Ðại cương
Phật giáo Đại thừa (tiếp theo)
Ba
bản tính
Ba bản tính hoặc thuật ngữ người học Phật dùng là Tam tính, Tam
tự tính (trisvabhava) là cách phân chia đặc điểm của thực tại
theo Duy thức tông. Trong khi nhìn vào triết học Ðại thừa, chúng
ta đã nói tới khái niệm Tự tính (svabhava), nghĩa là tính tự
hiện hữu hoặc cố hữu và do đó được xem như tồn tại một cách độc
lập và thường trực. Chúng ta cũng đã đơn giản hoá khái niệm
Không tính (sunyana) của Trung quán tông bằng cách tóm tắt rằng
vạn vật không tính nghĩa là vạn vật thiếu tự tính.
Duy thức tông cũng dùng thuật ngữ ấy để mô tả ba bản tính, hoặc
ba cách am hiểu thực tại.
1. Biến kế chấp sở tính (parikalpita-svabhava). Còn gọi
là huyễn giác hay thác giác, mang tính biểu tượng. Thông thường,
người ta tin rằng trong thế giới này, các sự vật đều có thật,
độc lập và tách biệt nhau. Ðó chỉ là ảo giác. Ðó chỉ là cách qui
ước để nhìn thế giới. Tất cả những gì hiện hữu đều là kết quả
của tưởng tượng (huyễn giác) hoặc ta cố ý bám chặt vào, không
chịu lìa bỏ (chấp trước).
2. Y tha khởi tính (paratantra-svabhava). Tính tương
thuộc của các sự vật. Sự vật này nương dựa vào sự vật kia mà
sinh ra. Tất cả các hiện tượng vật chất, tâm lý của thế giới và
của con người đều do Nhân duyên phát sinh, lệ thuộc vào nhau,
không cái nào có tự tính. Các tri giác và các trải nghiệm chúng
ta có đều kế tiếp nhau, nối liền nhau như một dòng chảy, không
cái nào xuất hiện độc lập và đứng riêng rẻ. Người Phật giáo
khuyến khích bạn nhận biết y tha khởi tính trong mọi lúc và nhận
ra rằng các sự vật đều phát sinh tuỳ thuộc vào các điều kiện
liên quan và có khả năng biến đổi liên tục.
3. Viên thành thật tính (paranispana-svabhava). Bằng tâm
thần (hay tâm thức) mà nhận biết sự hoàn hảo trong bản tính thật
của các hiện tượng. Ðây là cách tốt nhất để am hiểu trọn vẹn
thực tại. Ðây là sự nhận biết rằng không có các sự kiện hiện hữu
tách biệt nhau. Thế nhưng, không thể trình bày nhiều về vấn đề
này vì đây là phương cách của người giác ngộ nhìn thế giới, và
không thể diễn tả bằng ngôn từ sự thân chứng – nếm trải trực
tiếp – của người giác ngộ. Nếu có thể diễn đạt nó bằng ngôn từ
thì bản thân người chưa giác ngộ cũng chẳng thể nào hiểu nổi.
Thử trình bày cách khác
Nói cách khác, các hiện tượng được tâm thần nhận biết đều mang
bản chất ba mặt:
(1) Biểu tượng hay tưởng tượng;
(2) Lệ thuộc vào nhau;
(3) Hoàn hảo trong bản tính thật.
Các hiện tượng gọi là “biểu tượng” là những sản phẩm tưởng tượng
thuần tuý, những ý tưởng sai lạc. Chúng có tính “lệ thuộc” vì
chúng tồn tại trong trạng thái tương thuộc vào những nhân tố
khác. Cuối cùng, chúng là “hoàn hảo” trong bản tính thật của
chúng, mà bản tính này là Không tính (sunyata) hoặc Chân như
(tagatha).
Tóm lại, theo Duy thức tông, mọi người đều quả thật trải nghiệm
cái (2) nhưng hầu hết lại thông giải một cách sai lạc ra cái
(1). Tuy nhiên, nhận biết bản tính bị điều kiện hoá của sự vật
tối hậu sẽ dẫn tới thông giải thành cái (3).
Thử nêu vài câu hỏi
Một cách tự nhiên, ta cứ thử đặt ra cho Duy thức tông vài câu
hỏi như thế này:
Nếu không có các sự vật ngoại tại thì cái gì gây ra cảm xúc? Quả
thật trong nhiều dịp, chúng ta có thể hiểu sai lạc mà cho rằng
giấc mơ là một thực tại ngoại tại nào đó, nhưng sở dĩ xảy ra
chuyện đó chỉ vì chúng ta có thói quen trải nghiệm những gì
chúng ta cho là thực tại ngoại tại. Nhưng các giác quan của
chúng ta dùng để làm gì nếu không phải để phát hiện cái gì đó
hiện hữu bên ngoài bản thân ta?
Nói chung, người Phật giáo hẳn đưa ra câu trả lời rằng bạn ạ,
bạn sai lầm nếu dùng quan điểm “ta và chúng” khi nhìn các sự vật
như thể có hàm ý thế giới này bao gồm các hữu thể riêng biệt,
mỗi cái hiện hữu do tự chính cá thể của chúng. Lối nhìn ấy có
thể tạm ổn xét theo quan điểm qui ước, và chủ yếu nó có tính
tương đối trong liên quan tới thực tiễn cuộc sống hằng ngày.
Nhưng thật ra, thực tại thì tương liên nối kết, và mọi sự vật
trong thực tại, từng khoảnh khắc, đều tuỳ thuộc vào các điều
kiện đang duy trì chúng.
Giản kết
Có lẽ chúng ta có thể rút gọn những gì được Duy thức tông rán
sức diễn tả bằng ngôn từ, theo cách này:
a. Trải nghiệm của bạn về người ấy chỉ đơn giản là trải nghiệm;
b. Bạn không thể lùi trở lại “đằng sau” trải nghiệm đó;
c. Bạn không thể nói rằng: cái con người tôi biết ở đó hoàn toàn
nằm ngoài các trải nghiệm của bạn;
d. Cái bạn trải nghiệm là cái đang ở đó. Bạn có thể chấp nhận nó
như một dòng chảy kinh nghiệm đang liên tục biến đổi, hoặc bạn
ra sức cắt rời nó thành các thực thể tách biệt nhưng làm như thế
tức là chính bạn tạo ra ảo giác về sự tách biệt.
Bảy và tám thức
Thức (vijnana) là một thuật ngữ quan trọng trong Phật pháp, chỉ
sự “nhận biết”. Thức là hoạt động tâm lý, sinh ra sau khi giác
quan (căn) tiếp xúc với đối tượng (trần). Vai trò của thức cực
kỳ quan trọng; nó là một trong năm yếu tố trong Ngũ uẩn và là
yếu tố thứ ba trong Thập nhị nhân duyên.
Duy thức tông đưa ra bảy dạng của thức. Pháp tướng tông, một
hình thức khác của Duy thức tông, đưa thêm một dạng nữa, làm
thành tám dạng. Ðó là:
1. Nhãn thức. Thức của mắt: thấy;
2. Nhĩ thức. Thức của tai: nghe;
3. Tỷ thức. Thức của mũi: ngửi;
4. Thiệt thức. Thức của lưỡi: nếm;
5. Thân thức. Thức của thân thể: toàn thân, đụng chạm, sờ
mó;
6. Ý thức. Thức của ý: nhận thức;
7. Mạt-na thức. Thức ô nhiễm;
8. A-lại-da thức. Thức lưu trữ; chân thức hoặc căn bản
thức.
Năm thức đầu tương ứng với năm giác quan của ta. Thức thứ sáu
tổng hợp năm thức trên, sản sinh ấn tượng tâm thần. Thức thứ bảy
là thức tự nhận biết về chính mình; gọi là thức ô nhiễm vì nghĩ
rằng mình có một “cái tôi”. Thức thứ tám tồn trữ hết thảy những
trải nghiệm của các kiếp sống vô tận.
Tuy nhiên, cái thao tác mạnh mẽ nhất là Mạt na thức: thức ô
nhiễm. Nó đưa tới những hoang mang về bản ngã, tới cảm giác bị
thương tổn hoặc kiêu hãnh. Chính xác, nó đúng là cái dạng của
thức mà người Phật giáo nỗ lực tìm cách khuất phục cho bằng được
vì Phật giáo xem Mạt na thức đặt cơ sở trên cái nhìn mê lầm giả
tạo về bản ngã và về thực tại.
Nghiệp báo và thức lưu trữ
Nếu chỉ có dòng chảy của ý thức, không có sự tiếp nối dưới dạng
một “bản ngã”, làm thế nào chúng ta nhận ra và nhớ lại các sự
vật và sự kiện theo cách người khác nhận thấy, là có thể cảm
nhận và dự báo được? Tương tự như thế, nếu mọi sự vật đều có
tính tâm thức, làm thế nào nghiệp báo (karma) có thể thao tác?
Ðối với cả hai nan đề ấy, sư Thế Thân đưa ra câu trả lời bằng ý
tưởng về thức lưu trữ, hay gọi theo thuật ngữ Phật giáo là
A-lại-da thức (alaya-vijnana).
Có một mẹo để dễ nhớ thuật ngữ mà người Phật giáo dùng nguyên
lối phiên âm từ Phạn ngữ này, là bạn hãy liên tưởng tới dãy núi
Himalaya. Hima là “tuyết”, alaya là ‘”lưu trữ” Himalaya phiên âm
ra Hán Việt là Hi mã lạp sơn: nơi lưu trữ tuyết. Như thế,
A-lại-da thức hiểu ngược lại theo cấu trúc ngôn ngữ Hán Việt là
thức lưu trữ.
Khi hạt mầm chín muồi
Dòng chảy của các biến cố tâm thần mà bạn trải nghiệm, để lại
hạt mầm – chủng tử (bija) – của nghiệp trong thức lưu trữ, gọi
là Tạng thức, Hàm tàng thức: A-lại-da thức. Các hạt mầm
được tồn trữ trong nhà kho đó cho tới sau cùng, khi hội đủ các
điều kiện thích đáng, chúng chín muồi và rồi ảnh hưởng lên các
biến cố về sau. Lý thuyết ấy của sư Thế Thân đã giải thích không
chỉ riêng về sự tiếp nối của kinh nghiệm mà còn cả về bản tính
tự khởi tự hành của nghiệp báo.
A-lại-da thức chứa đựng mọi kinh nghiệm trong kiếp sống của mỗi
con người và nguồn gốc của tất cả các quan niệm tinh thần. Theo
quan điểm của Pháp tướng tông thì A-lại-da thức là nơi tập hợp
mọi nghiệp quá khứ rồi tới một thời điểm nhất định, tác động lên
kiếp tái sinh. Và cá thể thật ra chỉ là dòng sinh diệt tiếp nối
của vô số chủng tử của nghiệp, do đó, không có một bản ngã cố
định.
Lúc này, bạn đang trải nghiệm các kết quả hành động của bạn
trong quá khứ, vì những hành động ấy ảnh hưởng lên thức lưu trữ
của bạn – và hết thảy những gì bạn từng làm trong quá khứ được
bảo tồn chất chồng, đang ảnh hưởng lên hiện tại của bạn. Do thế,
có thể có một lỗ trống giữa một sự cố có tính nghiệp báo với các
kết quả của nó, mà không cần giả thiết phải có một bản ngã hay
một linh hồn đang tiếp tục thường tại.
Vì tàng trữ và tác động nên A-lại-da thức còn được gọi là Căn
thức, thức căn bản của mọi hiện tượng. A-lại-da thức gồm
chứa 7 thức kia, từ đó phóng chiếu thành bóng ảnh khiến con
người có cảm giác như thật về những cái là hình hài, sắc tướng,
âm thanh, mùi vị, ý tứ,... - tức là cuộc đời. Như thế, cuộc đời
vốn chỉ là bóng ảnh, ở trong nhận thức, phát sanh từ nhận thức
và tắt mất vào đó. Cuộc đời dứt tuyệt vào thời điểm A-lại-da
thức và 7 thức kia không còn nhận ra nó.
Theo kinh Lăng già, A-lại-da thức còn được gọi là Chân thức.
Trong A-lại-da có một bộ phận gọi là Chân, là Tịnh; cũng gọi là
Như Lai tạng. Nó thường được xem là “chân lý tối hậu”, và có khi
được gọi là Chân như (tathata). Do đó, một khi hành giả chỉ giữ
lại A-lại-da thức để tâm không còn vô minh thì dễ giác ngộ, nhập
cảnh giới niết bàn.
Mạt-na tác động lên A-lại-da
Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách trình bày rất xuất sắc về tương
quan giữa hai thức (7) và (8) như sau:
“A-lại-da thức được xem mênh mông như biển cả, bản thân nó không
chủ động tạo tác. Nhưng một khi Mạt-na tác động lên A-lại-da
thức thì những chủng tử nằm sẵn trong A-lại-da thức được khởi
động và thao tác những sự vật tưởng chừng như khách quan. Mạt-na
là thức phân biệt tức thời khách thể chủ thể, tạo nên ý thức nhị
nguyên, ý thức về cái ‘ta’ và cái ‘không phải ta’
Sáu giác quan (kể cả ý thức) là những kẻ báo cho Mạt-na các
thông tin từ bên ngoài, không hề đánh giá tốt xấu. Và chính
Mạt-na là kẻ đánh giá phải trái hay dở, ra lệnh cho sáu ý thức
kia hoạt động và phản ứng. Ðồng thời Mạt-na thức lại đưa các cảm
giác hay chủng tử (bija) đó vào A-lại-da thức. Chủng tử này lại
là kẻ ảnh hưởng và tạo tác lên thế giới bên ngoài và vòng tròn
ấy tiếp tục vô cùng tận
Mạt-na được xem là gạch nối giữa sáu ý thức kia và A-lại-da
thức. Nó là kẻ tưởng mình có một cái ta, là kẻ gây ‘ô nhiễm’ lên
A-lại-da thức. Muốn tránh vòng tròn ô nhiễm vô tận đó, hành giả
phải chấm dứt hoạt động đầy phân biệt của Mạt-na, biến thức này
thành ‘Bình đẳng tính trí’, là thức đứng trên mọi tính chất nhị
nguyên. Nhờ đó hành giả đạt được tri kiến về tính chất huyễn
hoặc của vạn sự.”
(Từ điển Phật học, Nxb Thuận Hoá, Huế, năm 1999, t. 319)
So với triết học Tây phương
Có thể thăm dò khoa Phân tâm học và toàn bộ ý tưởng về tâm trí
vô thức của triết học Tây phương để tìm ra những điểm tương đồng
với các ý tưởng của sư Thế Thân về vấn đề thức lưu trữ và tác
động về sau của nó.
Theo tâm lý học hiện đại, các sự cố để lại dấu ấn của chúng
trong tâm trí vô thức. Chúng tồn tại ở đó mà không bị phát hiện
cho tới một giai đoạn nào đó về sau trong đời người, chúng sẽ
biểu thị dưới dạng các vấn đề tâm lý, mang tính máy móc chủ
nghĩa, đúng y như sư Thế Thân đã vạch ra.
A-lại-da thức của vị đại luận sư tập thành Duy thức tông ấy có
lẽ là nỗ lực sớm nhất nhằm giải thích thao tác của tâm trí vô
thức. Tuy thế, giữa phân tâm học Tây phương và Phật giáo có điểm
khác biệt chủ chốt. Ðó là đối với Phật giáo, nghiệp báo liên
quan chủ yếu tới hành động có ý thức của chủ thể, do bản thân
chúng ta tự nguyện chọn lựa. Trong khi với Freud, các kinh
nghiệm tồn trữ trong vô thức thường liên quan tới những gì do
tha nhân (khách thể) gây ra cho chúng ta chứ không phải do chúng
ta (chủ thể) thể hiện một cách có chọn lựa.
Luân hồi, như chúng ta từng xem xét, có nghĩa là trở đi trở lại
mãi trong vòng sinh tử cho tới khi giác ngộ. Ðại thừa xem luân
hồi là thế giới của hiện tượng và thể tính của nó chính là thể
tính của niết bàn. Vì Phật giáo không thừa nhận có một linh hồn
bất biến tồn tại độc lập với thể xác và vì chữ “luân hồi” có thể
gây ảo tưởng có một linh hồn chuyển từ kiếp này sang kiếp khác,
nên ngày nay, người Phật giáo thích dùng chữ tái sinh. Thế
nhưng, nếu không có linh hồn thì cái gì tái sinh?
Nhiều người toan tính giải quyết vấn nạn đó bằng cách đặt ra cho
Ðức Phật câu hỏi từ đâu mà có luân hồi, hoặc giống hữu tình –
loài động vật nói chung – có từ bao giờ… Ðức Phật không bao giờ
trả lời loại thắc mắc đó vì ngài cho rằng kiến thức về chúng
chẳng giúp ích được gì trên con đường tu tập. Bạn chỉ có thể
chứng ngộ niết bàn, tức là giải thoát khỏi luân hồi, trong kiếp
làm người bằng cách dứt bỏ được tham sân si.
Con người, toàn bộ thân tâm được tạo thành bởi ngũ uẩn với các
đặc tính tổng quát là vô thường, vô ngã và đau khổ. Ngũ uẩn
không hề tạo thành một cái được gọi là cái ta. Và con người cũng
không có linh hồn như một thực thể đơn thuần không biến đổi. Ðối
với Phật giáo, tái sinh không phải là chuyển linh hồn, hiểu như
có sự di chuyển của một linh hồn từ thể xác kiếp này sang thể
xác kiếp kia. Vậy thì cái gì tái sinh?
Nghiệp lực tái sinh
Câu trả lời theo lối nói thông thường là xác thân chết và nghiệp
lực tái sinh trong một thể xác khác. Nghiệp là hành động của
bạn. Nghiệp tạo nghiệp quả. Nghiệp lực là sức mạnh của nghiệp
quả, lôi cuốn bản thân người tạo nghiệp phải chịu quả báo thiện
hay ác ở một thời điểm chín muồi nào đó vào một kiếp nào đó.
Nghiệp của bạn ghi dấu trong tâm thức bạn và tâm thức ấy sẽ
hướng theo những tạo tác của chính bạn. Thời gian chín muồi của
nghiệp có thể kéo dài rất lâu và chính nó tác động lên sự tái
sinh, và nó làm cho loài hữu tình – trong đó có con người – cứ
quanh quẩn mãi trong vòng sinh tử (luân hồi). Một sinh linh chào
đời không giống hoàn toàn cũng không khác tuyệt đối với sinh
linh vừa qua đời, bởi vì cả hai cùng nằm trong một luồng nghiệp,
cùng chịu tác động của một nghiệp lực.
Ananda Coomaraswami đưa ra thí dụ minh hoạ sự tái sinh của
nghiệp lực từ kiếp này sang kiếp khác như trái bi-da A đụng vào
trái bi-da B. Không phải A tiếp tục lăn mà là A đứng lại, và lực
tác động của nó khiến B bắt đầu lăn. “Nó [A] vẫn nằm lại phía
sau, nó chết. Nhưng ta không thể phủ nhận rằng chính sự di
chuyển của nó, sức xung kích của nó, cái kết quả dĩ nhiên, hay
cái nghiệp lực của quả banh trước phát xuất trong quả banh kế
[B], chớ không phải một chuyển động mới nào khác được tạo ra”.
(Trích theo Nàrada Thera, Ðức Phật và Phật pháp, Phạm Kim
Khánh dịch, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1998, tt. 432-433)
Vạn pháp và tự tính
Nhân đây, hẳn cũng nên đề cập đôi chút quan điểm của Duy thức
tông về sự hiện hữu của vạn pháp và tự tính. Có lẽ bắt nguồn từ
chiêm nghiệm của sư Vô Trước về Không tính nên quan điểm của Duy
thức tông đối với chủ đề này được trình bày một cách hơi khác
với Trung quán tông. Ta có thể thăm dò điều đó qua cách diễn
giải dung hợp của Kimura Taiken, học giả người Nhật trong cuốn
Ðại thừa Phật giáo Tư tưởng luận, bản dịch của Thích
Quảng Ðộ, Sài Gòn, không ghi nhà xuất bản, t. 238-239, khi ông
dùng cụm từ “Chân-không Diệu-hữu” rằng:
“Tuy nhiên, nếu nói một cách đại khái, thì theo tôi tất cả đều
qui nạp về bốn chữ ‘Chân-không Diệu-hữu’. Chân-không [hư không]
nghĩa là hết thảy hiện tượng đều không có tự tính, còn Diệu-hữu
là chỉ sự tồn tại của vạn pháp [pháp, dharma] mặc dầu vạn pháp
đó không có tự tính. Hai quan niệm này không bao giờ xa lìa
nhau, đó là đặc sắc của triết học Ðại thừa. Về phía Tiểu thừa,
có những nhà quan niệm luận cho rằng hết thảy các pháp đều là
giả danh, không có thực thể. Nhưng trái lại, cũng có những người
chủ trương ba đời thật có, pháp thể hằng có, đó là bộ phái Thực
tại luận cực đoan. Ðại thừa chỉ thống hợp cả hai quan niệm đó mà
chủ trương Chân-không tức Diệu-hữu. Ðó là chỗ lập cước căn bản
của Ðại thừa. Dĩ nhiên về triết học Ðại thừa, cũng có người chỉ
thiên về phương diện Chân-không mà lập thành thế giới quan nhưng
cũng có người phản đối chủ trương ấy mà nghiêng về diện Diệu-hữu
để khảo sát các hiện tượng.
Tuy có những chủ trương tương phản đó, nhưng bất luận chủ trương
nào cũng đều thừa nhận rằng: Chân-không không ngoài Diệu-hữu và
ngược lại. Nghĩa là khi đã đạt đến tuyệt đối thi Chân-không là
Diệu-hữu, Diệu-hữu tức Chân-không. Ðó là điểm cộng thông của tất
các các bộ phái Ðại thừa”.
V. Học thuyết Như Lai tạng
Như Lai tạng theo tiếng sanskrit là tathagatagarbha, gồm
hai chữ. Một là tathagata nghĩa là Như Lai: người đã
đến như thế, danh hiệu của vị đạt giác ngộ ở bậc cao nhất,
và cũng là một trong mười danh hiệu của một vị Phật. Trong Phật
giáo thời kỳ đầu, Như Lai không phải là một danh hiệu. Phật
Thích Ca thường tự gọi mình là “như lai” với dụng ý khiêm nhượng
và vô ngã, để tránh sử dụng tiếng ‘ta’ hoặc ‘tôi’ trong lúc ngài
giảng dạy. Garbha nghĩa đen là cung lòng người nữ,
nghĩa bóng là mầm, được dịch sang chữ Tây Tạng có nghĩa
là nơi chứa đựng, ẩn giấu và khả năng nuôi dưỡng.
Tathagatagarbha là mầm Như Lai hay là người chứa đựng Như Lai
trong bản thân mình. Hiểu theo Ðại thừa, Như Lai tạng đồng nghĩa
với Phật tính. Học thuyết Như Lai tạng hay Phật tính hàm chứa ý
tưởng rằng sinh linh nào cũng ẩn chứa trong lòng nó một vị Phật,
một mầm Phật, nghĩa là mọi sinh linh đều có Phật tính. Sinh linh
nào cũng có tiềm năng tăng trưởng đạt quả vị Phật. Mọi loài đều
có khả năng đạt giác ngộ và trở thành Phật mà không bị hạn chế
bởi kiếp sống hiện tại.
Ở đây, quan điểm của Ðại thừa có khác với của Tiểu thừa về vấn
đề mọi loài có sở hữu Phật tính thường trực hay không. Hầu như
không nhắc tới Phật tính, Tiểu thừa cho rằng không phải sinh
linh nào cũng có thể thành Phật. Ðại thừa vốn đặt quả vị Phật
làm mục đích cao nhất nên cho rằng việc thể hiện Phật tính nằm
sẵn trong hết thảy chúng sinh, thông qua phép tu học nhất định.
Kinh Phạm Võng ghi: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”.
Trong kinh Pháp Bảo đàn, phẩm thứ hai: Bát nhã, vị
tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa là Huệ Năng viết rằng: “Phải
biết người ngu, người trí Phật tánh vốn không có khác, chỉ [vì]
duyên mê ngộ không đồng, nên [mới] có ngu có trí.” (Bản dịch của
Thích Thanh Từ, Nxb Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1992,
tr. 64).
Như thế, Phật tính là tính giác ngộ, bản tính tốt lành, mầm
lương thiện trong lòng của hết thảy các loài, bất kể con người
hay thú vật. Còn nữa, Phật tính cũng tức là Chân như (tathata).
Chân như là bản tính thường còn, bất diệt, chân thật, sáng suốt
trong lòng của mọi sinh linh.
Cư sĩ Ðoàn Trung Còn trong Phật học từ điển, tr. 1239,
viết rằng:
“Phật tánh cũng tức là Chơn như, cái tánh chơn thật như thường,
không biến cải, chẳng sanh chẳng diệt. Song với kẻ ngu vì bị
nhiều sở dục, vì bị nghiệp chướng ngăn bít, nên cái Phật tánh,
cái Chơn như phải lu lờ. Còn đối với người trí ít tham, ít dục,
mộ việc tu hành, nên cái Phật tánh, cái Chơn như tỏ rõ ra, biết
lẽ quấy mà tránh, biết lẽ phải mà theo.”
Chân như được Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách trình bày một cách
hàn lâm hơn, rằng:
“Chân như chỉ thể tính bất động, thường hằng, nằm ngoài mọi lý
luận, nhận thức. Chân như nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới
hiện tượng thuộc thân thuộc tâm. Tri kiến được Chân như tức là
giác ngộ, vượt ra khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất
thể của khách thể và chủ thể. Chân như đồng nghĩa với Như Lai
tạng, Phật tính, Pháp thân”. (Sách đã dẫn, tr. 87)
Bảy Phật tính
Theo Ðại bát niết bàn kinh, (mahaparinirvana-sutra) viết
bằng tiếng sanskrit, một bộ kinh nói tới Phật tính và luận về
các đề tài quan trọng khác của Phật giáo Ðại thừa, Phật tính gồm
bảy đức tính:
1. Thường. Thường còn, không mất không biến đổi;
2. Tịnh. Trong sạch;
3. Thật. Thành thật;
4. Thiện. Lành, chẳng ác;
5. Ðương kiến. Thấy hết những cái xảy ra;
6. Chân. Ðúng thật, không giả.
7. Khả chứng. Có khả năng trải nghiệm chứng đắc thành
chánh quả.
Ðối chiếu với thời kỳ đầu
Với quan điểm Ðại thừa, chúng ta vừa đề cập khá nhiều tới Phật
tính, cũng chính là Chân như, và nhấn mạnh khả năng thành Phật
của mọi sinh linh. Theo ý nghĩa nhất định, trên thực tế, những
phát biểu ấy không có chút nào khác với lời giảng của Phật Thích
Ca. Vì từ đầu chí cuối, ngài dạy bảo chúng sinh con đường dẫn
tới giác ngộ, và các kinh điển Phật giáo thời kỳ đầu ghi lại
nhiều ví dụ đắc quả giác ngộ của các môn đệ đi theo ngài.
Kết hợp với ý tưởng tái viên thành, rõ ràng Phật giáo xem mọi
sinh linh đều tiềm ẩn khả năng đi tới điểm tột cùng ở đó bản
thân mình đạt giác ngộ. Do đó, Phật giáo quả quyết rằng mỗi
người là một vị Phật sẽ thành. Ðặc điểm cá biệt của học thuyết
Như Lai tạng – Phật tính và Chân như – này là “chúng ta đang
là Phật, chúng ta là Phật rồi” nhưng chúng ta không thể thấy
ra điều ấy vì chúng ta hiểu thế giới này theo cách hão huyền,
viển vông, không đúng với thực tế ấy.
Ðiều ấy tự nó mang nội hàm đặc thù trong việc thực hành Phật
giáo. Thí dụ người Phật giáo Tây Tạng có thể tự hình dung mình
theo dạng thức của một vị Phật hay một vị Bồ tát. Việc hình dung
như thế không bị đánh giá là tự đề cao hoặc hoang tưởng. Ðó là
một nỗ lực đi tới quá bên kia ảo giác về sự tách biệt để thấy
bản tính chân chính của ta: Phật tính. Cũng một cách y như thế,
truyền thống Thiền tông Tào Ðộng có thể lập luận rằng trong thời
gian bạn ngồi thiền, bạn là một vị Phật. Sư Ðạo Nguyên Hi Huyền
(1200-1253) nói: “Toạ thiền tự nó là giác ngộ. Ngồi một phút là
làm Phật một phút”. (Xem Cẩm nang sống Thiền, Nguyễn Ước,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2007).
Phật tính và tiểu ngã
Nhưng – và đây là điểm quan trọng đối với bất cứ diễn giải nào
về Phật giáo Ðại thừa – điều ấy không có nghĩa rằng có một bản
ngã bên trong ta, tự hiện hữu thường tại và được gọi là Phật
tính, đang chờ thời điểm giác ngộ để nhập làm một với Phật tính
phổ quát nào đó. Nghĩ như thế thì, một cách chính xác, hoàn toàn
giống hệt với ý tưởng của Ấn giáo về một tiểu ngã (atman) đang
vươn lên, chờ tới lúc hoà nhập, trở nên làm một với Brahman (Ðại
ngã).
Ðúng hơn, Phật tính chứa đựng hàm ý rằng giác ngộ là trạng thái
tự nhiên, và ảo giác mê lầm là trạng thái phi tự nhiên. Chúng ta
đều có tiềm năng thấy sự vật như nó đang là, để sống với cái
nhìn thấu suốt đó thay vì sống với ảo giác mê lầm.
Còn nữa, nếu bị thông giải sai lạc mà hiểu Phật tính theo nội
dung “bản ngã chân chính” như một số nhà tư tưởng thuộc phong
trào New Age (Thời đại mới), lúc đó Phật tính hoá ra cái gì đó
cho bạn khao khát bám víu và vì thế, nó trở thành một nguồn gốc
khổ não của bạn. Và đối với người Phật giáo, thông giải và khao
khát như thế tức là đang tự mình làm cho mình cho mình thất bại.
VI. Học thuyết Ba Thân
Phật là tước hiệu, mang ý nghĩa “Ðấng giác ngộ”. Trong cách gọi
trực tiếp và rành mạch nhất, danh hiệu Ðức Phật nếu dùng riêng
là chỉ có ý đề cập tới ngài Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Nhưng về mặt học
thuyết, Phật giáo nới khá rộng ý nghĩa của từ ngữ Phật ra ba
cách:
1. Phật giáo tin rằng đã đang và sẽ có thêm nhiều đấng giác ngộ
khác. Trong khi xem xét những truyền thống Phật giáo sớm sủa
nhất, chúng ta đã tìm thấy ý tưởng về một vị Phật tương lai,
đấng sẽ đến để phục hồi Phật pháp khi những lời giảng ấy gặp
thời suy mạt ở chốn thế gian. Và đấng ấy là Phật Di Lặc.
Trong truyền thống Ðại thừa, ý niệm ấy được dàn trải sâu rộng
hơn để gồm vào nhiều vị Phật, mỗi vị có phẩm tính cá biệt hoặc
phô bày một dạng thức trí huệ đặc thù. Quan điểm đó làm nổi bật
ý tưởng rằng quả vị được Phật Thích Ca thành tựu mang ý nghĩa
trọng đại và phổ quát, và đó cũng là khả năng thành tựu của hết
thảy chúng sinh, như chúng ta đã thấy ở phần trên về ý tưởng
“Phật tính” và “Như Lai”.
2. Theo lời ghi lại trong kinh điển, Ðức Phật từng nói “Người
nào thấy Pháp (Dharma: lời Phật giảng dạy và cũng là chân lý)
tức là thấy Ta”. Như thế, tiếng Phật trở thành một thuật ngữ
không chỉ dùng để nói tới những ai đã giác ngộ mà còn nói tới
chân lý được vén lộ trong sự giác ngộ ấy.
3. Còn nữa, trong khi chiêm nghiệm và quán tưởng như ứng dụng
phương pháp tự hình dung hoá – cách riêng theo truyền thống Tây
Tạng – có triển khai một cấp độ phong phú, bao gồm toàn bộ các
hình dung về chư Phật và chư Bồ tát với những hình ảnh và màu
sắc đa dạng, mỗi ảnh sắc phô diễn một khía cạnh của giác ngộ.
Chi tiết Ba Thân
Ba cách thức vừa kể đã dẫn đưa Ðại thừa tới các lời giảng được
gọi là Ba Thân (trikaya). Học thuyết ấy tuyên bố rằng có ba thân
của Phật:
1. Pháp thân (dharmakaya). Tự tính của Phật vốn sáng
suốt, trung lương, chiếu rọi khắp nơi mọi lối. Ðây thực là chân
thân của Phật. Pháp thân cũng được hiểu là thể tính thật sự của
Phật, đồng nghĩa với Chân như là thể tính của vũ trụ. Ðây cũng
là Phật tính mà mọi sinh linh đều có chung, và cũng là Pháp hiểu
theo hai nghĩa: một là qui luật vận hành trong vũ trụ, hai là
những lời giảng của Ðức Phật Thích Ca.
2. Báo thân (sambhogakaya). Thân do công đức và giác ngộ
của các Bồ tát hoá hiện cho chúng sinh thấy. Cũng vì thế được
gọi là Thụ dụng thân, thân hưởng thụ được qua những công
đức thiện nghiệp đã tạo. Các thân Phật này – ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp – được mô tả trong kinh điển Ðại thừa và
được hình dung trong tu tập sùng kính, phô bày một cách hình
tượng các phẩm tính của giác ngộ.
3. Hoá thân (nirmanakaya). Còn gọi là Ứng thân.
Thân xuất hiện của Phật trên thế gian này trong nhân dáng loài
người để tuỳ vào từng loại chúng sinh khác nhau mà giao tiếp và
cứu độ. Hoá thân này cũng bị chi phối bởi quá trình sinh lão
bệnh tử như con người bình thường.
Lai lịch và ý nghĩa thực dụng
Học thuyết Ba Thân xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ tư sau CN.
Người diễn giải rõ nhất về nó là Vô Trước, vị đại luận sư sáng
lập Du già hành tông, tiền thân của Duy thức tông. Học thuyết
này có điểm xuất phát từ các quan niệm của Ðại chúng bộ trong đó
nhấn mạnh tính chất tuyệt đối và siêu nhiên của các vị Phật. Dần
dần, nhân vật Phật lịch sử – Ðức Thích Ca Mâu Ni – lùi vào phía
sau. Các quan niệm này về sau được Ðại thừa chấp nhận, triển
khai và để lại những dấu ấn sâu sắc.
Nội dung của Ba Thân cho thấy chư Phật đều tinh khiết cả thể
chất lẫn tinh thần với cuộc sống vĩnh cửu và quyền năng vô hạn.
Ý tưởng về một không gian vô hạn chứa vô số vũ trụ cũng đóng vai
trò quan trọng trong quá trình phát triển của học thuyết này. Ðể
cứu độ mọi sinh linh sống trong không gian vũ trụ mênh mông ấy,
phải có vô lượng Bồ tát mới đáp ứng kịp thời và thoả đáng.
Quan điểm ấy chú trọng tới Hoá thân, và nhất là Pháp
thân. Các vị Phật xuất hiện trong vũ trụ mênh mông ấy là
hiện thân của Pháp thân. Vì lòng từ bi của mình, và vì lợi ích
của chúng sinh, chư vị ấy đến với thế gian để cứu độ.
Cùng đích là giác ngộ
Phần trình bày về Ba Thân ở trên chỉ giới hạn trong triết học
Ðại thừa, chưa bước sang phạm vi Thiền tông và Kim Cương thừa.
Ngang đây, chúng ta dừng lại một chút để đưa ra vài nhận xét.
Hoá thân và Báo thân tuỳ thuộc vào Pháp thân. Thái tử và tu sĩ
Tất-đạt-đa chỉ được gọi là Phật kể từ thời điểm ngài giác ngộ.
Cũng thế, những ảnh sắc muôn hình muôn vẻ của Báo thân chỉ mang
ý nghĩa các khía cạnh của một tâm trí đã giác ngộ; chúng không
có thực tại, cũng chẳng có quyền năng nào ngoài tầm mức chúng
khiến cho người tu tập có khả năng chạm tới các phẩm tính đặc
thù và nhờ thế, bản thân người ấy tự chuyển động hướng tới giác
ngộ.
Như thế, với điều kiện người ta không hiểu sai lạc theo nghĩa
đen nào đó về Ba Thân của các vị Phật, học thuyết Ba Thân được
sử dụng đơn thuần cho những gì mang hàm ý nguyên thuỷ trong lối
dùng để gọi Ðức Thích Ca –bởi vì chính ngài là đấng nhận biết
bản tính chân chính của vạn sự; ngài phô bày và giảng dạy các
phẩm tính được hàm chứa trong sự thức ngộ.
Thử đối chiếu với Kitô giáo
Ba Thân nêu trên không phải là ba trạng thái độc lập, mà biểu
hiện cho một đơn vị duy nhất. Từ ngữ Ba Thân (trikaya) cũng được
dịch sang tiếng Anh là Trinity và tiếng Pháp là Trinité, cũng là
từ ngữ Anh/Pháp được dùng cho Thiên Chúa Ba ngôi: Cha, Con và
Thánh thần (hoặc Thánh linh). Có lẽ cũng khá hấp dẫn nếu ta thử
thăm dò, tìm kiếm những tương đồng giữa quan điểm của Kitô giáo
về Thiên Chúa Ba ngôi và của Phật giáo về Ba Thân Phật.
Trước hết, ở cấp bậc cụ thể, cả hai quan điểm ấy hoàn toàn khác
nhau vì Phật giáo mang tính vô thần chủ nghĩa, và do đó, dù gì
đi nữa, Ba Thân cũng không thể dùng để nói tới các hữu thể
thiêng liêng.
Thế nhưng, từ điểm nhìn của triết học về tôn giáo, có điểm tương
đồng nhất định liên quan tới cách triển khai quan điểm ấy:
1. Trong truyền thống Kitô giáo, “Cha”, qua hành động sáng thế,
có thể được dùng để nói tới ý nghĩa nền tảng của cấu trúc và cứu
cánh trong vũ trụ – cái thực tại tối hậu, hiện hữu tự thân nó.
“Con” là tước hiệu dùng để gọi Ðức Giêsu, như cách thế phô bày
niềm tin rằng ngài là sự mạc khải độc nhất của Thượng đế trong
hình dạng con người. Và thế thì “Thánh thần” hẳn có ý nói tới
nguồn cội các phẩm tính tâm linh được nếm trải trong cộng đồng
Kitô giáo.
2. Do đó, bạn có thể lập luận rằng có điểm tương đồng giữa Báo
thân với Thánh thần, giữa Hoá thân với Con, liên quan tới chức
năng của hai cặp ấy trong khung triết học / tôn giáo tổng thể.
3. Ngược lại, cần phải thừa nhận rõ rệt rằng trong Phật giáo, Ba
Thân Phật có ý nói tới một quá trình phát triển tâm linh, trái
lại, trong Kitô giáo, Thiên Chúa Ba ngôi được dùng để nói tới
các thực tại thiêng liêng độc lập chứ không phải là các khía
cạnh trải nghiệm tôn giáo của con người.
Thế nhưng đối chiếu như vậy e có vẻ sẽ tạo thành một cuộc thảo
luận với nhiệt tình càng lúc càng mạnh, tăng thêm phần sôi nổi
náo nhiệt chứ không rọi đôi chút ánh sáng nhằm làm sáng tỏ vấn
đề, vì từ các tiền giả định triết học khác nhau, cả Ba Thân lẫn
Ba ngôi đều nhấn mạnh tính tôn giáo, đặt trên niềm tin, và đều
đi tới những cấu trúc có vẻ ngoài na ná chứ không thật sự giống
nhau.
VII. Vũ trụ luận
Ở tâm điểm của kinh Diệu pháp Liên hoa, có một hình ảnh
cực kỳ thú vị về nhiều hệ thống khác nhau, trải rộng khắp mười
hướng không gian; trong mỗi hệ thống thế giới ấy có một vị Phật.
Vũ trụ quan ấy mênh mông và phức tạp.
Cõi Ta-bà của chúng ta
Thế giới hiện tại này được gọi là Ta-bà thế giới – hoặc Sa-bà
thế giới (sahalokadhatu) – là cõi con người chịu nhiều khổ não
nên cần chịu đựng và nhẫn nại để tu tập hầu đạt chánh quả. Do
đó, thế giới Ta-bà, hoặc cõi Sa-bà này, cũng được định nghĩa là
Nhẫn độ, hoặc Kham nhẫn thế giới, một thế giới đòi hỏi con người
phải nhẫn nhục, khéo chịu đựng.
Theo một phạm vi ý nghĩa nhất định, cõi Ta-bà này tầm thường, rẻ
rúng, hoàn toàn trái ngược với bức phông vĩ đại vẽ nên hậu cảnh
vũ trụ bao la. Nhưng đồng thời hình ảnh Ta-bà cũng gợi cho thấy
hết thảy các hệ thống thế giới khác với các vị Phật của chúng
đều hiệp cùng nhau công nhận rằng Ðức Phật Thích Ca đã và đang
truyền giảng Pháp chân chính, và đó cũng chính là loại Pháp được
các vị Phật khác truyền giảng trong mỗi hệ thống thế giới của
mình.
Toàn bộ hình ảnh bao la và gợi cảm ấy có thể khiến người ta có
khuynh hướng tô vẽ và triển khai theo kiểu mà chúng ta tìm thấy
khắp nơi trong các tác phẩm văn học của Phật giáo cũng như của
Ấn giáo. Thế nhưng thật sai lầm khi thông giải nó một cách giản
dị để đi tới kết luận rằng đó là một loại suy tưởng mang tính vũ
trụ luận của Phật giáo.
Có truyền thuyết rằng Ðức Phật không thảo luận về vấn đề thế
giới này có một khởi thuỷ hay không, vì đó hẳn là vấn đề không
thể nào có câu trả lời. Và trong điều kiện tốt nhất, nó cũng chỉ
làm xao lãng nỗ lực chuyên chú diệt khổ. Như thế, trong học
thuyết Phật giáo, hẳn không có thành phần được gọi là suy tưởng
mang tính vũ trụ luận. Ðúng hơn, chúng ta nên tìm kiếm cứu cánh
chủ yếu mà người đưa ra hình ảnh vũ trụ ấy muốn nó tác động lên
người nghe hoặc người đọc. Tính xuyên sâu của toàn bộ hình ảnh
ấy cho thấy rằng Ðức Phật hiện tại và hệ thống thế giới này được
đặt trong một bối cảnh có ý nghĩa trọng đại, hằng cửu và phổ
quát, bất chấp vẻ ngoài của nó trong cõi thế vô thường
Ði tìm lý do khác
Nói cách khác, có thể xem cái có vẻ là “suy tưởng mang tính vũ
trụ luận” trong Phật giáo Ðại thừa chỉ là lời giải thích xuất
phát từ nhu cầu phải:
a. Thể hiện tính thích đáng, phổ quát của Phật pháp;
b. Bộc lộ tính tầm thường vô nghĩa và tương đối của hệ thống thế
giới hiện tại.
Do đó, nó không có nghĩa đòi hỏi chúng ta phải tin – như một đức
tin – vào các hệ thống thế giới khác theo kiểu cách đã trình
bày. Một đức tin như thế hẳn hoàn toàn xa lạ với lối tiếp cận
mang bản sắc Phật giáo.
Tính tương sinh, tương nhập của mọi sự
Cùng với vô lượng hệ thống thế giới, vũ trụ luận Ðại thừa còn
một đặc điểm quan trọng khác. Ðó là khái niệm Hoa nghiêm.
Khởi đi từ bộ kinh cơ bản của Ðại thừa có tên là Ðại phương
quảng phật hoa nghiêm kinh, thường được gọi tắt là Kinh
Hoa nghiêm (Avatamsaka-sutra) mà ngày nay chỉ còn tìm thấy
trong dạng chữ Hán và chữ Tây Tạng; phần chữ Hán được dịch vào
thế kỷ thứ 5.
Ðược gọi là học thuyết về tính toàn thể, Hoa nghiêm chỉ chuyên
nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng mà thôi. Ý tưởng Hoa
nghiêm là tính nhân quả phổ biến của Pháp giới (Dharmadhatu),
theo đó mọi sự vật trong vũ trụ đều phát sinh lẫn nhau – tương
sinh tương xâm nhập – một cách tự phát và đồng thời. Mỗi Dharma
có sáu đặc trưng căn bản: tính phổ biến, tính riêng biệt, tính
giống nhau, tính đặc thù, tính hợp nhất và tính phân hoá.
Hết thảy các Dharma của vũ trụ đều:
1. Phụ thuộc lẫn nhau;
2. Qui định lẫn nhau;
3. Không thể tồn tại trong tách biệt;
4. Cùng tồn tại trong hoà hợp với nhau;
5. Ðều nằm trong trạng thái Chân như, gồm hai mặt:
a. Mặt tĩnh là không tính, lãnh vực hoạt động của
“Nguyên lý” (Lý);
b. Mặt động biểu hiện ở thế giới của các hiện tượng đồng
nhất và xâm nhập lẫn nhau (Sự).
c. Lý và Sự tương tác mà sinh ra toàn thể vạn vật.
Trạng thái tương sinh tương xâm nhập của các hiện tượng khiến
cho mỗi hiện tượng đều bao gồm tất cả các hiện tượng khác và tất
cả các hiện tượng đều là biểu hiện của Nguyên lý thống nhất. Do
đó, nó khiến cho mọi thế giới và mọi hiện tượng trong mỗi thế
giới là hiện thân của một thực thể tối thượng và đồng một thể
với Phật tính.
Như thế, khái niệm Hoa nghiêm có liên quan phần lớn tới học
thuyết Như Lai tạng và phần nào tới ý tưởng căn bản của Phật
giáo về sự “tương sinh bị điều kiện hoá”. Ðó cũng là quan điểm
căn bản của Phật giáo về thực tại, nhưng Hoa nghiêm bao gồm các
nội hàm nhằm am hiểu Phật tính của mỗi cá thể vì nó cho rằng mỗi
cá thể là biểu thị của Nguyên lý Phật phổ quát và do đó, cá thể
nào cũng có giá trị cố hữu.
Văn, triết và đạo đức học
Ở đây, thêm một lần nữa, cần để ý rằng cái có thể xem là suy
tưởng mang tính vũ trụ luận của Phật giáo ấy, trong thực tế, chỉ
là phương cách trình bày – hẳn có tính văn học và triết lý – cái
nhìn căn bản của Phật giáo về mọi sự vật đều phát sinh lệ thuộc
vào các điều kiện; chúng không có sự tồn tại thường trực, cố hữu
và độc lập. Mặt khác, việc nhìn vũ trụ dưới dạng tương sinh
tương xâm nhập của mọi sự vật có nội hàm mênh mông. Nó liên quan
tới việc ta tự mình am hiểu, đánh giá và thưởng ngoạn cái có
tính nhất thời, và cũng liên quan tới định hướng đạo đức của ta.
Thế nên không lạ chút nào khi đoạn cuối của phẩm dài nhất và
quan trọng nhất của bộ kinh Hoa nghiêm lại trình bày mười đại
nguyện, dùng làm cơ sở cho cuộc sống Bồ tát. Và hai bài kệ quan
trọng của kinh ấy là:
1.
Nếu người muốn biết,
Tất cả Phật tam thế
Phải quán tính Pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
2.
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
Ý căn thanh tịnh như hư không
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ
Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại.
(Thích Duy Lực dịch,
trích theo Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách, sách đã dẫn, tt.
123-124).
So với triết học Tây phương
Nếu đem khái niệm Hoa nghiêm vừa kể đối chiếu với triết học Tây
phương, có lẽ nơi gần gũi nhất là chủ nghĩa thần bí hay huyền
học (mysticism), hoặc qua các sách báo của những người có liên
quan tới sinh thái học. Vì chính trong sự đánh giá bản tính
tương liên nối kết của sự sống trong các hệ thống sinh thái
khiến chúng ta chạm tới ý nghĩa trọng đại của học thuyết Hoa
nghiêm.
Ba thế giới
Chúng ta có thể thăm dò quan điểm căn bản của Ðại thừa về vũ trụ
quan của đạo Phật theo những cách thức được trình bày trong các
tác phẩm lớn lao về số lượng và tầm cỡ của Ðại thừa. Một trong
những cách thức ấy liên quan tới khái niệm về ba thế giới
(triloka) của thực tại, hoặc của vòng sinh tử, nơi các loài hữu
tình tái sinh theo sáu dạng đời sống gọi là Lục đạo – sáu con
đường sống chết của chúng sinh, gồm 3 cõi lành: trời, A-tu-la và
người, và 3 cõi ác: súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
Sáu cõi ấy nằm trong ba thế giới gồm:
1. Dục giới. Thế giới trong đó có trái đất của chúng ta,
gồm chúng sinh vừa có sắc thân – cái thân vật chất do bốn yếu tố
đất nước lửa gió tạo thành – vừa có lòng tham dục.
2. Sắc giới. Thế giới trong đó chúng sinh đã gột bỏ hết
lòng tham dục nhưng vẫn còn sắc thân.
3. Vô sắc giới. Thế giới gồm chúng sinh không những không
còn lòng dục mà cũng chẳng còn sắc thân, chỉ còn tâm linh thuần
tuý.
Năm vị Phật
Có một lối tiếp cận khác, đặc biệt liên quan tới thực hành tôn
giáo và chiêm nghiệm: quan điểm của Ðại thừa về “năm vị Phật”.
Ðó là năm dạng xuất hiện cơ bản của Báo thân, thể hiện phẩm tính
năm mặt khác nhau của Trí huệ (Bát nhã), nhưng cũng biểu hiện
cho những năng lượng khi còn xấu thì tạo ra thái độ tinh thần
tiêu cực, và sau khi đã chuyển hoá thì trở thành trí năng tích
cực.
Mỗi hiện tượng ấy mang một trong năm phẩm tính đó, nên có thể
xếp chung thành năm loại, hoặc năm gia đình lớn, được dàn dựng
theo Man-đa-la – bức tranh vẽ biểu tượng của vũ trụ và sức mạnh
trong vũ trụ. Mỗi vị Phật liên quan tới một uẩn trong ngũ uẩn;
diễn tả của Man-đa-la, mà nguyên nghĩa là vòng tròn vòng cung,
còn mang tính đồ hình về sự tương liên nối kết của bản ngã với
các đặc điểm nền tảng của toàn bộ thực tại.
Năm vị Phật của năm gia đình – Phật gia – ấy gồm:
1. Ðại Nhật Như Lai. Màu trắng, ở trung tâm của
Man-đa-la. Năng lượng này khi xấu thì vô minh, căn nguyên của
luân hồi, được chuyển hoá thì thành trí huệ hoàn hảo;
2. Bất Ðộng Như Lai. Màu xanh thẫm, đặt ở phía đông. Năng
lượng này khi xấu thì sân hận, được chuyển hoá thì thành trí
viên mãn như gương tròn sáng;
3. Bảo Sinh Như Lai. Màu vàng, đặt ở phía nam. Năng lượng
này khi xấu thì kiêu mạn, được chuyển hoá thì thành Bình đẳng
tín trí, trí năng bình thản;
4. A-di-đà Như Lai. Màu ráng đỏ, đặt ở phía đông. Năng
lượng này khi xấu thì tham dục, cùng hung cực ác, được chuyển
hoá thì thành Diệu quan sát trí, trí năng phân tích để phân
biệt;
5. Bất Không Thành Tựu Như Lai. Màu xanh lục, đặt ở phía
bắc. Năng lượng này khi xấu thì ganh ghét, được chuyển hoá thì
thành Thành sở tác trí, trí năng sung mãn;
VIII. Cuộc suy tàn của Phật giáo tại Ấn Ðộ
Sau một thời gian dài rất rực rỡ, tới thế kỷ thứ 3 hoặc thứ 4
sau CN, Phật giáo bắt đầu mờ nhạt dần. Cuộc suy vi tại Ấn Ðộ kéo
dài chầm chậm trong một ngàn năm tiếp sau đó được các học giả
phân tích với các nguyên nhân đa dạng. Tuy thế, trong đó có bốn
lý do quan trọng nhất.
Tầm cao kinh tế xã hội
Lý do thứ nhất liên quan tới quá trình tiến triển của Phật giáo
về mặt xã hội. Vào thời kỳ đầu, Phật giáo có sức lôi cuốn cực kỳ
những người thuộc cấp bậc cao trong hệ thống phẩm trật kinh tế,
chính trị và xã hội. Thậm chí trong thời cực thịnh, Phật giáo
với truyền thống văn hóa và triết học rất cao, đã nhận được sự
hỗ trợ mạnh mẽ của giới ưu tuyển chính trị và kinh tế. Ðiều ấy
không có nghĩa Phật giáo tự mình đoạn lìa với các giai tầng xã
hội thấp hoặc không thiết lập được cơ sở tại vùng nông thôn nơi
sinh sống đa số dân chúng Ấn Ðộ. Tuy thế, nó có nghĩa rằng Phật
giáo không trải rộng và thấu sâu vào người dân thường trong xã
hội cho bằng Ấn giáo. Do đó, Phật giáo dễ bị tổn thương trước
các sức mạnh đang làm thay đổi tình trạng kinh tế và chính trị.
Tình trạng cô lập của tu viện
Lý do thứ hai liên quan mật thiết tới sự suy tàn của Phật giáo
tại Ấn Ðộ là hố ngăn cách ngày càng rộng giữa các cộng đoàn tu
viện và quần chúng Phật tử tại gia, mà cả hai vốn được giả định
là cùng kết hiệp chặt chẽ.
Theo lý tưởng Phật giáo, giới tu sĩ và giới cư sĩ tương thuộc:
tu sĩ cung ứng lý tưởng tôn giáo và những lời giảng về Phật
pháp, còn cộng đồng cư sĩ cung cấp những hỗ trợ vật chất như
thực phẩm, y phục và nơi ở, nói theo kiểu ngày nay là “hộ trì
tam bảo”. Tuy nhiên, khi các tu viện ngày càng trở thành những
định chế tự túc dồi dào và làm chủ đất đai, giới tu sĩ cảm thấy
không nhất thiết phải chăm lo vận động sự hỗ trợ của giới cư sĩ.
Hậu quả là mối liên hệ hỗ tương giữa họ và dân chúng dần dần
biến mất.
Sức sống của truyền thống Bà-la-môn
Khoảng năm 186 trước CN, triều đại Sunga nắm quyền ở bắc Ấn,
khước từ Phật giáo và khích lệ các truyền thống “chính thống”
của Ấn giáo. Từ thời điểm đó, Phật giáo phải đối mặt với sự hồi
sinh của Ấn giáo. Tăng lữ Bà-la-môn sáng tạo các dạng thức mới
mẻ để triển khai tư tưởng triết học của mình, thí dụ hệ thống
Phi nhị nguyên chính thống của Sankara trong đó kết hợp nhiều
cái nhìn thấu suốt của Phật giáo, để từ đó thiết lập các hình
thức mới của đời sống thảo am và tu viện. Giới tu sĩ Bà-la-môn
tìm cách chính thống hoá Ðức Phật, xem ngài là một hóa thân của
Vishnu, vị thượng đế có rất nhiều hóa thân, như Rama và Krishna,
v.v., và đưa ngài vào đền thờ các thần linh Ấn giáo.
Người Ấn giáo cũng đặt ra một hệ thống nghi lễ tôn giáo có tính
tổng hợp, trực tiếp đáp ứng thoả đáng các nhu cầu tôn giáo và xã
hội đa dạng của dân chúng. Cụ thể là sự hỗ tương ảnh hưởng giữa
Mật tông Phật giáo và Mật giáo Ấn độ đã góp phần hóa giải ảnh
hưởng đặc thù của Phật giáo. Trong khi đó, giới Bà-la-môn bắt
đầu phát động các phong trào tận hiến, ra sức lôi cuốn sự yễm
trợ rộng rãi của người dân Ấn, và Ấn giáo có thể thu hút và bảo
lưu được ngày càng nhiều lòng trung thành của tầng lớp thượng
lưu cũng như dân giả.
Các cuộc ngoại xâm
Trong thế kỷ 6, các đạo quân Bạch Hung càn quét qua nhiều khu
vực Trung Á và tây bắc Ấn Ðộ. Sau người Bạch Hung, tới lượt các
bộ lạc Trung Á tới và định cư giữa vùng bình nguyên sông Indus
và Hằng Hà. Kế đó, qua thế kỷ 8, người Ả-rập Hồi giáo tới ở tại
cửa sông Indus. Dần dà, các đạo quân Hồi giáo chiếm đóng luôn cả
Đông Ấn. Khoảng thế kỷ 13, người Hồi giáo dựng lên một đế quốc
bao gồm toàn bộ vùng Bắc Ấn. Trong dòng tiến quân của họ, các
nhóm binh sĩ Ả-rập khác nhau phá huỷ nhiều trung tâm Phật giáo
lớn, thiêu huỷ kinh sách và làm tiêu hao nhiều cộng đoàn tăng
ni. Thêm nữa, một khi nắm quyền lực, người Hồi giáo xâm lăng đạt
được những thành quả lớn lao trong việc cải đạo những tín đồ
Phật giáo sang Hồi giáo.
Tới đầu thế kỷ 13, Phật giáo gần như bị triệt tiêu tại Bắc Ấn
ngoại trừ một số ít nhóm sống rải rác. Tuy vậy, đạo Phật vẫn
được thực hành tại Nam Ấn cho tới thế kỷ 15, rồi biến mất. Từ
lúc ấy cho tới thế kỷ 20, tại Ấn Ðộ, Phật giáo được thể hiện chủ
yếu trong những di tích đền đài cùng ảnh hưởng thẩm thấu và
trường tồn trong Ấn độ giáo, Hồi giáo, đạo Sikh, và các truyền
thống dân dã khác, làm thành văn minh Ấn độ. Ngay trong tâm thức
của người Ấn giáo, kể cả các bậc đạo sư lẫn giới trí thức, Ðức
Phật vẫn là niềm hứng khởi và hình ảnh của một đấng cứu độ, đại
tôn sư về tâm linh và giác ngộ.
Ở bên ngoài Ấn Ðộ, công cuộc hoằng pháp ngày càng thịnh đạt với
những triển khai muôn hình muôn vẻ. Ngay từ đầu công nguyên, nhờ
con đường truyền giáo Nam tông và Bắc tông, Phật giáo không biến
mất mà càng lúc càng được kiến thiết và duy trì sống động trong
cuộc sống hằng ngày trên các miền đất mới. Sang tới đầu thế kỷ
21, với tinh thần từ bi, phá chấp, phi cơ chế và chứng nghiệm
của mình, Phật giáo ngày càng được đón nhận rộng rãi, đầy nhiệt
tình trong giới trí thức phương Tây, và đang phát huy nền triết
học thâm sâu cùng thể hiện tính cách bao dung và tự lực trên
đường trở thành một tôn giáo thế giới.
IX. Triển khai về sau của Ðại thừa
Chúng ta đã nhìn vào một số đặc điểm căn bản của triết học Phật
giáo. Trong khi từ Ấn Ðộ, Tiểu thừa truyền qua ngả Tích Lan tới
Miến Ðiện, vương quốc Khmer, Indonesia, và vùng đất về sau là
Thái Lan, Ðại thừa bắt đầu truyền sang Trung Á, Tây Tạng và đặc
biệt các nước Á đông đồng văn như Việt Nam, Trung Hoa, qua Triều
Tiên tới Nhật Bản. Bánh xe hoằng pháp càng lăn trên những vùng
đất văn hoá xa lạ thì càng cuộn vào nó vô số dấu vết mới mẻ và
những hình thức chuyển động thích nghi. Sự kiện ấy được phản ánh
trung thực trong sinh hoạt nghi lễ và nét vẽ, chạm khuôn mặt
Phật cá biệt, tương ứng với hình ảnh người dân bản địa, cùng lối
kiến trúc bên ngoài và trang trí bên trong các đền chùa.
Phật giáo là một tôn giáo và cũng là một triết học, trong cuộc
vận hành trên những vùng đất mới ấy, nảy sinh những triển khai
tư duy và thực hành đáp ứng yếu tính và nhu cầu đặc thù mỗi dân
tộc, nhưng tựu chung, vẫn dựa trên nền tảng Phật pháp truyền
thống. Tuy thế, có một số tông phái Phật giáo cho thấy các lý
thuyết triết học mờ nhạt hơn các biểu hiện tôn giáo. Dưới đây,
ta sẽ đề cập đôi nét về Phật giáo Trung Hoa, Tây Tạng và Nhật
Bản, nhìn thoáng qua Phật giáo Việt Nam, là những nơi có các
triển khai đặc thù, mang ý nghĩa triết học.
1.
Tại Trung Hoa
Theo ngả Bắc tông, Phật giáo truyền sang Trung Hoa rồi mang một
hình thức cá biệt; nói theo một số học giả, Phật giáo đã được
phần nào Trung Hoa hoá.
Các giai đoạn thăng trầm
Có thể chia quá trình phát triển Phật giáo tại Trung Hoa làm 4
thời kỳ.
1. Thời sơ khai, khi mới du nhập Trung Hoa – thế kỷ 2 sau CN,
Phật giáo bị xem như một loại phương thuật thần tiên, phần vì
phải dùng ngôn ngữ Ðạo giáo để diễn tả giáo thuyết và dịch kinh
sách Phật, phần vì những người Hán đầu tiên theo đạo Phật là
người từng theo Ðạo giáo. Dấu vết này, cả về học thuyết lẫn nghi
lễ, còn được ghi sâu đậm và lâu dài, tiêu biểu trong trong một
số tác phẩm văn học như Tây du ký của Ngô Thừa Ân và
Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, v.v…
2. Sang thời phát triển, từ thế kỉ 3 tới thế kỉ 5, kinh Phật tìm
thấy ngôn ngữ tương đối thích hợp và được dịch rất nhiều. Trung
Hoa có cộng đoàn Tăng già từ năm 355. Thời này nổi bật cao tăng
Chi Ðộn (314-366) sáng lập trường phái Bát nhã, một trong Lục
gia thất tông. Năm 399, sư Pháp Hiển là người đầu tiên thật sự
đi Ấn Ðộ học hỏi và thu thập kinh sách. Sư Cưu Ma La Thập
(344-413) có công lớn dịch kinh điển Ðại Thừa và truyền bá rộng
rãi giáo pháp của Trung quán tông. Không thể không kể tới đại
công của sư Chân Ðế (499- 569), người dịch 64 cuốn kinh, đưa Duy
thức tông vào. Ðóng vai trò quan trọng trong thời kỳ này là các
kinh Nhập Lăng già, Ðại bát niết bàn và Thành
thật luận. Từ đó đưa tới sự ra đời của các phái Tam luận
tông, Thành thật tông, Niết bàn tông. Ðây là thời Phật giáo phát
triển rộng rãi, được sự ủng hộ của triều đình, xây nhiều chùa và
cho ra đời nhiều tác phẩm.
3. Kế đó, tới thời cực thịnh từ thế kỷ 6 tới thế kỷ 10. Nhân vật
kiệt xuất là cao tăng Huyền Trang Tam Tạng (600-664), người sáng
lập Pháp tướng tông, một dạng của Duy thức tông. Sư du hành Ấn
Ðộ trong 16 năm, giảng học tại Viện Phật học Nalanda rồi mang về
và dịch hàng trăm bộ kinh. Thời này xuất hiện các tông như Hoa
nghiêm, Thiên thai, Tịnh độ, v.v… và đặc biệt Thiền tông mà ta
sẽ đề cập chi tiết trong chương 9. Cùng với thời kỳ trước, Phật
giáo Trung Hoa tàng trữ được rất nhiều kinh sách dịch từ Phạn
ngữ, và tới lượt kho tàng này được nghiên cứu trở lại sau khi
tại Ấn Ðộ, rất nhiều kinh sách nguyên ngữ bị thất lạc.
4. Tiếp đến là thời suy yếu hoặc hoà đồng. Từ thế kỷ 13, dưới
triều đại Tống, Phật giáo Trung Hoa không bao giờ trở lại được
thời huy hoàng ngày trước. Phật giáo hoà nhập với Nho giáo và
Ðạo giáo và để lại dấu ấn quan trọng của Tam giáo trong nền văn
hoá; chỉ còn Thiền tông và Tịnh độ tông là quan trọng. Sang tới
thời Nguyên, Minh, Thanh, Phật giáo càng sa sút. Các tông phái
dung hợp nhau và vấn đề Tâm tính trở thành trọng tâm của triết
học. Có khuynh hướng Thiền Tịnh hợp nhất, gây được ảnh hưởng
đáng kể, với cao tăng Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615). Sau đó, từ
thế kỷ 17 tới 20, Phật giáo Tây tạng bắt đầu lan sang và có tác
động, nhưng tới thời Cách mạng Văn hoá (1966-1976) Phật giáo
Trung Hoa lại gặp cơn khốn đốn.
Lục gia thất tông
“Sáu nhà bảy phái” hình thành trong giai đoạn phát triển
của Phật giáo, khoảng thế kỷ thứ 4. Thời Nguỵ Tấn, vì mới khởi
sự dịch kinh nên có rất nhiều điểm mơ hồ về kinh nghĩa và dùng
từ ngữ của Lão Trang nên sinh ra nhiều cách hiểu khác nhau. Dưới
ảnh hưởng của Ðạo giáo và vì thiếu ngôn từ thích đáng, các nhà
Phật học thời đó liền liên tưởng tới khái niệm Vô, dùng nó để
tiếp cận chữ Không. Còn nữa, những tranh luận về Huyền học đương
thời cũng được đưa vào nội dung nghiên cứu kinh Bát nhã ba la
mật, dẫn tới sự ra đời Bát nhã học làm nảy sinh “sáu
nhà”: Bản vô tông, Tức sắc tông, Thức hàm tông, Huyễn hoá tông,
Tâm vô tông và Duyên hội tông. Sau có thêm Bản vô dị tông
từ Bản vô tông phân ra, nên được gọi là Lục gia thất tông.
Khuôn mặt nổi bật trong Lục gia thất tông là cao tăng và nhà thơ
Chi Ðộn (314-366), còn gọi là Chi Ðạo Lâm. Sư vốn họ Quan, người
đất Trần Lưu (nay ở phía đông Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Ðọc kinh
từ nhỏ, năm 25 tuổi xuất gia, có tài viết chữ Thảo, chữ Lệ và
thích nuôi ngựa. Có người nói nuôi ngựa không phải là việc người
tu hành nên làm, sư cười đáp: “Bần đạo ưa cái vẻ thần tuấn của
nó”. Hay thơ, thích đàm luận huyền học và là bạn của nhà thư
pháp Vương Hi Chi (303-361). Ðược người đời gọi là “nhà huyền
học hoá”, sư viết nhiều sách, trong đó có Tức sắc huyền luận,
mở đầu lập thuyết và thành lập tông phái “Bát nhã học tức sắc”
trong Lục gia. Theo sư Chi Ðộn, “Tính của sắc là không tự có
sắc. Sắc không tự có nên tuy có sắc mà là không, cho nên bảo sắc
tức là không, sắc lại khác không”. Quan điểm ấy về sau bị phê
phán là chưa triệt để, chỉ nhìn sắc không như do nhân duyên tạo
thành, mà không nắm vững tính chất thống nhất vừa Thể vừa Dụng
của tinh thần “sắc tức là không, không tức là sắc”.
Tuy thế, sư Chi Ðạo Lâm là người đầu tiên luận giải danh từ Lý
dưới ánh sáng Phật giáo. Theo quan niệm truyền thống từ Trung
Hoa cổ đại, Lý là qui luật của vũ trụ, nhưng đối với sư Chi Ðộn,
Lý tức là Chân lý cùng tột, Tuyệt đối, Chân như. Quan niệm Lý ấy
về sau được các tông phái khác tiếp thu và phát triển thêm,
trong đó có Hoa nghiêm tông.
Tam luận tông
Trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa, đây là tông phái đầu tiên lập
một hệ thống triết học, tuy trong mắt giới học thuật, nó là một
học phái hơn là một tông phái. Sở dĩ có tên Tam luận tông vì đặt
cơ sở lý luận trên hai bộ luận của Long Thọ là Trung quán
luận tụng, và Thập nhị môn luận cộng với một bộ luận
của Thánh Thiên là Bách luận.
Các bộ luận ấy ở trong số 35 bộ 294 quyển kinh Phật, được cao
tăng Cưu-ma-la-thập (344-413) dịch và chú giải vào thế kỷ 5, trở
thành kinh điển cơ bản cho các học phái và tông phái Phật giáo
Trung Hoa. Sư chào đời ở Tây Vực, nay là vùng Tân Cương, cùng mẹ
gia nhập Tăng già từ năm 7 tuổi, trước học Tiểu thừa sau qua Ðại
thừa.
Năm 401, Cưu-ma-la-thập đến Trường An và bắt đầu công trình dịch
thuật trong hơn 10 năm, với sự góp sức của cả ngàn nhà sư và
được triều đình hỗ trợ tích cực. Năm 402, sư được phong danh
hiệu Quốc sư. Dưới sự chỉ đạo và biên tập của sư, các bản dịch
kinh sách Ðại thừa từ Phạn ngữ (sanskrit) ra Hán văn đã mang một
phong cách mới và tìm được ngôn từ thích hợp. Sư chủ trương dịch
theo ý, dám cắt bỏ một vài đoạn không hợp và chuyển văn từ cho
hợp với người Hán. Với những bản dịch tác phẩm quan trọng nhất
của Long Thọ và Thánh Thiên, sư là người truyền bá triết học
Trung quán tông rộng rãi tại Trung Hoa.
Tam luận tông khởi đi từ Cưu-ma-la-thập tới Tăng Triệu (374-
414), vị sư xuất sắc, được coi là “người hiểu Không tính hàng
đầu”. Kế đó qua các sư Tăng Lãng, qua Tăng Thuyên, đến Pháp Lãng
rồi tới đại sư Cát Tạng (549-623), người được tôn xưng là “thuỷ
tổ của Huyền tông” và cũng được xem là người chính thức sáng lập
Tam luận tông. Suốt đời, sư Cát Tạng giảng Tam luận hơn
100 lần và giảng kinh Pháp hoa hơn 300 lần. Tác phẩm
Tam luận huyền nghĩa của sư được lưu hành rộng rãi, cả ở
Triều Tiên lẫn Nhật Bản.
Bắt nguồn từ Trung quán tông nhưng có những nét đặc thù của
Trung Hoa, Tam luận tông cho rằng Ðức Phật chỉ dạy hai phép tu
là:
1. Thanh văn thừa: Tu theo Tiểu thừa, nhờ nghe giảng pháp Tứ
diệu đế mà giác ngộ. Mục đích cao nhất của Thanh văn là đạt Vô
dư Niết bàn mà thành A-la-hán.
2. Bồ tát thừa: Tu theo Ðại thừa, chứng tri kiến Không tính của
thế giới hiện tượng mà đạt giác ngộ, đạt quả vị Bồ tát. Và đây
là phép tu của Tam luận tông.
Theo Tam luận tông, có 3 thời giáo thuyết giảng của Ðức Phật:
1. Thời giáo thứ nhất, kinh Hoa nghiêm. Kinh này chứa những lời
khai thị cho Bồ tát nhưng các đệ tử thời đó chưa đủ trình độ
lãnh hội;
2. Thời giáo thứ hai, Phật giảng theo trình độ của đệ tử; kéo
dài giữa thời kinh Hoa nghiêm và thời kinh Diệu pháp liên hoa,
trong đó toàn bộ giáo pháp bao gồm Tiểu thừa lẫn Ðại thừa, có
giá trị cả cho Thanh văn thừa, Ðộc giác thừa và Bồ tát thừa;
3. Thời giáo thứ ba, là lúc mọi đệ tử đã sẵn sàng để nghe kinh
Diệu pháp liên hoa. Ðây là thời Phật thừa, chỉ có một pháp duy
nhất.
Về học thuyết, Tam luận tông không chấp hữu – tức là có – cũng
không chấp vô – tức là không; sự vật khách quan tuy tồn tại
nhưng không như chúng ta thấy, chúng do nhân duyên sinh, nhưng
tự chúng không có bản thể, không có thực thể. Sư Cát Tạng chia
mỗi chân lý trong Nhị đế thành ba cấp:
A. Chân lý tương đối:
1. Chấp hữu, cho rằng tất cả đều có;
2. Chấp hữu hoặc chấp vô;
3. Chấp hoặc không chấp cả hữu lẫn vô.
B. Chân lý tuyệt đối:
1. Chấp vô, cho rằng tất cả đều không;
2. Không chấp cả hữu lẫn vô;
3. Không chấp và cũng không không chấp cả hữu lẫn vô.
Từ lý thuyết ấy, sư Cát Tạng đạt tới, qua nhiều lần phủ định,
một cấp độ ở đó cả hữu lẫn vô đều có ý nghĩa. Và đây chính là
mức độ cao nhất của Trung đạo. Người đời sau xếp sư vào mười vị
Ðại sư đời Hậu Tuỳ (618-626).
Học thuyết Tam luận tông thịnh hành đầu đời Ðường. Tới khi các
tông phái Duy thức và Pháp tướng, Hoa nghiêm, Thiền lưu hành
rộng rãi, Tam luận tông suy yếu dần.
Thiên thai tông
Kính ngưỡng đại luận sư Long Thọ là sơ tổ, lấy Diệu pháp liên
hoa kinh làm căn bản, Trí độ luận làm kim chỉ nam,
Ðại bát-niết-bàn kinh (cuốn sanskrit – Ðại thừa) hỗ trợ và
Bát-nhã Ba-la-mật làm cơ sở của các phép quán, Thiên thai
tông được thành lập đời Trần-Tuỳ do cao tăng Trí Khải (538-597)
tại núi Thiên Thai, nay thuộc tỉnh Triết Giang. Ðược xem là một
phái bao quát, Thiên thai tông chứa đựng một cách tổng hợp nhiều
quan điểm của các phái khác. Từ thế kỷ 9, tông này truyền qua
Nhật Bản và đóng vai trò rất quan trọng tại đó.
Dựa trên học thuyết Long Thọ về Không tính và Chân như, Thiên
thai tông phân tích thành ba chân lý là:
1. Không. Trống rỗng. Mọi pháp đều hư không, không có tự
tính;
2. Giả. Có hình tướng. Tuy thế, mỗi pháp có dạng hiện hữu
tạm thời với thời gian nên con người có thể biết nó bằng giác
quan;
3. Trung. Ở giữa. Tổng hợp Không và Giả. Thể của sự vật
không nằm ngoài hình tướng nên không thể bỏ hiện tượng mà đi tìm
bản chất. Thể và tướng là một.
Như thế, học thuyết này khẳng định ý tưởng về tính toàn bộ và sự
xâm nhập lẫn nhau của vạn pháp. Toàn bộ và các thành phần đều
đan lồng vào nhau; mỗi cái chứa đựng mọi cái khác. Không, Giả và
Trung chỉ là một và từ một mà ra. “Toàn thể vũ trụ nằm trên đầu
một hạt cải” và “Một ý nghĩ chứa đựng ba ngàn thế giới”. Từ đó,
phương pháp của Thiên thai tông tuy bao hàm các yếu tố Mật tông
như Mantra (thần chú) và Man-đa-la, nhưng căn bản vẫn là Chỉ
quán. Chỉ là sự tập trung và tĩnh tâm, để nhận ra rằng vạn pháp
đều là hư không, nên ngăn cản được việc hình thành các ảo ảnh
mới. Quán để thấy tận tường rằng mỗi pháp tuy hư không nhưng vẫn
hiện hữu theo vẻ ngoài, tạm thời và mang chức năng ước lệ.
Thiên thai tông chia giáo pháp Phật Thích Ca thành năm thời kỳ
thuyết giảng:
1. Thời giáo Hoa nghiêm. Chỉ vỏn vẹn trong 3 tuần lễ. Sau khi
đại giác, Ðức Phật thuyết giảng kinh Hoa nghiêm, có ý dạy toàn
bộ chân lý với ý tưởng cho rằng vũ trụ là biểu hiện của cái
Tuyệt đối, nhưng rồi ngài nhận thấy chẳng người nghe nào hiểu.
2. Thời giáo Tiểu thừa. Kéo dài 13 năm, còn gọi là thời A hàm.
Ðức Phật dạy những gì các môn đồ có thể hiểu. Nội dung chứa đựng
trong các kinh A hàm như Tứ điệu đế, Bát chính đạo, Thập nhị
nhân duyên.
3. Thời giáo thứ nhất của Ðại thừa. Kéo dài 8 năm, còn gọi là
thời Phương đẳng. Ngài nhấn mạnh tính ưu việt của Bồ tát so với
A-la-hán, và làm sáng tỏ sự thống nhất giữa Phật và người, giữa
cái tương đối và cái Tuyệt đối.
4. Thời giáo đích thực Ðại thừa. Kéo dài 20 năm, còn gọi là thời
Bát nhã. Phật giảng về kinh Bát-nhã Ba-la-mật, trong đó nhấn
mạnh Không tính và sự tồn tại của các mặt đối lập.
5. Thời đốn giáo. Tương ứng với 8 năm tại thế cuối cùng của Ðức
Phật, còn gọi là thời Pháp hoa và Niết bàn. Ngài đặc biệt nhấn
mạnh tính đồng nhất tuyệt đối của các mặt đối lập, giảng về kinh
Pháp hoa và kinh Ðại bát niết bàn. Ba cỗ xe (triyana) của các
Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát đều có giá trị giới hạn về thời
gian, và cuối cùng hoà lẫn nhau thành một cỗ xe duy nhất: Phật
thừa (ekayana: nhất thừa). Trong thời kỳ này, Ðức Phật trình bày
học thuyết hoàn hảo, theo quan niệm của Thiên thai tông.
Hoa nghiêm tông
Lấy Ðại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh làm giáo lý căn
bản, Hoa nghiêm tông do Pháp sư Hiền Thủ Pháp Tạng (643-712)
thành lập từ đời nhà Đường. Nhưng trước đó, tông có sơ tổ là sư
Ðỗ Thuận (557-640) và nhị tổ là sư Vân Hoa Trí Nghiễm (602-668).
Hiện nay, Hoa nghiêm tông vẫn thịnh hành ở Trung Hoa và Nhật
Bản.
Mọi vật đều bình đẳng – hiểu như đồng nghĩa với Tuyệt đối, tức
là Bất nhị: không có hai – và đều liên hệ lẫn nhau, không cái
nào tồn tại độc lập. Khái niệm này được gọi là “nhất thể” vì Hoa
nghiêm tông quan niệm rằng tất cả đều từ Một mà ra và mọi hiện
tượng chẳng qua chỉ là vẻ xuất hiện bên ngoài của cái Một đó.
Các hiện tượng của Pháp giới cùng xuất hiện đồng thời và mỗi
Pháp đều có sáu đặc trưng căn bản (xem phần Vũ trụ luận nói tới
Hoa nghiêm).
So với các trường phái Ðại thừa khác, Hoa nghiêm tông có điểm
khác biệt là chuyên nghiên cứu mối liên hệ giữa hiện tượng với
nhau chứ không phải mối liên hệ giữ hiện tượng và bản thể – cái
Tuyệt đối. Các thực thể hiện hữu trong trạng thái hoàn toàn hoà
hợp vì đều là những biểu hiện của Nguyên lý thống nhất. Tuy
chúng cực kỳ khác nhau như những làn sóng biển, nhưng đều bắt
nguồn từ một Nguyên lý cao nhất và do đó, chỉ là Một với Tinh
thần Phật.
Hoa nghiêm tông chia vũ trụ thành 4 thế giới (Tứ pháp giới):
1. Thế giới hiện thực của các hiện tượng, gọi là Sự;
2. Thế giới của Nguyên lý, của cái Tuyệt đối, gọi là Lý;
3. Thế giới trong đó các hiện tượng và các nguyên lý xâm nhập
lẫn nhau, gọi là Lý sự vô ngại;
4. Thế giới “lý tưởng”, trong đó các hiện tượng đều có thể cùng
hiện hữu hài hoà, không cản trở nhau, gọi là Sự sự vô ngại
Dùng hình ảnh toàn thân con sư tử và các cơ quan hay bộ phận
thân thể của nó, sư Pháp Tạng giải thích sáu bản tính của các
Pháp (dharmas) thành Lục tướng như sau:
1. Tính phổ biến, tương ứng với toàn bộ con sư tử;
2. Tính riêng biệt, như mỗi bộ phận của con sư tử, có chức năng
riêng, phân biệt với toàn thân của nó;
3. Tính giống nhau, vì mọi cơ quan đều là các bộ phận của con sư
tử;
4. Tính đặc thù thể hiện ở chức năng khác nhau của mỗi cơ quan;
5. Tính hợp nhất ở chỗ mọi cơ quan hiệp thành con sư tử;
6. Tính phân hoá vì mỗi cơ quan chiếm một vị trí riêng biệt
trong toàn bộ con sư tử.
Về sự phân chia các thời giáo thuyết giảng của Ðức Phật, quan
điểm của Hoa nghiêm tông có phần hơi khác với của Thiên thai
tông, tuy cũng chia làm năm thời kỳ.
1. Thời đầu tiên, Ðức Phật giảng giáo lý Tiểu thừa;
2. Thời thứ hai, Ðức Phật giảng Ðại thừa thuỷ giáo tức
giáo lý sơ bộ của Ðại thừa. Theo sư Pháp Tạng, Tam luận tông
thuộc thời kỳ này vì chỉ nói về Không tính, chưa đề cập tới Phật
tính có sẵn trong mọi chúng sinh;
3. Thời kỳ thứ ba, Ðức Phật giảng về Ðại thừa chung giáo,
là giáo pháp Ðại thừa hoàn hảo. Theo Hoa nghiêm tông, giáo lý
Thiên thai tông thuộc thời kỳ này vì nói về Không tính mà không
bác bỏ sự hiện hữu của hiện tượng, cái vốn giả;
4. Thời kỳ thứ tư, Ðức Phật giảng về Ðốn giáo, tức giáo
lý chứng ngộ trực tiếp, tức thời, không theo cấp bậc nào. Giáo
lý Thiền tông thuộc thời kỳ này;
5. Thời kỳ thứ năm, Ðức Phật giảng Viên giáo, giáo pháp
trọn vẹn, đó là giáo pháp Hoa nghiêm tông.
Tịnh độ tông
Tịnh độ (buddhaksetra), theo Ðại thừa, có thể hiểu theo hai
cách:
1. Về ý nghĩa, có ý chỉ cảnh giới tâm linh thanh tịnh, được sở
đắc trọn vẹn bởi bậc giác ngộ, và là một dạng ưu việt của tâm
thức.
2. Về hình tượng, là cõi trời tinh sạch nơi Phật ở, không bị uế
nhiễm bởi ngũ trọc, và đối lập với trần thế nhơ nhớp là nơi
chúng sinh phàm tục sinh sống.
Cũng theo Ðại thừa, mỗi cõi Tịnh độ thuộc về một vị Phật; vì có
vô số chư Phật nên có vô số Tịnh độ. Cõi Tịnh độ được nhắc nhở
nhiều nhất có tên là Cực lạc mà giáo chủ là vị Phật quan trọng,
được tôn thờ nhiều nhất trong Ðại thừa là A-di-đà. Cõi ấy nằm ở
phương Tây – phía đông là cõi Ta-bà của chúng ta. (Xem tiểu đề
Năm vị Phật và bức tranh Man-đa-la ở phần trên)
Theo kinh sách, cõi Cực lạc (sukhavati) cũng được gọi là An lạc
quốc, An dưỡng quốc, Thanh thái quốc hay Hảo ý quốc. Ðó là nơi
chan hoà ánh sáng của Phật A-di-đà, đầy nhạc, hoa và châu ngọc,
không có súc sinh, địa ngục cùng A-tu-la. Chúng sinh thác vào
đây hết cảnh già chết bệnh tật, sống an nhàn hạnh phúc, được
nghe Phật A-di-đà giảng pháp, và tu mãi cho tới khi thành Phật.
Cũng sẽ được như ý nếu muốn tái sinh qua các cõi thế giới khác
để tu thêm công đức hoặc vào các nhà tôn quí, căn cơ đầy đủ,
đáng kính đáng yêu; sau khi mệnh chung cũng sẽ quay về cõi Cực
lạc tu học thêm nữa cho đến khi viên thành, nhập Niết bàn.
Từ khoảng thế kỷ thứ nhất sau CN, đã có tục tôn thờ Phật
A-di-đà, biểu tượng cho Từ bi và Trí huệ. Hình tượng của ngài
thường được vẽ với màu đỏ ráng chiều trời tây, tay bắt Ấn thiền
định hay Ấn giáo hoá, giữ Bát đựng trái cây. Ngài ngồi trên toà
sen tượng trưng cho thanh tịnh và hai con công biểu hiệu cho
thoát hiểm, thoát khổ. Cùng được thờ với A-di-đà có hai vị Ðại
Bồ tát Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí. Phật A-di-đà cũng được kính
danh theo nghĩa Vô-lượng-thọ Phật, Vô-lượng-quang Phật hoặc Tây
Phật. Người Mật tông gọi Phật A-di-đà là Cam-lộ Vương.
Tương truyền A-di-đà từng là một vị vua, xuất gia làm Tì kheo
Pháp Tạng; đây là một dạng tiền kiếp của ngài, không phải là
Hiền Thủ Pháp Tạng của Hoa nghiêm tông. Ngài quyết tâm tu thành
Phật và nguyện giúp chúng sinh sống trong cõi Cực lạc của mình
cũng thành Phật. Ngài đưa ra 48 đại nguyện nhằm cứu độ chúng
sinh giải thoát, trong đó có việc chúng sinh chỉ cần nghe đến
danh ngài sẽ được:
a. Khi sống mà khởi niệm thì cầu đạt chánh quả vô thượng;
b. Khi lâm chung sẽ có ngài hiện đến để tiếp dẫn và giúp cho
quyến thuộc chung quanh khỏi sợ hãi;
c. Khi lìa đời, muốn thác sinh vào cõi Tịnh độ (Cực lạc quốc)
của ngài để trau dồi thiện nghiệp thì được toại nguyện.
Tịnh độ tông được sáng lập bởi cao tăng Huệ Viễn (334-416).
Thiếu thời theo học Nho của Khổng Mạnh và Ðạo của Lão Trang, năm
21 tuổi, sư xuất gia theo thầy là cao tăng Ðạo An (312-385) và
gia nhập Tăng già, bắt đầu học kinh Bát nhã Ba-la-mật. Sư là một
trong những cao tăng Trung Hoa đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng
của phép Thiền trong việc tu học. Tại Lư Sơn, một trung tâm Phật
giáo quan trọng thuộc tỉnh Giang Tây ngày nay, sư Huệ Viễn cổ
động dịch kinh sách và thường liên hệ với sư Cưu-ma-la-thập để
trao đổi về các vấn đề Kinh tạng và sự khác biệt giữa một
A-la-hán và một Bồ tát.
Năm 402, sư Huệ Viễn tập hợp 123 tăng sĩ, thệ nguyện trước tượng
A-di-đà là sẽ thác sinh vào cõi Tây phương Cực lạc, và sư thành
lập Liên phái. Từ đây, sư được xem là sơ tổ của Tịnh độ tông.
Kinh sách quan trọng của tông này là Lạc hữu trang nghiêm
hay Ðại thừa vô lượng thọ trang nghiêm, Quán vô lượng
thọ và A-di-đà kinh mà nguyên bản Phạn ngữ đã bị thất
lạc, chỉ còn những bản dịch chữ Hán của Cưu-ma-la-thập và Huyền
Trang.
Các nẻo đường tu tập, theo lối nói hẳn có tính tượng trưng thì
có tới tám vạn bốn ngàn pháp môn, tuỳ trình độ và căn cơ của
từng sinh linh. Theo sư Ðàm Loan (476-542), người tích cực phát
triển Tịnh độ tông thì trong thời mạt pháp này phải chọn lấy một
pháp môn thích hợp cho chúng sinh yếu đuối và si dại, không đủ
tự lực để đeo đuổi con đường tu luyện gian nan. Và đó là Tịnh độ
tông. Nền tảng của Tịnh độ tông là lòng tin nhiệt thành vào lời
thệ nguyện và sức mạnh cứu độ của Phật A-di-đà, đấng cai quản
cõi Cực lạc ở phương Tây, nơi ta có thể tuỳ vào công đức của
mình trong kiếp sống này để sau khi từ trần, thác sinh vào cõi
cuối cùng ấy rồi an tâm tu tập cho tới khi nhập Niết bàn.
Phương pháp tu tập của Tịnh độ tông có 4 đặc điểm:
1. Tin tưởng tuyệt đối vào lời Phật A-di-đà thệ nguyện cứu độ
chúng sinh có lòng tín ngưỡng ngài.
2. Trông cậy tuyệt đối vào sức mạnh cứu độ của Phật A-di-đà;
3. Lấy việc niệm danh hiệu Phật A-di-đà làm chủ yếu;
4. Quán tưởng cõi tịnh độ Tây phương Cực lạc.
Về hình thức, việc niệm “Nam mô A-di-đà Phật: Cúi đầu đảnh lễ
Phật A-di-đà” và quán cõi Cực lạc, thoạt xem có vẻ dễ dãi và dựa
vào tha lực, nhưng nhìn kỹ vào thực chất hẳn thấy nó không kém
phần sâu sắc, thực tiễn và rất thân cận với thường tính con
người. Có lẽ nhờ thế, tông phái này được đông đảo người theo
nhất so với mọi tông phái khác từ trước tới nay. Chân Nguyên và
Nguyễn Tường Bách phân tích cặn kẽ ý nghĩa và cứu cánh của phép
quán niệm ấy trang sách đã dẫn, t. 434 như sau:
“Mục đích của phép niệm danh hiệu A-di đà là tìm cách chế ngự
tâm. Thường thường hành giả tự đặt cho mình một chỉ tiêu niệm
bao nhiêu lần. Phép quán niệm này được xem là có thể giúp hành
giả ‘thấy’ được A-di-đà và hai vị Bồ tát tả hữu là Quán Thế Âm
và Ðại Thế Chí và biết trước được giờ chết của mình. Phép niệm
này có thể thực hiện bằng cách đọc to hay đọc thầm, không nhất
thiết phải có tranh tượng A-di-đà. Ðó là cách tu thông thường
nhất. Ngoài ra hành giả có thể thực hiện phép thứ 16 trong Vô
lượng thọ kinh, bằng cách tạo linh ảnh của A-di-đà và thế giới
Cực lạc, xem như hiển hiện trước mắt. Phép tu cao nhất của tông
này là tự xem thể tính của mình chính là A-di-đà. Tất cả mọi
hành giả của Tịnh độ tông đều mong muốn được thấy A-di-đà trong
một linh ảnh, đó là bằng chứng chắc chắn nhất sẽ được tái sinh
trong cõi Cực lạc. Niệm danh hiệu và tạo linh ảnh là điều kiện
‘bên ngoài’, lòng tin kiên cố nơi A-di-đà là điều kiện ‘bên
trong’ của phép tu này, với hai điều kiện đó thì hành giả mới
được tái sinh nơi cõi Cực lạc”.
Sở dĩ phải dành chỗ tương đối rộng cho Tịnh độ tông trong cuốn
sách đại cương và hạn hẹp này chính vì đây là tông phái Phật
giáo phổ biến nhất, cho đến tận ngày nay, tại Trung Hoa, Nhật
Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
So với Kitô giáo
Niệm danh hiệu Phật A-đi-đà để “thân tâm an lạc” được tin là có
khả năng xua tan tạp niệm, vun xới thiện căn trong tâm thức và
xác lập định hướng công quả cho mỗi hành động của người tu tập.
Có thể thăm dò điểm tương đồng của nó trong việc kêu tên và
chiêm nghiệm gương phước Ðức Giê-su của Kitô giáo.
Có một truyền thống mang tính thần bí hoặc huyền học của Chính
thống giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung, chủ trương chỉ việc
kêu lên thánh danh Ðức Giê-su – thí dụ “Chúa Giê-su Kitô, xin
thương xót tôi” – là “thơm tho miệng lưỡi”, thoát khỏi mọi lâm
nguy, sống an chết lành và được cứu rỗi muôn đời. Song song,
việc chiêm nghiệm về cuộc đời Ðức Giê-su khiến ta tu đức theo
gương phước của Ngài. Người biện hộ cho phép kêu thánh danh và
chiêm nghiệm này cũng lập luận rằng đây là một phương pháp tạo
an tĩnh trong tâm hồn, chế ngự cái ác chờ chực xuất hiện, và
viện cầu hữu hiệu ơn cứu độ.
Trọng điểm của cách thế tu tập ấy là qua tâm trí, đến tâm hồn
vào sâu trong tâm linh, hiệp nhất với cái Tuyệt đối. (Xem
Chuyện người hành hương, Nguyễn Ước biên dịch, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội, 2007)
Ðặt phép quán niệm này dưới ánh sáng phân tâm học, có thể thấy ở
đây có hiệu ứng của vô thức lên ý thức. Ðiểm khác biệt là tác
động ấy có chủ ý và do bởi chủ thể hành giả (tín đồ Tịnh độ
tông) chứ không là tiếp nhận thụ động từ khách thể (phân tâm
học), do đó quán niệm có tính chủ động (ý thức vào vô thức rồi
tác động trở lại ý thức) và thuận tiện biến thành tập quán tích
cực.
Mật Tông
Chuyên dùng những phép tu tập huyền bí như linh phù, mật chú, ấn
quyết, quán đỉnh, Mật tông Trung Hoa được thành lập bởi một số
cao tăng đến từ Ấn Ðộ và Tích Lan. Xuất sắc và nổi tiếng nhất là
đại sư Thiện Vô Uý, tên chữ Hán của Subhakara (637- 735), người
từng giảng dạy Mật giáo tại Viện Phật học Nalanda. Sư đến Trung
Hoa năm 720 và dịch bộ kinh căn bản của Mật tông là Ðại tì lô
giá na kinh.
Người Mật tông không thờ Phật Thích Ca mà thờ Phật Ðại Nhật Như
Lai, với niềm tin rằng đó là vị Phật đầu tiên đề ra giáo thuyết
cho họ. Mật tông không được truyền bá sâu rộng vì giáo lý chỉ bí
truyền từ thầy xuống trò. Có lẽ vì thế, từ cuối thế kỷ 8, Mật
Tông không còn thịnh hành. Chúng ta sẽ trở lại tông phái này
trong chương 7.
Chúng ta sẽ dành nguyên chương 9 để bàn về tông phái này.
Thiền Tịnh hợp nhất
Ở đây, Thiền là Thiền tông, Tịnh là Tịnh độ tông. Từ thời nhà
Minh (1368-1644), có một khuynh hướng phối hợp và phát triển
cách tu niệm danh Phật A-di-đà với phương pháp hành thiền, gây
được ảnh hưởng đáng kể và còn để lại dấu vết rộng rãi cho tới
ngày nay.
Người sáng lập khuynh hướng Thiền Tịnh hợp nhất là Cao tăng Vân
Thê Châu Hoàng (1535-1615). Thuở thanh niên, sư học Nho, năm 32
tuổi mới xuất gia cầu đạo với nhiều cao tăng và nhiều tông phái
đương thời. Sư sáng lập chùa Vân Thê tại Hàng Châu, nơi có tiếng
là giữ giới luật nghiêm ngặt. Khởi đi từ câu “Ngoài tâm không
Phật”, sư quan niệm người niệm Phật A-di-đà và người quán công
án Thiền tông tuy có khác nhau cả bề ngoài lẫn cách tu tập nhưng
đều đạt kết quả như nhau. Do đó, niệm danh Phật đến khi mọi ý
nghĩa được xua tan khỏi tâm thức và chỉ cần “A-di-đà”, hành giả
sẽ đạt tới cảnh giới không khác gì để hết tâm trí vào công án.
Trong khi niệm danh A-di-đà, hành giả không chỉ nên tập trung
vào danh hiệu mà còn phải chú tâm vào “sự thật” đứng đằng sau
danh hiệu ấy. Không có A-di-đà nào ngoài cái tâm đang niệm
A-di-đà, và ngoài A-di-đà không có cái tâm nào. Với chủ trương
vừa thực hành quán niệm theo quan niệm ấy vừa giữ đúng mọi giới
luật, sư Vân Thê Châu Hoằng thuyết phục được rất nhiều người tu
hành Phật đạo, đặc biệt trong giới tu tại gia.
2.
Tại Tây Tạng
Từ thế kỷ thứ 7 tới thế kỷ 11, người Phật giáo thuộc các truyền
thống khác nhau, xuất phát từ Ấn Ðộ, Trung Hoa và Trung Á, đã
loan truyền những giảng thuyết của họ sang Tây Tạng.
Sau cuộc tranh luận giữa Mật tông và Thiền tông, truyền thống
Trung Hoa bị đặt sang một bên, người Tây Tạng thiên về truyền
thống Phật giáo Ấn Ðộ. Từ đó, tại xứ sở ấy phát triển một hệ
thống giảng dạy có tổ chức và duy nhất được gọi là lamrim,
nghĩa là “các giai đoạn mới của Con đường đạo”. Lamrim cũng là
tên chung của một số luận văn – Bồ đề đạo thứ luận – do
những đại sư của Phật giáo Tây Tạng sáng tác, dựa theo tác phẩm
Bồ đề đạo đăng luận (Bodhipathapradipa) của Ðại sư
A-đề-sa (982-1054), người truyền Phật Pháp sang Tây Tạng.
Lối tiếp cận này xem ba truyền thống giảng dạy Phật pháp là ba
cỗ xe (triyana) dẫn từ trình độ này lên trình độ khác theo một
quá trình tiệm tiến từng cấp bậc. Tác phẩm kinh điển của nó,
ngoài cuốn của đại sư A-đề-sa như đã nói ở trên, còn có bộ Bồ
đề đạo thứ đệ tuỳ phá tông trang nghiêm của Gampopa, danh
xưng của sư Tây Tạng Ðạt-bảo Cáp-giải (1079-1153).
Ba cấp bậc ấy là:
1. Tiểu thừa. Nay gọi là Phật giáo Nguyên thuỷ. Ðặt cơ sở trên
các lời giảng của Phật giáo thời kỳ đầu, được thể hiện trong
thời hiện đại bởi truyền thống Theravada;
2. Ðại thừa: Kết hợp quan điểm Trung quán và Duy thức;
3. Kim Cương thừa. Ðây là lối tiếp cận vào Phật giáo, mang tính
Mật tông, và vì có những thành tố Mật pháp (Tantra) trong Ấn
giáo cũng như Phật giáo, nó sẽ được xem xét riêng rẽ trong
chương 7.
3. Tại
Nhật Bản
Tại Nhật bản, Phật giáo Phát triển với nhiều hình thức đa dạng;
mỗi hình thức mang một nét đặc trưng nổi bật.
Thiên thai tông
Có gốc tích từ Thiên thai tông của Trung Hoa nên cũng dựa trên
kinh Diệu pháp Liên hoa và xem đại luận sư Long Thọ là sơ
tổ. Như đã trình bày ở đoạn trên, tông phái ấy cho rằng mọi hiện
tượng đều:
Ðược cao tăng người Nhật là Tối Trừng (767- 822) mang sang Nhật
Bản, tông phái ấy tuy vẫn giữ nội dung của Thiên thai tông Trung
Hoa, nhưng thêm vào một số điểm mới. Chấp nhận giá trị của các
mạc khải tinh tiến trong đó cái tối thượng được tìm thấy trong
kinh Hoa nghiêm, đại sư Tối Trừng cổ động cho ý tưởng
rằng mọi hình thức giảng dạy đều có thể dẫn tới giác ngộ, không
phải vì chúng giống hệt nhau, nhưng vì chúng có chung điểm cốt
yếu là gắn liền với một dạng “cỗ xe” hoặc con đường đạo.
Thêm nữa, vị đại sư ấy còn xem Phật giáo Ðại thừa có nhiệm vụ
bảo vệ đất nước Nhật và các tăng sĩ là tài nguyên của quốc gia,
hoặc phải ở lại trong chùa phụng sự tổ quốc hoặc phải tham gia
làm viên chức chính quyền trong các lãnh vực hành chánh, giáo
dục, v.v... Thiền viện do sư Tối Trừng sáng lập tại núi Tỉ Duệ
được xem là “Trung tâm bảo vệ quốc gia” của Nhật.
Tịnh độ tông
Thoạt đầu, sư Viên Nhân (793-864), một cao tăng Nhật Bản từng du
học Trung Hoa rồi mang về quê hương mình các giáo lý của Thiên
thai tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Sư truyền bá phương pháp
niệm Phật A-đi-đà và từ đó, câu niệm ấy trở thành một phần của
việc tu hành trong các tông phái tại Nhật Bản.
Thế nhưng Tịnh độ tông Nhật Bản chỉ được chính thức hình thành
với sự xuất hiện của cao tăng Pháp Nhiên (1133-1212). Sư đề cao
quan niệm rằng về mặt thực tiễn, đối với đa số con người nói
chung, đặc biệt trong thời buổi “mạt pháp” này, con đường tu tập
để đi tới giác ngộ quá đỗi gian nan. Chúng sinh đang đau khổ
không có khả năng theo đuổi, nên phải tìm cho họ một con đường
khác thích hợp hơn.
Câu trả lời duy nhất là phải trông cậy vào sức mạnh bên ngoài
bản thân họ – tha lực – của Phật A-di-đà: niệm “Nam mô A-di-đà
Phật”. Bằng cách ấy, sư Pháp Nhiên mở ra con đường mới mẻ và dễ
dàng cho chúng sinh bất hạnh của “kỷ nguyên sau cùng” này.
Thuyết phục được quần chúng, sư thành công nhanh chóng và qui tụ
được rất nhiều giáo đồ. Tịnh độ tông Nhật Bản ngày càng lớn
mạnh. Tuy thế, có lẽ vì sư tự coi học thuyết của mình là cao
nhất nên gặp sự chống đối của các tông phái khác ở Nhật, khiến
tới năm 74 tuổi, sư vẫn phải bị lưu đày tới một vùng đất xa xôi.
Tịnh độ chân tông
Tịnh độ tông của đại sư Pháp Nhiên tiến thêm một bước xa hơn
dưới chủ trương của đại sư Thân Loan (1173-1262). Sư là học trò
của sư Pháp Nhiên và là người sáng lập Tịnh độ chân tông.
Chung một tuyến tư duy với sư phụ mình, sư Thân Loan cho rằng
thế giới đang suy tàn, con người đang bị kích thích bởi đam mê
mù quáng của thời đại nên không thể trông đợi ở bất cứ phương
cách tu tập nào dựa trên sự tự lực, tự chủ và đạo hạnh. Vì thế,
tu theo tự lực là bất khả thi và chẳng ích lợi gì; mọi người
phải cần tới sự trợ giúp từ bên ngoài của Phật A-di-đà mới có
thể đạt tới giác ngộ, giải thoát. Do đó, việc niệm danh hiệu
Phật A-di-đà là phương pháp tu hành tổng hợp mọi phương pháp và
là cách bày tỏ lòng báo ân với vị Phật ấy. Thậm chí đối với
những ai có niềm tin vững chắc, mãnh liệt vào Phật A-di-đà là đủ
để được giải thoát, và như vậy đôi khi cũng chẳng cần phải liên
tục niệm danh hiệu ngài.
Ngoài ra, so với Phật giáo thời kỳ đầu, chủ trương của sư Thân
Loan có hai điểm khác:
1. Tu viện không còn là tâm điểm của cuộc sống Phật giáo;
2. Thế nên ba ngôi Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng chỉ còn hai.
Sư Thân Loan lập luận rằng cuộc sống thế tục không gây trở ngại
cho quá trình tinh tiến tâm linh, đồng thời nhấn mạnh rằng sự
tiết chế điều độ và cuộc sống độc thân chỉ là dấu hiệu của lòng
thiếu tin tưởng, sư lập gia đình và các đệ tử của sư toàn là cư
sĩ. Với sư Thân Loan, sự thác sinh vào cõi tịnh độ không tuỳ
thuộc vào công quả đạo đức của bạn mà hoàn toàn căn cứ trên lòng
bạn tin tuyệt đối vào quyền năng của Phật A-di-đà.
Có thể tóm tắt lập trường ấy bằng mấy câu thơ của sư Thân Loan
trong “Bài ca thời đại lạc loài”:
Vì quyền năng của lời thệ nguyện ấy [của Phật A-di-đà] vô hạn,
Nên dù ác nghiệp của chúng ta quá sâu nặng cũng chẳng là gánh
nặng,
Vì trí huệ của Phật ấy [A-di-đà] vô hạn,
Nên dù người hoang mang ương ngạnh cũng không bị bỏ rơi.
Ðối với sư Thân Loan, Phật giáo có thể được rút gọn trong câu
jinen honi (jinen: mọi sự vật như chúng đang là; honi: biết
được qua các pháp). Nói cách khác, hiểu theo khía cạnh triết
học, có một thời điểm mang tính chất tự nhiên, nó có ở đó trước
khi có mọi suy ngẫm về con người và bản tính khác hoặc giữa bản
thân ta và những cái khác; trong thời điểm ấy, ta là ta và ta
hành động như là thành phần của một vũ trụ ở đó mọi sự vật chính
xác như chúng là chúng, không hơn không kém.
Có lẽ vì thế không lấy làm lạ sự kiện Tịnh độ chân tông gồm toàn
cư sĩ tại gia với các vị đứng đầu tông phái được phép trao quyền
thừa kế cho con mình. Tại Nhật Bản, ngày nay Tịnh độ chân tông
là tông phái mạnh mẽ nhất với hai bộ phái Ôtani và Honganji. Cả
hai được tách ra từ thế kỷ 17, chỉ khác nhau về các hình thức
tụng niệm lễ bái, và hiện nay đều thành lập hai trường đại học
lớn.
Ði tìm điểm đồng, dị
Sẽ thấy ở đây có nhiều điểm tương đồng nếu ta nhìn vào Thiền
tông (xem chương 9) hoặc Ðạo giáo (xem chương 6). Theo quan điểm
của hai vị cao tăng sư phụ Pháp Nhiên và đệ tử Thân Loan ấy,
Phật giáo trở thành hầu như đồng nghĩa với tính tự nhiên. Nhưng
cái đáng để ý ở đây là bước chuyển dịch khỏi sự phản tỉnh (suy
ngẫm) ấy rất có ý thức, và nó được phân tích thành “đức tin tôn
giáo”.
So với triết học của Phật giáo thời kỳ đầu hoặc Trung quán tông
và Duy thức tông, thì ta thấy rằng Tịnh độ tông ở Trung Hoa và
đặc biệt tại Nhật Bản, rất khác. Và như thế, người ta có thể
tranh luận liệu có nên xem nó có chút nào mang tính triết học
không. Có ít nhất ba điểm khác biệt là:
1. Một đằng dựa vào chứng nghiệm một đằng dựa vào “đức tin”;
2. Một đằng dựa vào tự lực một đằng dựa vào tha lực, để được
giải thoát, cứu độ.
3. Niết bàn là trạng thái tịch tịnh, tịch diệt – không còn bị
chi phối bởi sinh tử, không còn bị ám ảnh bởi phiền não – cảnh
giới an tĩnh của người giác ngộ. Trong khi đó Cực lạc là tên của
một cõi được định vị rõ rệt và có không gian cụ thể. Nó được
hiểu là đất thanh khiết và trung chuyển của Phật A-di-đà, nằm ở
phía Tây cõi Ta-bà của chúng ta, nơi hoàn toàn an lạc, chỉ có
vui không có khổ.
Nhật liên tông
Tông phái Phật giáo Nhật Bản này lấy theo tên của sư tổ sáng lập
là cao tăng Nhật Liên (1222-1282). Vị cao tăng ấy cho rằng bộ
kinh Diệu pháp Liên hoa là biểu hiệu vừa tối thượng vừa
tuyệt đỉnh của Phật giáo và chỉ có bộ kinh ấy mới có thể cứu độ
mọi sinh linh. Vì tinh hoa của Phật Pháp hội tụ trong bộ kinh ấy
nên chỉ cần phương pháp tu hành chính là niệm “nama myoho
reing-kyo: Nam mô Diệu pháp Liên hoa kinh”. Cứ niệm câu ấy
sẽ thanh lọc thân, khẩu, ý và thay cho việc qui y Tam bảo.
Với mức độ nhấn mạnh đến như thế, Nhật liên tông xem việc lặp đi
lặp lại lời tụng ấy là một hoạt động tâm linh căn bản. Chúng ta
sẽ không đi sâu vào việc xem xét Nhật liên tông, phần vì tông ấy
liên quan tới “đức tin” hơn tới triết học, phần vì lý thuyết còn
lại của tông ấy tương đồng với triết học Ðại thừa mà chúng ta đã
xem xét ở các phần trên.
Tuy thế, Nhật liên tông có một khái niệm cần được đề cập đến. Ðó
là nguyên lý ichinen-sanzen: nhất thời hành thiền. Ðây là
quan điểm cho rằng mỗi khoảnh khắc của ý nghĩ chứa đựng toàn bộ
các hệ thống thế giới. Tâm trí của bạn không bị giới hạn bởi
thời gian và không gian. Giống như vào khoảnh khắc giác ngộ cũng
chính là thời điểm ta được xem là có tri thức lập tức về mọi sự,
Nhật liên tông cũng thế: vào khoảnh khắc bạn niệm tức là bạn tóm
hết mọi sự đã và đang xảy ra trong mọi hệ thống thế giới. Hành
động niệm “Nam mô Diệu pháp Liên hoa kinh” nâng cá nhân
người niệm lên quả vị Phật và hiệp làm một với thực tại vũ trụ.
So với Ấn giáo
Như thế, dù phát triển từ triết học Phật giáo truyền thống, thật
thú vị khi thấy Nhật liên tông cực kỳ gần gũi với ý tưởng giải
thoát tối hậu trong Ấn giáo truyền thống. Theo các kinh Veda,
vào khoảnh khắc ấy tiểu ngã Atman hoà nhập làm một với Ðại ngã
Brahman.
Cả trong Nhật liên tông Nhật Bản lẫn Ấn giáo truyền thống, bản
ngã của bạn sẽ tìm thấy một Bản ngã lớn lao hơn để được đồng
hoá.
4.
Tại Việt Nam
Từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, bánh xe Phật giáo đã lăn tới vùng đất
Giao Châu – tên gọi xứ Việt Nam thời xa xưa ấy – theo bước chân
thương thuyền trên đó có các tăng sĩ Ấn Ðộ. Con đường từ Nam Ấn
qua Ấn Ðộ dương đi vòng lên đưa Phật giáo tới Việt Nam trước con
đường Bắc tông từ Trung Hoa đi xuống.
Từ đó đến nay, với sự thực hành các tông phái mà nổi bật là Tịnh
độ tông, Thiền tông, v.v... cùng với ảnh hưởng của Theravada ở
phương nam, Phật giáo có khi suy khi thịnh nhưng nói chung, chưa
bao giờ mất ảnh hưởng trong dân tộc Việt Nam.
Trung tâm Luy Lâu
Từ thế kỷ thứ nhất sau CN, tại Luy Lâu (nay là phủ Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh) đã xây dựng một trung tâm Phật giáo với hàng trăm
tu sĩ. Có người cho rằng trung tâm Luy Lâu được thành lập trước
cả Lạc Dương và Bành Thành của Trung Hoa, và là nơi làm bàn đạp
để hình thành hai trung tâm bên Tàu ấy.
Sang khoảng thế kỷ thứ 5, Giao Châu lại hân hạnh tiếp nhận vị
đại sư Ấn Ðộ nổi tiếng thuộc truyền thống Ðại thừa là Pháp Thiên
(Dharmadeva). Tương truyền sư cùng sơ tổ Thiền tông Trung Hoa là
Bồ Ðề Ðạt Ma đến Giao Châu. Sư ở lại giảng dạy; trong số các đệ
tử, có hai vị sư nổi tiếng là Huệ Thiên và Huệ Thắng.
Kể từ thế kỷ thứ 6 trở đi, bắt đầu từ Ðại sư Tì-ni-đa Lưu-chi,
nhiều vị sư khác từ Trung Hoa sang Việt Nam khai sáng nhiều tông
phái Ðại thừa, theo truyền thống Thiền tông và Tịnh độ tông. Từ
đó, Phật giáo Việt Nam nghiêng dần về Bắc tông. Mãi tới thế kỷ
17, khi lãnh thổ Việt Nam mở rộng hết vùng đất Nam bộ, Phật giáo
Việt Nam lại tiếp nhận Nam tông theo tập quán tín ngưỡng của sắc
dân Thuỷ Chân Lạp ở vùng lục tỉnh ngày nay.
Mâu Tử và Khương Tăng Hội
Mâu Tử sinh khoảng năm 165-170 s.C.N., được xem là luận sư đầu
tiên của Phật giáo Việt Nam với tác phẩm không những lưu hành
tại Giao Châu mà còn ở cả Trung Hoa và được các học giả người
Hoa, Nhật, Tây phương nghiên cứu.
Sư là người học nhiều, biết rộng, cuối cùng chọn lựa Phật giáo
làm lối đi riêng cho mình sau khi đã chất vấn đối luận với những
học giả thuộc các truyền thống triết học Trung Hoa khác. Lý
hoặc luận là tác phẩm gồm những câu vấn đáp, dùng lý luận để
xoá tan những nghi ngờ về đạo Phật. Phát xuất từ quan điểm Phật
giáo, sách gồm có 37 điều. Ngoài 3 điều đầu trình bày về cuộc
đời Ðức Phật và các giới luật giữ đạo, tất cả 34 điều còn lại
dành để bàn luận bàn về những tinh hoa và bất cập trong triết
học Nho giáo, Ðạo giáo cùng lễ nghi và văn hoá của Trung Hoa.
Ðây có lẽ là cuốn sách đầu tiên bằng chữ Hán với nội dung “giải
hoặc” Nho giáo và Ðạo giáo và dùng văn học của hai truyền thống
ấy để giải thích Phật giáo.
Sau Mâu Tử, Phật giáo Việt Nam nổi bật sư Khương Tăng Hội, người
được xem là khởi nguyên Thiền tông tại Việt Nam. Sư sống vào
khoảng thế kỷ thứ 3 sau CN với các sáng tác phẩm Phật giáo đầu
tiên của Việt Nam như Lục độ yếu mục; Nê hoàn phạm bối;
chú giải sách An-ban thủ ý. Sư cũng là người có những
đóng góp trở lại về học thuyết cho Phật giáo Trung Hoa. Cuối
đời, sư đi Nam Kinh (Trung Hoa) và mất tại đó năm 280.
Tịnh độ tông
Tông phái này cùng với Mật tông và Thiền tông quyện chặt vào
nhau, thấm nhuần trong Phật giáo Việt Nam. Con đường Tịnh độ
tông đi vào Giao Châu là qua ngã thiền phái Vô Ngôn Thông.
Theo Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) trong Việt Nam Phật giáo
sử luận tập I, tt. 218, 219 thì “Ta biết rằng Thiền học Việt
Nam đã từ lâu thấm nhuần Mật Giáo [Mật tông Phật giáo]; nhưng ta
không biết được do cách nào mà giáo lý niệm Phật đã thâm nhập
vào thiền phái Vô Ngôn Thông. Có thể nói đây là do sự tiếp xúc
giữa các thiền sư phái này với thế hệ tăng sĩ Trung Hoa đệ tử
của thiền sư Diên Thọ”.
Ðề cập sự có mặt của Tịnh độ tông trong cuốn Thiền uyển tập
anh ngữ lục đời Trần, Nguyễn Lang cho biết các tác
giả “ngoài việc nhắc đến tượng đồng A Di Ðà do Không Lộ (?-1119)
thực hiện, còn nói đến thiền sư Lục Tịnh như một người đã đắc
được ‘Pháp niệm Phật tam muội’ [.] Ông dạy đệ tử là ‘không nên
cầu sự chứng ngộ bên ngoài’ và ‘nếu muốn diệt trừ các ác nghi ệp
thì nên áp dụng phương pháp niệm tụng bằng cả tâm lẫn miệng’. Sự
phối hợp giữa Thiền và Tịnh Ðộ sau này sẽ trở nên quan trọng
trong đạo Phật tại Việt Nam”.
Ta sẽ gặp trở lại thiền phái Vô Ngôn Thông và sự phối hợp ba
tông này trong chương bàn về Mật tông và chương nói tới Thiền
tông.
Truyền thống tứ ân
Người Phật giáo cũng là kẻ phải sống giữa cuộc đời, có tương
liên nối kết cụ thể với những công quả đã nhận và những ơn đức
phải báo đáp. Từ đó, triển khai khái niệm về Tứ ân tức là
bốn ơn, vốn có nguồn gốc từ trong kinh điển truyền thống, và ảnh
hưởng sâu sắc lên tâm thức của người Phật giáo Việt Nam. Có ít
nhất hai thuyết về bốn ơn này.
1. Theo kinh Tâm địa quán, bốn ơn ấy gồm: ơn cha mẹ; ơn
chúng sinh; ơn quốc vương; và ơn tam bảo.
2. Theo kinh Thích thị yếu lãm, bốn ơn gồm: ơn cha mẹ, ơn
sư trưởng, ơn quốc vương, ơn thí chủ.
Khởi đi với danh xưng Yên tử, đây là một tông phái Việt Nam bắt
đầu từ thế kỷ 13, đặt cơ sở trên các bộ kinh Ðại thừa như Kim
cương, Diệu pháp Liên hoa, Bát nhã Ba-la-mật, Nhập lăng già và
Hoa nghiêm. Yên tử Trúc Lâm do sư Hiện Quang (?-1221) thành
lập bằng cách hợp nhất ba phái thiền Thảo Ðường, Vô Ngôn Thông
và Tì-ni-đa Lưu-chi. Tổ thứ 13 của tông phái này từng là một vị
vua lỗi lạc lãnh đạo đất nước hai lần đánh thắng quân Nguyên,
tức Trần Nhân Tông (1258-1308), cho nên từ đó được gọi là phái
Trúc Lâm Yên tử với vị sư cựu hoàng ấy làm Ðệ nhất tổ.
Trúc Lâm Yên tử ngoại trừ phần tu tập có tính tu viện, còn mang
tính nhập thế. Tăng nhân cũng là kẻ có những ưu tư của người dân
nước nhỏ sống bên cạnh một nước lớn với trạng thái bang giao “vô
thường” khi bạn khi thù. Chính Trần Nhân Tông, tức Trúc Lâm Ðầu
đà, đã hạ bút trong Cư trần lạc đạo rằng:
Triều đại Trần xem tông phái Trúc Lâm là một dạng Phật giáo
chính thức của cả nước. Có lẽ vì sự liên quan mật thiết ấy nên
sau khi nhà Trần suy tàn, Trúc Lâm bị lâm cảnh mai một. Mãi tới
thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1700) mới thấy xuất hiện các
cao tăng của Trúc Lâm, nổi bật nhất là Minh Châu Hương Hải
(1628-1715), ở cả hai miền nam bắc. Sư thường dạy rằng:
“Ngộ được tự tính mình thì chúng sinh là Phật, mê tự tính của
mình thì Phật là chúng sinh. Giữ được tự tính mình bình đẳng thì
chúng sinh là Phật, để tự tính mình gian hiểm thì Phật là chúng
sinh”. Lại nói: “(Có những kẻ) Chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ
nơi hoạt động, cố phá từng cái tướng, tách từng mảnh bụi của vật
thể để tìm hiểu biết. Làm như thế tuy chỗ tĩnh lặng cốt ngộ lý
không nhưng không biết đó cũng là cái lối làm chôn vùi chân
tính, lấp mất chân giác… Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi
mình, bỏ ngoại cảnh mà xem tự tâm, thì Phật nhãn sáng suốt, bóng
nghiệp tự tan, Pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt… Cái
bản thể của tâm và chân tướng của tánh, vốn lặng lẽ chẳng phải
có, chẳng phải không, không có sinh cũng không có diệt. Ta tìm
nó thì không thấy, bỏ nó vẫn chẳng rời. Nếu ta mê cái hiện tượng
của nó thì khổ sở lầm lẫn lăng xăng, nếu ngộ được chân tánh của
nó thì tinh thông sáng suốt. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm,
song chỉ có người chứng ngộ mới biết”.
(Nguyễn Hiền Ðức, Lịch sử Phật giáo Ðàng trong, Tp HCM,
1988; trích theo Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách, sách đã dẫn,
t. 194).
Sư Hương Hải để lại 16 tác phẩm giải thích các kinh Pháp hoa,
Kim cương và A-di-đà.
Trong thế kỷ 17-18, tông phái Trúc Lâm có vị thiền sư xuất sắc
cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Ðăng (1647- 1726), và hoà nhập vào
tông Lâm Tế.
Hoà đồng và hiệp nhất
Từ cách hiểu Phật pháp của truyền thống nguyên thuỷ cho rằng cứu
cánh con đường đạo là giải thoát con người cá nhân khỏi cõi thế
đáng khinh rẻ, sang tới triển khai của Ðại thừa về lý tưởng Bồ
tát đã đưa tới những thực hành tích cực trong Phật giáo Việt
Nam. Phật giáo không còn là một truyền thống tách biệt như ở Ấn
Ðộ mà đã hoà đồng với các truyền thống Nho giáo và Ðạo giáo.
Trần Thái Tông (1218-1277), trước khi xuất gia thành Thiền sư,
đã viết trong bài tựa cuốn Thiền Tông chỉ nam của mình
rằng:
“Trẫm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm;
tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy,
phương tiện dẫn dụ đám người mê muội; con đường tắt sáng tỏ lẽ
tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Ðặt mực thước cho hậu thế;
làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy trách nhiệm của Tiên thánh. Cho
nên Lục tổ có nói: ‘Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác
gì nhau.’ Như thế đủ biết đại giáo của đức Phật ta phải nhờ Tiên
thánh mà truyền lại cho đời; thế thì nay lẽ nào trẫm không coi
trách nhiệm của Tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của
đức Phật là giáo lý của mình!’’
Hằng trăm năm trước triều đại nhà Trần, Phật giáo Việt Nam nói
chung và các vị cao tăng nói riêng với triết lý nhập thế, đã có
những đóng góp tích cực vào cuộc an dân vệ quốc của dân tộc Việt
như Khuông Việt (933-1011) phò trợ Ðinh Tiên Hoàng và Lê Ðại
Hành, sư Ðỗ Thuận (915?-990) làm cố vấn cho Lê Ðại Hành
(935?-1018), góp phần vào việc khai sáng nhà Lý, v.v…
Bửu sơn Kỳ hương
Vùng đất Nam bộ thuở mới mở mang vào các thế kỷ 18 và 19 là nơi
lưu dân người Việt sống rải rác, phải giáp mặt với thiên nhiên,
dịch bệnh, thảo khấu và sự va chạm giữa các sắc tộc. Ðó cũng là
vùng đất đi lại khó khăn, triều đình gặp nhiều trở ngại không
thể thi hành pháp luật chu đáo. Sự xuất hiện của Phật thầy Tây
An với tông phái Bửu sơn Kỳ hương đã phát triển ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long - vốn phần lớn thuộc Nam tông - một tông
phái Phật giáo Ðại thừa, có tính dân dã, vệ quốc và an dân.
Phật Thầy tức tu sĩ Ðoàn Minh Huyên (1807-1856), đạo hiệu Giác
Linh, quê ở Sa-đéc (nay là Ðồng Tháp). Mùa thu năm 1819, họ Ðoàn
xuất hiện chữa bệnh thời khí đang nhiễu hại dân chúng Hậu giang.
Từ đó, sư thành lập tông phái Phật giáo Bửu sơn Kỳ hương với
giáo thuyết nhấn mạnh trên:
1. Tứ ân: ân tổ tiên cha mẹ; ân đất nước; ân tam bảo, ân đồng
bào (hoặc ân thí chủ);
2. Tránh tạo ba nghiệp chướng thân-khẩu-ý;
3. Thực hành Bát chánh đạo.
Vì chủ yếu thiên về lối tu hành dành cho cư sĩ tại gia, Bửu sơn
Kỳ hương gần như không có tầng lớp tăng lữ và chùa chiền; chỉ có
các nhà hội họp, đọc và giảng kinh, cùng hai ngôi cổ tự ở Long
Kiến (An Giang) và Núi Sam (Châu Ðốc), nơi hiện còn ngôi mộ
không đắp nấm của Phật Thầy. Kinh sách hầu hết dựa trên các sáng
tác gồm những bài thơ, bài vè và tập văn vần khuyến giáo và
khuyến thiện của giáo chủ. Bên cạnh đó, Phật thầy Tây An cổ động
việc khai khẩn đất hoang, mở các trại ruộng cho tín đồ di dân
tới ở.
Sau ngày Phật Thầy qua đời, các giáo đồ tin rằng “hồn” – nghiệp
lực cứu độ chúng sinh – của Phật Thầy được lưu truyền qua các
hoạt Phật kế tiếp, cùng sống chung đụng với người đời để cứu độ
chúng sanh trong thời hạ nguyên này, chuẩn bị vào hội Long Hoa
là thời điểm những người thiện hảo được hưởng ân phúc, và vũ trụ
chuyển sang một chu kỳ mới. Hậu thân của Bửu sơn Kỳ hương ngày
nay là Phật giáo Hoà Hảo và đạo Hiếu nghĩa, v.v... Thời Pháp mới
xâm chiếm nam Việt, có nhiều đại đệ tử của Phật Thầy và tín đồ
Bửu sơn Kỳ hương tham gia các phong trào nghĩa dân bảo vệ lục
tỉnh.
Triển khai ý niệm Bồ tát của truyền thống Ðại thừa, Phật giáo
Việt Nam đã tiến rất sâu và rộng trên con đường nhập thế bằng
con đường hoà đồng với các truyền thống triết học Nho và Ðạo,
kết hợp một cách tự nhiên giữa chính trị và tôn giáo, và trên
con đường tích cực phục vụ với lý tưởng Bồ tát ấy, Phật giáo
Việt Nam đã có những đóng góp đặc biệt và nổi bật vào nền triết
học cũng như văn hoá của người Việt.
Trước khi hết chương
Trong phần lớn tư tưởng Ðông phương có sự đan quyện của những
yếu tố mà người Tây phương hẳn muốn, nhưng rất khó đạt được khi
tách riêng thành những gì thuộc về triết học ở bên này, và thuộc
về tôn giáo ở bên kia.
Trong phần bàn về Ðại thừa ở trên, chúng ta không thể tránh khỏi
việc đề cập tới một số luận giải có tính tôn giáo trong truyền
thống ấy, dù những thăm dò liên quan tới ý nghĩa tôn giáo đều
nằm ngoài phạm vi chủ đề của cuốn sách này. Nhưng dù có cố tránh
cũng không thể không đề cập, nếu muốn làm sáng tỏ triết học Ðại
thừa. Cũng như chúng tôi đã hầu như cố ý lặp đi lặp lại rất
nhiều lần, ở nhiều chỗ khác nhau, nội dung của Không tính và Tự
tính, vì đây là các khái niệm tương đối khó diễn tả minh bạch
bằng ngôn từ và khúc chiết theo lối lập luận qui ước thông dụng.
Mặt khác, cũng xuất phát từ Ðại thừa, đưa tới hai định hướng rất
riêng biệt, dựa trên các nguyên lý triết học rất khác nhau: Mật
tông mà chúng ta sẽ bàn tới trong chương 7 và Thiền tông trong
chương 9.
Ghi chú:
Ðây là chương 4 của cuốn Ðại cương triết học Ðông phương
sắp xuất bản. Có thể đọc thêm hai bài thuộc chương 1: Triết học
Ấn Ðộ và chương 2: Phật giáo thời kỳ đầu tại
www.phusa.info – chuyên mục
Tư tưởng.
Tư liệu tham khảo:
Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách, Từ điển Phật học, Thuận
Hoá, Huế, 1999;
Ðoàn Trung Còn, Phật học từ điển, bản năm 1963, Chùa
Khánh Anh Paris, không ghi năm tái bản;
Don Reisman, Senior editor, Religions of the World, Third
Edition, Nxb St. Martins’s Press, New York, 1993;
Huệ Năng, Pháp bảo đàn kinh, bản dịch của Thích Thanh Từ,
Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1992;
Kimura Taiken, Ðại thừa Phật giáo Tư tưởng luận, bản dịch
của Thích Quảng Ðộ, Sài Gòn, không ghi nhà xuất bản.
L.H. Tịnh Huệ, Ðại thừa yếu lược, bản in ronéo tại Sài
Gòn năm 1988;
Lao Tử & Thịnh Lê, Từ điển Nho Phật Ðạo, Văn học, Hà Nội,
2001;
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, quyển I, Thuận
Hoá, Huế, 1999;
Mel Thompson, Eastern Philosophy, NTC/Contempory
Publishing, Hoa Kỳ, 2005;
Một số Từ điển Triết học bằng Anh ngữ;
Nàrada Thera, Ðức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch,
TP. Hồ Chí Minh, 1998;
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, quyển I, Văn
Học, Hà Nội, 1994;
Nguyễn Q. Thắng, Từ điển tác gia Việt Nam, Văn Hoá, Hà
Nội, 1999;
Nguyễn Tôn Nhan, Bách khoa thư: Văn hoá cổ điển Trung quốc,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000;
The Oxford Dictionary of World Religions,
Oxford University Press, Anh, 1997;
Thích Minh Châu & Minh Chi, Từ điển Phật học Việt Nam,
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991;
Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Phật học tinh hoa, Khai Trí,
Sài Gòn, 1965;
Trần Trọng Kim, Phật Lục, Tôn giáo, Hà Nội, 2002;
Trần Trọng Kim, Phật giáo, Tôn giáo, Hà Nội, 2002.
Walpola Rahula, What the Buddha Taught (Bản dịch: Tư
tưởng Phật giáo – Con đường thoát khổ của Thích nữ Trí Hải),
Phật học viện Quốc tế tái bản, Hoa Kỳ, 1990;
Will Durant, Lịch sử văn minh Ấn Ðộ, Nguyễn Hiến Lê dịch,
Văn Hoá, Hà Nội, 1996.
Ngươi không phải là một tạo sinh, mà là sự biểu hiện |
|