đến việc
hưởng lạc thú ở đời. Những xét đoán đặt căn cứ ngoài thế giới
đều biến mất.
4) Không nên theo Rousseau mà tìm cầu sự tốt nơi tuyền
dã. Nhưng phải tìm trong nền văn minh và văn hóa.
5) Triết lý lạc thú được mở rộng cho tới triết lý hỗ
tương: người ta phải cảm thức rằng có giúp cho người khác hạnh
phúc thì mình mới được hạnh phúc.
6) Nhân Ái được thay cho Bác Ái
B) SỰ DU NHẬP NHO GIÁO VÀO XÃ HỘI TÂY PHƯƠNG
Cả 6 điểm của triết lý nước Pháp ở thế kỷ XVIII vừa kể trên,
theo Cố Triết Gia KIM ĐỊNH, đều giống một cách lạ lùng tinh thần
của NHO GIÁO NGUYÊN THỦY.
Thời mà Lanson nhận là thời xẩy ra biến đổi, tức từ năm
1680-1715, lại chính là thời mà Nho Giáo Nguyên Thủy được giới
thiệu thực sự với công chúng Pháp. Bản dịch Nho Giáo đầu tiên
xuất hiện vào năm 1662 và nhiều bản dịch khác tiếp theo mấy chục
năm sau.
Năm 1685, phái đoàn bác học Dòng Tên do vua Louis XIV cử tới
Trung Hoa, từ đấy luôn luôn có những thư dài và sách dịch hoặc
xuất bản được gởi riêng cho các nhà bác học nổi tiếng nhất.
Những tài liệu đó sẽ làm nền cho các sách xuất bản các năm sau
để giới thiệu với Âu Châu về Khổng Tử, nhiều hơn khi nào hết.V.
Pinot có nhắc đến ngót 200 sách và báo trong khoảng thời gian kể
trên.
Hậu quả là theo nhận xét của Gs H. CREEL, "Bên Âu và cách riêng
bên Pháp, tất cả những phương pháp suy tư đã bị biến thiên trong
hai thế kỷ XVII, XVIII. Và sau sự biến trạng đó thì nền tư tưởng
Tây Âu trở nên giống Viễn Đông trong nhiều khía cạnh. Sự biến
dạng cũng như trở nên giống nhau không phải chỉ có hời hợt bên
ngoài."
Còn theo Học giả V. PINOT, có ba điều làm cho giới trí thức Âu
Châu thế kỷ XVI, XVII chú ý đến Trung Hoa:
1)TRUNG HOA ĐÔNG DÂN: Nếu mối bận tâm của các chính phủ
ngày nay là nạn nhân mãn, thì trái lại, từ thế kỷ XVIII trở về
trước, mối lo đầu tiên của nhà cầm quyền là làm sao cho dân được
đông đúc.Đang lúc bên Tây Âu dân số cứ trụt lùi thì bên Tàu dân
đông vô kể. Điều đó đã làm cho người ta thán phục chính phủ
Trung Hoa và thầm ước bắt chước.
2)VẮNG BÓNG HÀNH KHẤT: Điểm thứ hai làm cho các du khách
phải ngạc nhiên là trong đám đông đúc đó, vắng bóng hành khất.
Đang khi đó, số hành khất đã trở nên đông đảo và lang thang trên
khắp ngả đường Âu Châu và trở nên mối bận tâm của mọi chính
quyền lúc đó.
3)TRUNG HOA PHONG PHÚ SUNG TÚC: trong khi Âu Châu lại
nghèo nàn.
Mỗi người giải thích khác nhau về sự kiện mà tất cả ai nấy đều
đồng ý: Tàu là một dân sung sướng và phồn thịnh. Và đó là nhờ
nền LUÂN LÝ và CHÍNH TRỊ TUYỆT HẢO CỦA HỌ.
Có người giải thích bằng lòng cương trực của các quan đại thần
không sợ liều mạng can gián vua. Người thì cho là tại chính sách
CỬ HIỀN DỮ NĂNG, tức hễ người nào có TÀI ĐỨC thì có thể ra LÀM
QUAN, không kể đến xuất xứ hay dòng tộc.
Và vì bấy giờ Tây Phương chưa biết bí quyết làm đồ sứ, và đồ lụa
còn thô sơ hơn của Trung Hoa rất nhiều, nên lắm người cho là TÀU
GIỎI HƠN TÂY.
C) THÁI ĐỘ CỦA GIỚI ĐẠI TRÍ THỨC TÂY PHƯƠNG
Còn nếu bước sang phạm vi VĂN HÓA TRIẾT HỌC thì người Tây Phương
thời đó còn gặp nhiều lý do hơn để thán phục.
1) TRÍ THỨC ĐỨC Triết gia LEIBNITZ rất mừng rỡ khi vào
năm 1887, vua Khang Hy cho phép các Thừa sai được tự do truyền
bá Ky Tô giáo bên Tàu. Ông viết: "Chúng ta cần họ gửi cho chúng
ta những nhà Hiền Triết và Chính Trị gia để họ dạy lại ta phép
Cai Trị và tất cả khoa Thần Học Tự Nhiên mà họ đã đẩy đến một
mức độ hoàn bị cao viễn dường ấy".
2) TRÍ THỨC PHÁP
a) VOLTAIRE viết: "Nếu bao giờ có một thời kỳ hạnh phúc
nhất và đáng kính nhất trên Trái Đất này thì đó là thời kỳ người
ta theo luật cai trị của Khổng Tử" và " Hiến pháp của Trung Hoa
thật ra là hoàn hảo nhất trên thế giới….là môt nước duy nhất khi
mà quan cai trị tỉnh phải thuyên chuyển nếu không được dân hoan
hô…"
b) QUESNAY và nhóm "Physiocrates" nhấn mạnh đến lãnh vực
GIÁO DỤC với chế độ THI CỬ của VIỄN ĐÔNG được người Âu Châu thời
đó hoan nghênh nhiệt liệt vì được xem như lá cờ TIÊN PHONG cho
BÌNH ĐẲNG và DÂN CHỦ.
c) CÁC TRÍ THỨC PHÁP KHÁC Hầu như không có một tác giả
nào thời đó mà không nhắc đến Trung Hoa:
MONTESQUIEU nhắc đến một cách ÔN HÒA.
ROUSSEAU tuy ghét Tàu về mặt LỄ NGHI phiền toái, nhưng khen Tàu
về mặt CÔNG BÌNH và CAI TRỊ.
D. HELVÉTIUS trong quyển "De l'Homme à la Sciencse
Philosophique"
DIDEROT trong "Encyclopédie" (article "Chinois") đều nhắc tới……
Và biết bao lời nồng nhiệt khiến gây thành một trào lưu sùng mộ
Triết Trung Hoa với khẩu hiệu "INOCULER AUX FRANCAIS L'ESPRIT
CHINOIS"(= Tiêm tinh thần TÀU vào cho PHÁP".
3) TRÍ THỨC ANH
a) Chủ trương của QUESNAY trong lãnh vực GIÁO DỤC có ảnh
hưởng rất lớn đối với giới Trí thức ANH thời đó. Năm 1731, dân
biểu EUSTACE đề nghị là nước ANH nên thâu nhận chế độ THI CỬ của
TRUNG HOA.
b) Năm 1762, dân biểu O. GOLDSMITH cũng dùng các lý luận
của ông Eustace để đả kích gắt gao chế độ Đẳng Cấp Quý Phái thế
tập bên Anh. Nhờ những cuộc vận động ráo riết đó nên cuối cùng
chính phủ ANH ĐÃ CHẤP NHẬN PHÉP THI CỬ THEO LỐI TRUNG HOA.
4) TRÍ THỨC HOA KỲ
a) FRANKLIN Năm 1767, khi sang Pháp đã làm quen với Tư
tưởng của QUESNAY mà ông sẽ dùng sau này trong các lãnh vực
GIÁO DỤC và HIẾN PHÁP.
b) JEFFERSON: đặc biệt chú trọng đến Tư tưởng của
QUESNAY. Năm 1779, ông đưa ra dự án CẢI TỔ toàn diện hệ thống
GIÁO DỤC HOA KỲ theo tinh thần và thể thức của TRUNG HOA và VIỄN
ĐÔNG. Trước đó, năm 1776 ông đã có dịp đọc những dòng sau đây
của VOLTAIRE: " Trí khôn loài người không thể tưởng tượng ra
được môt chính phủ tốt hơn….bởi vì các phần tử quan lại chỉ được
thâu nhận sau nhiều đợt khảo thí nghiêm nghị". Bàn về hệ thống
THI CỬ của TRUNG HOA, ít nhất có hai quyển đã nằm trong tủ sách
của JEFFERSON: một của DU HALTE, một của L. LECOMTE với lời lẽ
như sau:"Quyền quý không bao giờ mang tính cách kế thừa và không
có sự phân biệt nào khác giữa dân chúng ngoài sự phân biệt do
chức vụ mà họ đang thi hành"và"ømôt khóa sinh dẫu là con một nhà
thường dân cũng có thể nuôi hy vọng lên đến chức Khâm Sai hay cả
chức Tể Tướng như những sinh viên con nhà thế lực vậy".
Phần trình bày trên đây cho thấy ảnh hưởng lớn lao của NHO GIÁO
trên các Triết Gia, Chính Trị gia của thế kỷ XVIII thường được
mệnh danh là những người CHA TINH THẦN của nền DÂN CHỦ TÂY
PHƯƠNG như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Franklin,
Jefferson…..qua nội dung của nền TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ của Nho Giáo
còn được gọi là VƯƠNG ĐẠO.
III) VƯƠNG ĐẠO HAY TINH THẦN
DÂN CHỦ TRONG NHO GIÁO
A) NỘI DUNG VƯƠNG ĐẠO
Nói vắn tắt thì Vương Đạo dùng ĐỨC TRỊ, còn Bá Đạo dùng LỰC TRỊ:
"Dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương"
1) CỬ HIỀN Trước câu hỏi: "Quyền bính thuộc về ai? Người
có tài đức hay võ lực? Hoặc dòng tộc?
VƯƠNG ĐẠO chủ trương quyền bính thuộc người HIỀN ĐỨC: "Tôn hiền,
sử năng, tuấn kiệt tại vị". Đó là lập trường đối lập với quan
niệm "Kế thừa huyết thống của Thượng Đế" của Quý Tộc Đông cũng
như Tây xây trên Thần Thoại với chế độ Kế Tử "cha truyền con
nối", kể cả trong hàng quan lại.
Theo nguyên tắc trên, Khổng Tử chỉ chú trọng tới TÀI ĐỨC mà
không kể đến Dòng Tộc. Về việc Trọng Cung có TÀI mà không được
đắc dụng chỉ vì thuộc tầng lớp thường dân, thì theo Khổng Tử,
Trọng Cung không những nên cử làm QUAN, mà cả đến làm VUA: "Ung
giả khả sử nam diện".
Trong dòng tư tưởng đó, Khổng Tử chủ trương QUAN CAI TRỊ, VUA
KIỂM SOÁT, tức sự QUAN TRỌNG đặt nơi QUAN, chứ không nơi Vua:
"Dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ"(= Quan phải trung với Đạo, chứ
không trung với cá nhân vua). Quan niệm trên sau này được Mạnh
Tử đặt nổi với câu"Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh"
2) GIÁO CHI Chủ trương CỬ HIỀN TÀI như trên thật đúng là
TINH THẦN DÂN CHỦ, chỉ chưa có phổ thông đầu phiếu. Nhưng bù
lại, ông đã cố gắng BÌNH DÂN HÓA VIỆC HỌC, cố gắng giật cái độc
quyền học thức ra khỏi tay phái quyền quý để mở rộng ra với quần
chúng:" Hữu giáo vô loại"(= trong việc giáo hóa, không có phân
biệt giai cấp quý tiện sang hèn)
Ở phần trên chúng ta đã thấy là mãi đến khoảng giữa thế kỷ XIX,
các nước Âu Mỹ mới bắt chước chế độ THI CỬ của VIỄN ĐÔNG để mở
cửa giáo dục cho toàn dân!
3) PHÚ CHI Muốn cho dân nhờ giáo dục thì phải có của dư
giả mới tìm ra thì giờ nhàn rỗi mà đi học. Và không có Triết Gia
nào tha thiết về vấn đề làm giàu dân bằng Mạnh Tử: "Dân khả sử
phú dã". Đó cũng là lý do tại sao Khổng Tử đặt "Phú chi" trước
"Giáo chi" và ngược lại với Pháp Gia, Khổng Tử chủ trương "làm
giàu Dân", chứ không phải" làm giàu Chúa": "Bá tánh bất túc,
quân thục dữ túc"(= Bá tánh không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai).Và
tất cả Triết Lý Chính Trị của Nho Giáo đặt trên Nguyên Tắc Căn
Bản sau đây: "Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân"(= Không lo ít của
cho bằng lo chia của không đều).
4) LỄ TRỊ Con người hễ đã "giàu có thì sinh lễ nghĩa",
nhân vị cao lên. Bởi vậy tiếp theo chương trình "Giáo chi, Phú
chi", Khổng tử chủ trương LỄ TRỊ vì theo Ông "Dùng chính trị
hình luật mà cai trị thì dân mới biết có tránh phạm luật.Dùng
đạo đức và lễ nhạc mà cai trị thì dân mới trau dồi nhân cách".
5) CHỮ TÍN Lễ Trị là một lối cai trị tôn trọng người dân,
coi người dân như người cộng tác với chính quyền. Đã nói đến
cộng tác thì chữ TÍN là cần: "Thượng háo Tín tắc dân mạc cảm bất
dụng tình"(=Nếu người trên Thành Tín thì không ai không hết
lòng". Đã TÍN thì coi Ý DÂN làm trọng. Trong ba vấn đề "Túc
thực, túc binh, dân tín chi hĩ"(= lương thực cho đủ nuôi dân,
binh lực cho đủ bảo vệ dân, lòng tin cậy dân đối với mình) thì
Khổng Tử cho chữ TÍN là quan trọng hơn cả vì "Dân vô tín bất
lập"(= dân không tín nhiệm thì chính quyền hết đứng nổi).
B) ĐỐI CHIẾU VƯƠNG ĐẠO VỚI TINH THẦN DÂN CHỦ NGÀY NAY
Khi đem 5 nguyên tắc căn bản trên đây của nền VƯƠNG ĐẠO của Nho
Giáo để so sánh với Tinh thần Dân chủ Ngày nay mà nội dung đã
được học giả Charles Merriam xác định, thì Gs H. CREEL cho rằng
Khổng Tử đã áp dụng được tất cả các khoản trừ khoản Ý DÂN hay
"Phổ Thông Đầu Phiếu" vì theo ông " đấy là một điều chưa có dân
nào lúc đó dám nghĩ tới". Do đó, ông kết luận: Tuy chưa có thể
chế Dân Chủ, mà sự cải tổ của Khổng Tử đã mang tự thân TINH
THẦN DÂN CHỦ. Còn Triết Gia H. Keyserling thì cho rằng ngay
khoản Ý DÂN cũng được Nho Giáo thực thi bằng lối "Đầu Phiếu
Trường Ốc"(=Scrutin d'école), tức khoa THI CỬ.
C) LÝ DO ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO BỊ LÃNG QUÊN
Tại sao một trào lưu mạnh mẽ đã gây ảnh hưởng đến thế lại bị lu
mờ để cuối cùng người Tây Phương quên đi ảnh hưởng của Nho Giáo
trên sự thành hình của nền Dân Chủ Tây Phương ở thế kỷ XVIII. Có
2 loại lý do:
1) LÝ DO THỜI THẾ Sau khi Cách Mạng Pháp thành công đạp
đổ nền Quân Chủ thì các phe phái tại Tây Phương không còn cần
dùng Trung Hoa để bênh vực cho lập trường Chính Trị của họ nữa.
Nhưng lý do chính cốt nằm trong vấn đề THUỘC ĐỊA và KHOA HỌC.
Nhờ có những thuộc địa nên tài nguyên được quy tụ về Âu Châu gây
dựng nền Tư Bản. Tư Bản giúp cho kỹ nghệ có phương tiện phát
triển và đem lại cho Âu Châu sự giàu sang phồn thịnh, khiến nẩy
sinh nơi người Tây Âu mặc cảm tự cao là tài trí hơn các dân khác
mà họ đã chinh phục được.
Tự đấy người ta quên hẳn ảnh hưởng của Trung Hoa hay có nói đến
là để tỏ dấu khinh thị một tình trạng ứ đọng. Mà quả thật, sau
hai đời Khang Hy và Càn Long thì nước Tàu đi xuống giốc để cuối
cùng bị các cường quốc Âu Mỹ đến thao túng, xâu xé, rồi đâm ra
khinh dể
2) LÝ DO NỘI TẠI Tuy nhiên, sự suy tàn của Nho Giáo trong
giai đoạn vừa qua không chỉ vì lý do THỜI THẾ, mà còn có những
nguyên nhân NỘI TẠI nữa. Thật vậy, vào thế kỷ XVII, khi các Giáo
sĩ Dòng Tên được vua Louis XIV cử qua Tàu, nhờ được vua Khang Hy
trọng đãi, nên họ được nghiên cứu Nho Giáo đến tận nguồn. Đó là
Nho Giáo Nguyên Thủy, Nho của TAM CƯƠNG: Trí, Nhân, Dũng, Nho
"DÂN VI QUÝ" của Mạnh Tử là loại Nho Giáo đã ảnh hưởng đến những
người Sáng Lập ra nền Dân Chủ Tây Phương như Voltaire,
Montesquieu, Rousseau, Franklin, Jefferson….
Còn trong thực tế, Nho Giáo của các Vương Triều Trung Hoa không
còn giữ được
tính chất Tinh Tuyền như vậy. Chẳng hạn:
a) Ở thời Huyền Sử, Nho VIÊM VIỆT của Si Vưu đã bị Nho
HOA TỘC của Hoàng Đế lấn áp.
b) Kế đến, nhà CHU đốt sách nhà THƯƠNG Nông Nghiệp và du
nhập các yếu tố DU MỤC của nền văn minh Lưỡng Hà (Perse,
Assyria) như các ý niệm THIÊN TỬ, LUẬT HÌNH, HOẠN QUAN, PHONG
KIẾN.
May là sau đó, Nho Giáo được KHỔNG TỬ phục hưng thành nền VƯƠNG
ĐẠO.
c) Còn nhà TẦN thì "Đốt sách chôn Nho" với sự thắng thế
của phe PHÁP GIA.
d) Đến nhà HÁN bề ngoài có vẻ tôn Nho nhưng trong thực tế
lại lập tháp Thạch Cừ nhằm xuyên tạc Nho như chẳng hạn giải
nghĩa Nho theo kiểu ma thuật có lợi cho chính quyền chuyên chế,
hạ giá đạo Hiếu để đề cao "trung quân". Đó là Nho loại TAM TÒNG
của Đổng Trọng Thư.
e) Nho VƯƠNG TRIỀU còn tiếp tục SA ĐỌA với các nhà MINH,
TỐNG, THANH.
IV) LUẬT HỒNG ĐỨC VÀ NỀN DÂN
CHỦ VIỆT
Phần trình bày trên cho thấy một mặt là muốn tìm ra TINH THẦN
DÂN CHỦ chân thựcï, chúng ta phải biết vượt qua HÁN NHO và các
loại Nho của các VƯƠNG TRIỀU để trở về với nền VƯƠNG ĐẠO của NHO
GIÁO NGUYÊN THỦY mà người đại diện ưu tú nhất là KHỔNG TỬ. Nhưng
mặt khác, Khổng Tử lại nói:"Thuật nhi bất tác"(=Ta không sáng
tác gì, mà chỉ thuật lại Đạo của người xưa). Ở chỗ khác, ông hé
cho chúng ta thấy "người xưa" đó là người ở phương Nam:"Nam
phương chi cường giả, quân tử cư chi".
Mặt khác, vì Dân Chủ và Nhân quyền đi đôi như hình với bóng như
trường hợp nền Dân Chủ Tây Phương đã thành hình sau bản Tuyên
Ngôn Nhân Quyền của cuộc Cách Mạng 1789, do đó trước khi bàn về
nền DÂN CHỦ VIỆT có lẽ cũng nên đề cập đến khía cạnh
A) NHÂN QUYỀN TRONG LUẬT HỒNG ĐỨC
1) SƠ LƯỢC Năm 1483 vua Lê Thánh Tôn cùng với một số quan
đại thần biên soạn bộ THIÊN NAM DƯ HẠ gồm 100 quyển viết về việc
chính là Hình Luật. Bộ luật được đặt tên là QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT
và thường được gọi là LUẬT HỒNG ĐỨC, gồm 722 điều khoản liên hệ
tới nhiều lãnh vực luật pháp. Chẳng hạn bàn về:
2) QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CON TRAI VÀ CON GÁI, GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
a) SO SÁNH VỚI LUẬT TRUNG HOA
- VỀ NHÂN THÂN Luật Hồng Đức định rằng nếu người
chồng bỏ bê vợ mình vì si mê một người đàn bà khác hay vì bất cứ
lý do gì (trừ khi thi hành công vụ) mà kéo dài tới năm tháng hay
một năm nếu có con, thì người vợ có thể kiện chồng.
Đặc biệt là những lý do này không có trong luật Trung Hoa và các
nước Đông Á khác.
- VỀ TÀI SẢN Theo điều 88 của ĐẠI THANH LUẬT LỆ,
chỉ con trai được hưởng quyền chia tài sản của cha mẹ. Còn theo
điều 78, khi người đàn bà lấy chồng thì tất cả tài sản riêng của
mình kể cả tài sản mình tự tạo lập ra hay nhận của cha mẹ ruột
của mình, đều phải sáp nhập hết vào gia sản của nhà chồng. Nếu
ly dị hay cải giá, người đàn bà phải rời nhà chồng với hai bàn
tay trắng, không lấy được các tài sản riêng mà mình mang đến cho
gia sản của nhà chồng.
Trái lại, LUẬT HỒNG ĐỨC cho con gái được thừa kế ngang hàng với
con trai. Và cho người đàn bà có chồng tiếp tục làm chủ tài sản
riêng của mình. Khi ly dị hay cải giá, người đàn bà có chồng có
quyền lấy lại các tài sản riêng của mình.
b) SO SÁNH VỚI LUẬT TÂY PHƯƠNG ĐỒNG THỜI
- VỀ TÀI SẢN Trong khi LUẬT HỒNG ĐỨC cho vợ chồng
hoàn toàn BÌNH ĐẲNG VỀ HÔN SẢN thì tại Mỹ, mãi tới năm 1890
nhiều tiểu bang mới sửa đổi và một số tiểu bang vần còn áp dụng
học lý Femme Couverte của Thông Luật, theo đó NGƯỜI VỢ LÀ VẬT SỞ
HỮU CỦA CHỒNG và không có quyền pháp lý đối với lợi tức do chính
bà kiếm ra cũng như đối với con cái và tài sản của bà, trừ khi
hai vợ chồng ký hôn khế trước đặt tài sản của họ dưới chế độ
giám hộ(trust).
- TỔNG QUÁT Trong khi người phụ nữ VIỆT ở thế kỷ
15â, có quyền tư hữu tài sản ngang hàng với chồng và giữ vai trò
quan trọng trong gia đình cũng như ngoài xã hội, thì mãi tới thế
kỷ 18 ở Âu Châu và thế kỷ 20 ở Mỹ, địa vị pháp lý của người đàn
bà TÂY PHƯƠNG còn thấp trong cả gia đình lẫn ngoài xã hội. Cao
trào phụ nữ (Feminism) chỉ thực sự lên cao tại Mỹ vào thập niên
1960 và thu thành quả tích cực vào những năm 1990.
Luật Hồng Đức còn tiến bộ hơn luật Tây Phương ít ra là 4 thế kỷ
ở chỗ đã dãnh cho đàn bà quyền tham gia công vụ (làm quan) và dự
liệu rằng NỮ QUAN được ưu đãi trong thủ tục thiết triều. Sự Tiến
Bộ của luật Hồng Đức còn được thấy qua:
3) QUYỀN BÌNH ĐẲNG CHỦNG TỘC
a) NỘI DUNG Luật Hồng Đức tìm cách loại bỏ mọi Hình Thức
Phân Biệt Chủng Tộc bằng 3 biện pháp sau đây:
- Sắc dân thiểu số được XÉT XỬ theo TỤC LỆ CỦA HỌ nếu vụ kiện
chỉ liên hệ tới những người trong cùng một sắc tộc.
- Luật Hồng Đức còn cho phép sắc tộc thiểu số được quyền TỰ TRỊ
HÀNH CHÁNH bằng cách đặt ra các CHÂU (ngang cấp HUYỆN của người
Kinh) do chính người Sắc Tộc giữ chức Tri Châu cai trị.
- Luật Hồng Đức cũng đảm bảo các quyền kinh tế và văn hóa của
các sắc tộc bằng cách cho họ TỰ DO CANH TÁC không hạn chế diện
tích các vùng đất hoang (điều 348), TRỪNG PHẠT QUAN QUÂN triều
đình nào SÁCH NHIỄU hay cướp bóc người sắc tộc (điều 72).
b) SO SÁNH VỚI LUẬT TÂY PHƯƠNG Mãi đến năm 1965, với đạo
luật Quyền Bầu Cử, tất cả mọi người Da Đen tại Mỹ mới bình đẳng
đầy đủ về Chính Trị. Trước đó 5 thế kỷ, Luật Hồng Đức đã dành
cho Sắc dân Thiểu Số Quyền BÌNH ĐẲNG đó rồi.
B) LUẬT HỒNG ĐỨC VỚI HIẾN CHƯƠNG LHQ
Về các QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA, Luật Hồng Đức đã VƯỢT
QUA Hiến Chương LHQ. Thật vậy, hiện nay các nước Hội Viên LHQ
KHÔNG BỊ BÓ BUỘC phải thực thi những quyền ấy ở mức độ định
trước, vì việc thực hiện bị giới hạn bởi mức khả dụng của tài
nguyên quốc gia. Trái lại, Luật Hồng Đức xem những QUYỀN ấy là
THỰC SỰ mà NHÀ NƯỚC có nghĩa vụ phải ĐẢM BẢO cho những người thụ
hưởng luật định bằng cách TRỪNG PHẠT QUAN CHỨC KHÔNG THI HÀNH.
1) VỀ QUYỀN KINH TẾ Luật Hồng Đức đảm bảo cho người dân
4 thứ quyền kinh tế được ghi nơi điều 25 bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền của LHQ:
a) Quyền An Sinh Xã Hội (Social Security)
b) Quyền được săn sóc Sức Khoẻ (Medical Care)
c) Quyền không bi bỏ đói (Freedom from Hunger)
d) Quyền Tư Hữu.
2) VỀ QUYỀN XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA Giống như các Tiêu Chuẩn
Nhân Quyền LHQ
a) QUYỀN GIA ĐÌNH Luật Hồng Đức đảm bảo 3 quyền chính:
- Quyền Thuận Tình kết hôn và lập một Gia Đình
- Quyền Bình Đẳng Dân Sự giữa Vợ Chồng (đã bàn ở trên)
- Quyền Bà Mẹ và Trẻ Em được săn sóc và bảo hộ.
b) QUYỀN TỰ DO GIÁO DỤC: Luật Hồng Đức đảm bảo:
- Quyền hưởng Cơ Hội Đồng Đều
- Quyền Tự Do mở trường Dạy Học
- Quyền Tự Do chọn Trường Học và Thầy Học.
C) LUẬT HỒNG ĐỨC VỚI LUẬT PHÁP TÂY PHƯƠNG NGÀY NAY
Về mặt NHÂN QUYỀN, Luật HỒNG ĐỨC còn VƯỢT QUA ở một số điểm như
sau:
1) Án Tử hình phải được nhà Vua duyệt xét rồi mới thi
hành.
2) Vua Minh Mạng chẳng hạn, thường bảo rằng mạng người
rất quý nên các quan chức xữ án phải xem xét án Tử Hình nhiều
lần, dẫu cho nhà Vua đã xem qua. Và phải tâu lại nếu thấy còn
chỗ nghi ngờ.
3) Đặc biệt, phụ nữ không bị án tử hình.
Các điều vừa nêu trên không có trong Luật Pháp Tây Phương ngày
nay.
V) CÁC NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN
DÂN CHỦ VIỆT
A) THỂ CHẾ DÂN CHỦ VIỆT
Phần trình bày trên cho chúng ta thấy tính chất TIẾN BỘ VƯỢT BỰC
của LUẬT HỒNG ĐỨC khi so với Luật TRUNG HOA và nhất là Luật TÂY
PHƯƠNG cùng thời. Ngay khi so sánh với Hiến Chương LHQ và Luật
Pháp Tây Phương NGÀY NAY về khía cạnh NHÂN QUYỀN thì Luật Hồng
Đức cũng VƯỢT QUA ở một số điểm. Do đó, chúng ta sẽ không còn
ngạc nhiên, nếu Tiền Nhân ta đã thiết lập được một THỂ CHẾ thực
sự DÂN CHỦ từ thời rất xa xưa.
1) DÂN CHỦ LÀNG XÃ Nền DÂN CHỦ VIỆT phát xuất từ môi
trường LÀNG XÃ, như Học Giả PAUL MUS đã nhận xét: "Làng Việt Nam
là một cái gì kỳ diệu, vì trong đó người ta sống hoàn toàn BÌNH
ĐẲNG, cũng như là một tổ chức cai trị tuyệt vời".
2) SO SÁNH CƠ CẤU LÀNG XÃ VIỆT VỚI THỂ CHẾ DÂN CHỦ NGÀY NAY
a) CƠ CẤU CHÍNH TRỊ
Tổ chức LÀNG XÃ VIỆT xưa cũ đã ngàn năm nhưng có đủ THỂ CHẾ và
CƠ CHẾ của một xã hội DÂN CHỦ HIỆN ĐẠI. HỘI ĐỒNG KỲ MỤC bao
gồm:
- các Khoa Bảng Chức Sắc
- các Cựu Lý Dịch
Khoa Bảng là người đỗ đạt, biết nhiều hiểu rộng. Chức Sắc là
những người đã từng có chức vụ trong xã hội, tức vừa có kinh
nghiệm vừa có vai vế trong xã hội.. Vậy KHOA BẢNG, CHỨC SẮC
trong Hội Đồng Kỳ Mục tương đương với giới Quý Tộc trong Hội
Đồng QUÝ TỘC ANH (House of Lords).
HỘI ĐỒNG KỲ MỤC quyết định mọi việc tương đương với QUỐC HỘI
trong một quốc gia. LÝ DỊCH ĐƯƠNG THỨ do dân bầu lên, tương
đương với một ỦY BAN CHẤP HÀNH, có nhiệm vụ XỬ LÝ và ĐIỀU HÀNH
các việc thông thường, nhưng phải chịu mệnh lệnh của TIÊN CHỈ và
THỨ CHỈ (Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch Hội Đồng Kỳ Mục). Khi mãn
nhiệm, Lý Tưởng và Phó Lý vẫn còn là thành viên của Hội đồng Kỳ
Mục.
Trong Ủy Ban Chấp Hành, ngoài hai chức LÝ TƯỞNG và PHÓ LÝ có thể
so sánh với các chức THỦ TƯỚNG và PHÓ THỦ TƯỚNG ngày nay, còn
các chức khác như TRƯƠNG TUẦN tương đương với bộ QUỐC PHÒNG,
HƯƠNG BẠ lo các vấn đề Hôn Thú, Sinh Tử tương đương với bộ NỘI
VỤ, HƯƠNG BẢN lo về TÀI CHÁNH.
Hội Đồng Kỳ Mục quyết định mọi việc trọng đại nhưng cũng không
thể vượt qua giới hạn xác định bởi một Hiến Chương đã được dân
chấp nhận từ xưa gọi là HƯƠNG ƯỚC. Vậy Hương Ước chính là HIẾN
PHÁP của một LÀNG.
Ngoài ra, từ nhà Lý trở đi mỗi triều đại đều có lập những cơ
quan có nhiệm vụ phê phán những sai trái của triều đình, gọi là
NGỰ SỬ ĐÀI hay ĐÔ SÁT VIỆN có thể so sánh với TỐI CAO PHÁP VIỆN
ngày nay.
Chế độ CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ tương đương với thể chế WELFARE ngày
nay đặc biệt với QUỸ NGHĨA THƯƠNG quyên góp hằng năm để giúp các
thành phần gặp tai ương như Cô Nhi, Quả Phụ, Bô Lão… hoặc dùng
làm "Học Bổng" cho các Thư Sinh Ưu Tú.
Cơ cấu tổ chức của LÀNG XÃ VIỆT vừa được trình bày trên đây RẤT
GIỐNG với THỂ CHẾ DÂN CHỦ NGÀY NAY. Còn hai điểm ĐẶC SẮC và TÂN
TIẾN khác là chế độ TẢN QUYỀN và TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG
b) TẢN QUYỀN GS J.Mc.Alister thuộc Đại học Stanford có
viết về vấn đề này như sau:" Chính Quyền Trung Ương Việt Nam
thời trước có thể giữ các nhu cầu về Ngân Sách ở mức độ thấp, và
xử dụng quyền KIỂM SOÁT của Trung Ương đối với Địa Phương, nhưng
loại quyền này KHÔNG có tính chất HÀNH PHÁP, vì trách nhiệm thi
hành các biện pháp trong từng chi tiết nằm trong thẩm quyền của
Làng Xã. Trung Ương PHỐI HỢP chứ KHÔNG ĐIỀU KHIỂN! Một đặc sắc
khác của đời sống Làng Xã là Thể Chế
c) TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG bao gồm việc mỗi Xã TỰ CHỈ ĐỊNH lấy
XÃ TRƯỞNG có nhiệm vụ điều khiển công việc của Xã và đại diện Xã
đối với quan trên. Triều đình không cần biết đến từng cá nhân
trong Xã, và chỉ cần ấn định mỗi năm Xã phải cung cấp bao nhiêu
thuế, bao nhiêu người làm xâu, bao nhiêu người đi lính. Xã chỉ
cần cung cấp đủ số tiền và người cho Triều Đình, còn sự phân
phối cho dân Xã chia ra chịu mỗi người một phần là việc riêng
của Xã.
Tự Trị Xã Thôn còn được quãng diễn qua câu PHÉP VUA THUA LỆ LÀNG
được thấy qua các trường hợp cụ thể như việc áp dụng các HƯƠNG
ƯỚC nhằm ấn định phương pháp làm việc của Xã theo Nguyên tắc của
Thánh Hiền: Về mặt này, Xã TỰ ẤN ĐỊNH nội dung của HƯƠNG ƯỚC
theo Tục Lệ của Địa Phương chứ không bắt buộc phải theo Nghi
Thức của Triều Đình.
d) CHÍNH SÁCH KINH TẾ Một đặc điểm khác của Làng Xã VN
khi xưa là chế độ BÌNH SẢN mà nét đặc trưng có thể làm nổi bật
qua việc so sánh với hai chế độ TƯ BẢN và CỘNG SẢN.
Nói cách chung, chủ nghĩa TƯ BẢN thì quá TƯ RIÊNG, còn CỘNG SẢN
thì quá CÔNG CỘNG, mà điều trên là hậu quả của nền Văn Hóa MỘT
CHIỀU của TÂY PHƯƠNG, còn Văn Hóa Việt Nam vì chủ trương HAI
CHIỀU như "Âm-Dương", "Thiên-Địa" nên với thể chế BÌNH SẢN
chẳng hạn, Tiền Nhân ta quan niệm là phải có sự QUÂN BÌNH giữa
ĐẤT CÔNG và ĐẤT TƯ. Một mặt, người Nông Dân VN trước kia được
quyền SỞ HỮU trên bình diện PHÁP LÝ, mặt khác, những thành phần
KHÔNG có đất TƯ thì cứ định kỳ được Làng Xã cấp cho một phần đất
CÔNG để cày bừa, trồng trọt và hưởng phần hoa lợi do công lao
mình tạo ra, tránh được khủng hoảng do tâm lý tiêu cực "của CÔNG
là của CHÙA" gây ra, đã dẫn tới THẤT BẠI KINH TẾ và sự SỤP ĐỔ
của chế độ CÔNG SẢN.
Ngoài ra, cũng khác với TƯ BẢN NGUYÊN THỦY, vì quá đề cao cái TƯ
RIÊNG, và với chủ trương quyền TƯ HỮU TUYỆT ĐỐI, nên để thiểu số
ưu đãi thống trị và chiếm hữu phần lớn tài sản của quốc gia, đã
gây ra những bất công trầm trọng là nguyên nhân của sự ra đời
của phong trào CỘNG SẢN, thể chế BÌNH SẢN đã dự trù những biện
pháp TRÁNH tình trạng ĐỘC QUYỀN của giai cấp Thống Trị trên tài
sản quốc gia, như cách thức được áp dụng dưới thời Vua Minh Mạng
chẳng hạn, chính phủ Trung Ương canh chừng giới Hào Mục tự tiện
BIẾN đất CÔNG thành đất TƯ, hay phương thức mua lại số đất tư
thặng dư của Tư Nhân để QUÂN BÌNH với số đất CÔNG hiện hữu hoặc
như tập tục của Làng Xã VN trước đây nhằm khuyến khích giới Hào
Phú Xã Thôn chia xẻ của cải giàu sang với các thành phần khác
không được may mắn như họ.
Cách tổ chức LÀNG XÃ như trên có thể xem là hội đủ phần lớn các
TIÊU CHUẨN của một XÃ HỘI TIỀN TIẾN ngày nay. Nhưng nếu ta nhớ
lại rằng Thể Chế này đã được phát minh ra từ thời mà nông nô Âu
Châu bị bóc lột đến xương tủy thì ta mới đánh giá đúng mức trình
đột TIÊN TIẾN của XÃ HỘI VIỆT.
B) TINH THẦN DÂN CHỦ VIỆT
1) NGUỒN GỐC NỀN DÂN CHỦ VIỆT
Theo chủ thuyết VIỆT NHO của Cố Triết Gia KIM ĐỊNH hình thành
vào thập niên 1960 và được kiện chứng sau này bởi những khám
phá Khoa Học Tân Tiến nhất thì Bách Việt vào đất Trung Hoa trước
Hoa Tộc và đặt nền móng đầu tiên cho Nho Giáo. Do đó, Tổ Tiên
LẠC VIỆT đã khai sáng ra nền Văn Minh NÔNG NGHIỆP ĐẦU TIÊN của
Nhân Loại tại Đông Nam Á, nên có Truyền Thống DÂN CHỦ LÂU ĐỜI.
Còn Hoa tộc tuy vào sau nhưng vì là dân DU MỤC nên mạnh về QUÂN
SỰ, ép dần về phương Nam nước Trung Hoa, các bộ tộc Bách Việt mà
Lạc Việt là một thành phần và Việt Nam là nhóm đại diện cuối
cùng của VƯƠNG ĐẠO tức nền DÂN CHỦ theo tinh thần NHO GIÁO, mà
hai đặc tính nền tảng là :
a) NHÂN BẢN tức lấy CON NGƯỜI làm trung tâm cho mọi suy
tư lo lắng, cũng như bàn về những chuyện thiết yếu đến TỰ DO,
NHÂN PHẨM và HẠNH PHÚC của con người xét nguyên về phương diện
là người.
b) TÂM LINH tức KHÔNG tự GIAM hãm mình trong những phạm
trù HỮU HÌNH nhưng luôn luôn vươn tới NGUỒN SỐNG mênh mông PHỔ
BIẾN đang ngầm chảy trong VŨ TRỤ và làm MỐI QUÁN THÔNG cho mọi
tư tưởng thâm sâu nhất của Triết Lý Đông Phương.
2) NGUỒN GỐC NỀN DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG Phần trình bày trên
cũng cho thấy ẢNH HƯỞNG LỚN LAO của NHO GIÁO ở thế kỷ XVIII trên
những người CHA TINH THẦN của nền DÂN CHỦ Tây Phương như
Voltaire, Rousseau, Montesquieu, Franklin, Jefferson…và qua họ
Nho Giáo đã đóng góp vào đời sống mới của Nhân loại những tư
tưởng BÌNH ĐẲNG, TỰ DO, HUYNH ĐỆ PHỔ BIẾN….hoặc chế độ THI CỬ
cũng như ba NGUYÊN LÝ đang hướng dẫn đời sống ÂU CHÂU hiện đại:
a) Tìm Hạnh Phúc ở Trần Gian
b) Quyền Làm Cách Mạng của Dân
c) Nền Luân Lý Công Dân
Nhưng có lẽ lý do kỳ thị chủng tộc, hay thiên kiến tôn giáo hoặc
ý hệ….khiến người Tây Phương chấm dứt sự khai thác thấu triệt
nền Minh Triết NHO GIÁO bao gồm hai khía cạnh NHÂN BẢN và TÂM
LINH vừa nêu trên. Thực vậy, với ảnh hưởng của Nho Giáo ở thế kỷ
XVIII, người Tây Phương mới chỉ đi được những bước đầu tiên ở
phạm vi NHÂN BẢN Xã Hội, chứ CHƯA đạt tới bình diện TÂM LINH.
Do đó, tuy bề ngoài người Tây Phương đã có thể chế Dân Chủ, đã
có nhiều luật lệ bảo vệ Nhân Phẩm và Tự Do con người, nhiều tổ
chức xã hội chăm lo đến những nỗi bất công hay những cảnh huống
bi thảm trong xã hội….nhưng đó có vẻ chỉ là hậu quả của sự Thịnh
Vượng của nền Kinh Tế Tây Phương kiểu "GIÀU SANG SINH LỄ NGHĨA
chứ các điều nêu trên KHÔNG thực sự phát xuất từ nội dung VĂN
HÓA.
Và đây là điểm NGHỊCH LÝ NỀN TẢNG của văn minh TÂY PHƯƠNG ngày
nay, vì bên trong người Tây Phương hiện đang mắc loại bệnh "MẤT
HỒN", rơi vào sự "TRỐNG RỖNG", "HƯ VÔ"(Nihilism)…….khiến các
quốc gia ÂU CHÂU hiện nay chẳng hạn phải dành phần chi phí cao
nhất của ngân sách của họ cho lãnh vực TÂM THẦN. Điều này chứng
tỏ sự KHỦNG HOẢNG TRẦM TRỌNG của nền văn minh TÂY PHƯƠNG !
Thực vậy, không dễ gì một sớm một chiều mà các dân tộc Tây
Phương có thể rủ bỏ ÁC QUẢ 25 thế kỷ của nền văn hóa DUY LÝ mà
bộ ba Triết Gia HY LẠP Socrates, Plato, Aristotle là đồng tác
giả.
C) SO SÁNH NỀN DÂN CHỦ VIỆT VỚI DÂN CHỦ LA-HY Và để hiểu
rõ tất cả giá trị của nền DÂN CHỦ VIỆT, hãy thử so sánh với nền
Dân Chủ LA-HY là một trong những nguồn gốc của Dân Chủ TÂY
PHƯƠNG ngày nay.
1) NỀN DÂN CHỦ KIỂU LA-HY Ở HY LẠP, LA MÃ xưa, chỉ có từ
10% đến 20% người TỰ DO có đặc ân thờ cúng Tổ Tiên vì họ cho là
tổ tiên của họ mới có máu Thần Linh. Điều trên rất quan trọng vì
có quyền cúng tế Tổ Tiên, tức cũng là có quyền làm CÔNG DÂN với
các quyền lợi theo sau như quyền được hưởng đất, mua sắm, đi
học…Còn 80 đến 90% dân chúng LA-HY là Nô Lệ. Các triết gia Tây
Phương như Plato, Aristotle… lại còn chứng minh và bênh vực chế
độ Nô Lệ, coi như là điều cần thiết cho nền móng xã hội.Do đó,
nạn người bóc lột người từ NÔ LỆ La-Hy chuyển qua NÔNG NÔ thời
Trung Cổ, rồi qua giới THỢ THUYỀN Âu Châu của thế kỷ XIX với số
phận rất là bi đát.
Đó là lý do làm nẩy sinh phong trào CỘNG SẢN mà hiểm họa diệt
vong khiến giới TƯ BẢN phải nhượng bộ một phần nào trước những
đòi hỏi của giới Thợ Thuyền Tây Phương. Và những bất công mà
trước kia giới này phải gánh chịu, nay được chuyển qua các dân
Nhược Tiểu. Ta mới thấy tính chất ĐẠO ĐỨC GIẢ của những người
làm Chính Trị như Henry Kissinger, bề ngoài tuy nhân danh Dân
Chủ Tây Phương, nhưng bên trong lại "đi đêm" và ủng hộ các chế
độ Độc Tài, chuyên chế đàn áp người dân của họ tại các nước
Nhược Tiểu. Các triết gia Tây Phương thời mới như Hobbes,
Darwin, Machiavel, Hegel…vẫn biện hộ cho việc dùng võ lực để
chiếm đoạt và bóc lột các dân nhược tiểu.
Do đó nếu nền Dân Chủ LA-HY trước kia dành cho thiểu số được gọi
là CÔNG DÂN, thì nền Dân Chủ TÂY PHƯƠNG ngày nay có vẻ chỉ dành
cho thiểu số các dân tộc DA TRẮNG.
2) NỀN DÂN CHỦ VIỆT Trái lại, ở đất VIỆT có lẽ nhờ có
cuộc CÁCH MẠNG TÂM LINH nâng tục thờ cúng Tổ Tiên lên thành Lễ
GIA TIÊN với bài vị VĂN TỔ, nên hễ ai là NGƯỜI thì đương nhiên
có đủ quyền đứng ra tế GIA TIÊN, nên tục thờ cúng Tổ Tiên hết
còn là đặc ân dành cho quý tộc như ở các nơi khác thời xưa, mà
trái lại Lễ GIA TIÊN ở đất VIỆT được mở rộng ra cho khắp mọi
tầng lớp với các quyền lợi đi kèm như quyền được đặt tên tự, và
do đó quyền được hưởng công điền, quyền được đi học, đi làm
quan…
KẾT LUẬN
Tóm lại, nền Dân Chủ TÂY PHƯƠNG vì bắt nguồn từ những thúc bách
bên ngoài thuộc các lãnh vực CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI, KINH TẾ… mà
KHÔNG thực sự phát xuất từ nền tảng TRIẾT LÝ và VĂN HÓA nên vẫn
chứa đựng rất nhiều điểm nghịch lý, MÂU THUẪN.
Trái lại, nền Dân Chủ VIỆT có lẽ nhờ bắt nguồn từ cuộc Cách Mạng
TÂN THẠCH Nguyên Thủy của Tổ Tiên Lạc Việt, có tính chất VĂN
MINH-VĂN HÓA thực sự nên đạt được MINH TRIẾT TOÀN DIỆN với tính
chất Nhất Nguyên LƯỠNG CỰC.
Do đó, nền DÂN CHỦ VIỆT tương lai phải là nền NHÂN - DÂN CHỦ
Đích Thực vừa trung thành với NGUỒN CỘI của NHÂN, nhưng
vừa lại có tính chất KHAI PHÓNG Tiên Tiến của DÂN. Và Thể
Chế DÂN CHỦ VIỆT sau này sẽ không chỉ là PHÁP TRỊ, mà là LỄ
PHÁP SONG HÀNH, tức vừa là LỄ TRỊ vừa là PHÁP TRỊ, nên dung
hòa được hai nhu yếu trong con người: đó là Trật Tư Xã Hội qua
PHÁP LUẬT và nét Riêng Tư độc Đáo qua LỄ TỤC.
Lê Việt Thường
-----------------------------
CHÚ THÍCH
(1) Encarta, 1995 Ed.
(2) & (4) & (5) Pinot, Vigil, "La Chine et la Formation de
l'Esprit Philosophique en France (1640-1740), Ed. De Paris, 1932
(3) & (9) & (25) Creel, Herrlee G., "Confucius and the
Chinese Way",Harper, N.Y. 1960
(6) & (10) Voltaire (1694-1778), "Dictionaire Philosophique",
Londres,1767
(7) Kim Định, "Cửa Khổng", Lĩnh Nam, Louisiana, USA, 1997,
tr.239
(8) Idem, tr.224
(11) & (12), LeComte, Louis (1655-1728), "Histoire Générale de
la Chine"
(13) Đoàn Trung Còn, "Mạnh Tử IIa.3, Trí Đức Tòng Thơ, in kỳ 3,
SàiGòn, 1950
(14) MT IIa.5
(15) Đoàn Trung Còn, "Mạnh Tử VI.1, Trí Đức Tòng Thơ, in kỳ 2,
SàiGòn, 1950
(16) LN: XI.23
(17) MT: VIIb.14
(18) LN: XV.38
(19) MT: VIIa.23
(20) LN: XII.9
(21) LN: XVI.1
(22) LN: II.3
(23) LN: XIII.4
(24) LN: XII.7
(26) LN: Hudson, Geoffrey F., "Europe and China, A Survey of
Their Relations from the Earliest Times to 1800", E. Arnold,
London, (1961),c (1931)
(27) Hoàng Xuân Hào, "Nhân Quyền trong Luật Hồng Đức: Niềm Tự
Hào Dân Tộc", Thế kỷ 21, số 113, th. 9/1998, tr. 28-33
(28) Nguyễn Ngọc Huy, "Quốc Triều Hình Luật", Canada, 1998
(29) & (31), Paul Mus & John McAlister, "Les Vietnamiens et leur
Révolution", Du Seuil, 1972
(30) & (34) Phạm Khắc Hàm, "Triết lý Lý Đông A", Nhóm Diễn Đàn
Địa Lý
(32) Nguyễn Ngọc Huy, "Di Cảo V" tr.42,44
(33) Lê Việt Thường, "Con Đường Nào Cho Việt Nam Hôm Nay", Tham
Luận DHVH 2005, San Jose, USA
(35) Kim Định, "Cửa Khổng", Lĩnh Nam, Lousiana, USA, 1997,
tr.261
Ngươi không phải là một tạo sinh, mà là sự biểu hiện |
|