Phật giáo và Hiện sinh
trong nhạc Trịnh Công Sơn
Đôi nét về tác giả
John C. Schafer là giáo sư emeritus, khoa Anh ngữ, Đại học
Humboldt, Hoa Kỳ. Ông đã dạy Anh ngữ tại Việt Nam theo Chương
trình Tình nguyện Quốc tế (1968-1970) và Chương trình Fullbright
(1971-1973, 2001).
Trích
yếu
Đã có rất nhiều lời giải thích về sự nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn qua những đề tài như: ca từ đầy chất thơ, khác với dòng
nhạc tiền chiến, mang chủ đề phản chiến, cả việc ông đã khám phá
ra những tiếng hát nữ tài năng, và còn nhiều điều khác nữa.
Nhưng chủ đề Phật giáo trong những bài hát của ông lại rất ít
khi được nhắc đến, phải chăng, đây là điều những học giả Việt
Nam cho là hiển nhiên. Bài viết này nói đến chủ đề Phật giáo
trong nhạc Trịnh và chứng minh rằng chủ đề này góp phần vào việc
giải thích hiện tượng Trịnh Công Sơn. Ngoài ra, bài viết này
cũng đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, là điều mà tác giả
bài viết cho rằng đã thu hút Trịnh Công Sơn nhưng không có ảnh
hưởng lớn đến những sáng tác của ông.
Trong thời gian chiến tranh (ở Việt Nam), tôi dạy Anh ngữ tại
miền Nam Việt Nam và trở thành một người hâm mộ ca/nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn. Vào những năm cuối thập niên 1960 và đầu 1970, ở các
thành thị miền Nam, mọi người, đặc biệt giới sinh viên, đều nghe
và hát nhạc Trịnh – họ hát những bài hát như “Gia tài của mẹ”,
“Tình ca người mất trí”, và “Đại bác ru đêm”.
[1]
Với những người trẻ mà tôi đã được biết trong cuộc chiến, các
bài hát này là “thánh ca”, chúng thể hiện lòng khát khao hoà
bình và tình yêu quê hương của họ.
Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam, và tiếp tục sáng
tác. Đã có một thời, chính quyền cộng sản e ngại ông: họ không
chấp nhận thái độ phản chiến của ông, vì ông lên tiếng chống lại
mọi hình thức chiến tranh kể cả chiến tranh kháng chiến của họ.
Hiện nay, những bài hát phản chiến của ông vẫn không được cho
hát và phổ biến tại Việt Nam.
[2]
Ngày 1 tháng 4 năm 2001, ông qua đời; tôi có dịp ở Việt Nam và
khi được chứng kiến tình cảm và sự tiếc thương của mọi người
trước sự ra đi của ông, tôi bắt đầu quan tâm đến những lý do vì
sao ông lại quá nổi tiếng như vậy. Tôi nghiên cứu về những điều
này trong một bài viết khác.
[3]
Riêng trong bài viết này, tôi chú trọng hơn về triết lý sống của
Trịnh Công Sơn.
Những người biết nhạc Trịnh Công Sơn có thể sẽ khó chấp nhận cụm
từ “triết lý sống.” Nhiều sáng tác của ông mang những hình ảnh
siêu thực, ca từ lạ và không theo quy tắc. Có thể, chúng ta sẽ
phải hỏi rằng, làm sao những sáng tác như vậy lại được coi là
những lý luận triết học? Mặc dù các bài hát của ông có những đặc
điểm vừa nêu trên, tôi vẫn nghĩ rằng, trước sau như một, chúng
mang một triết lý khá kiên định. Trịnh Công Sơn đã từng theo học
triết học tại một trường trung học của Pháp ở Sài Gòn, và ông
từng nói rằng ông “vốn thích triết học và vì thế [ông] muốn đưa
triết học vào ca khúc của minh, một thứ triết học nhẹ nhàng mà
ai ai cũng có thể hiểu được.”
[4]
Trong bài viết này, tôi sẽ miêu tả cái triết lý “nhẹ nhàng” đó
và sẽ chứng minh rằng triết lý này chính là triết lý Phật Giáo,
và cũng phần nào liên hệ đến chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, một
triết lý đã mê hoặc Trịnh Công Sơn và giới trí thức miền Nam
trong những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.
“Triết lý nhẹ nhàng” của Trịnh Công Sơn
Triết lý của Trịnh Công Sơn, qua những sáng tác của ông, dựa
trên nhận thức rằng cuộc sống tuy có những niềm vui, nhưng cũng
đầy những u buồn. Trong bài “Gọi tên bốn mùa”, ông thốt lên rằng
“Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người.” Trong bài này và
một số bài khác, ông miêu tả tuổi trẻ, nhất là những năm tháng
của tuổi đôi mươi, là thời gian đặc biệt buồn bã của cuộc đời.
Trong bài “Nhìn những mùa thu đi”, ông hát:
Nhìn những mùa thu đi
Tay trơn buồn ôm nuối tiếc
Nghe gió lạnh về đêm
Hai mươi sầu dâng mắt biếc
Thương cho người rồi lạnh lùng riêng
Đời sống đầy u buồn vì nó tạm bợ. Tất cả - chim trời, hoa lá,
niềm vui, những cuộc tình, và chính đời sống mỗi con người – chỉ
là những điều tạm bợ, phù du như sương mù. Trong bài “Ở trọ”,
Trịnh Công Sơn nhấn mạnh rằng, vạn vật chỉ là kẻ ở trọ nơi cõi
trần:
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
Trong một số bài hát của Trịnh Công Sơn, tình yêu chính là nơi
nương náu quyến rũ của con người ở cõi thế u buồn này. Nhưng vì
tình yêu, cũng như vạn vật, chỉ là tạm bợ nên tình yêu không
phải là nơi nương náu vững vàng cho mỗi người. Tình yêu tuyệt
đẹp nhưng phù du, là chủ đề được tìm thấy trong nhiều bài hát
của Trịnh Công Sơn. Ví dụ, trong bài “Đóa hoa vô thường”, ông
hát về những giai đoạn của một cuộc tình – niềm vui khi tình yêu
chớm nở và sau đó là một kết cuộc buồn không thể tránh khỏi:
Từ đó ta nằm đau
Ôi núi cũng như đèo
Một chút vô thường theo
Từng phút cao giờ sâu
Từ đó ta ngồi mê
Để thấy trên đường xa
Một chuyến xe tựa như
Vừa đến nơi chia lìa
Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn của Trịnh Công Sơn, cho rằng
các bài tình ca của Trịnh Công Sơn là những lời khẳng định siêu
hình rằng những chia lìa, tan vỡ của những cuộc tình không phải
là những chướng ngại trên đường đời vốn cơ bản là vui. Theo
Hoàng Phủ Ngọc Tường, những bài hát đó là “bài kinh cầu bên vực
thẳm.”
[5]
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói, “Yêu là chết ở trong lòng một
ít”; đây là câu thơ mà tất cả những sinh viên đại học tôi dạy
hồi chiến tranh đều biết.
[6]
Sự chia lìa không tránh được trong tình ca Trịnh Công Sơn là
những cái chết, là sự chuẩn bị chuyến ra đi cuối cùng khỏi kiếp
này của người tình và của chính mình. Chúng gợi nhắc ta về cõi
tạm. Trong những bài hát của Trịnh Công Sơn, cái chết, chuyến ra
đi cuối cùng, không bao giờ là điều xa xôi. Trong một số bài
hát, ông nói đến cái chết của chính mình,
[7]
như trong bài “Bên đời hiu quạnh”:
Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi
Trong các bài khác, ông nói đến cái chết một cách mơ hồ hơn –
như là hành trình về “nơi cuối trời.”
[8]
Dù bằng hình ảnh nào đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn luôn hướng đến
sự vĩnh hằng, như trong bài hát với tựa đề “Lời thiên thu gọi”:
Về chân núi thăm nấm mồ
Giữa đường trưa có tôi bơ vơ
Chợt tôi thấy thiên thu
Là một đường không bến bờ
Và trong bài “Còn có bao ngày”, ông hát:
Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm
Gọi thì thầm, gọi thì thầm, gọi thì thầm
Triết lý nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn còn bao gồm cả vũ trụ học.
Có hai thế giới: một thế giới thực, là “trần gian” hay “nhân
gian”, và một thế giới phi thực, là “thiên thu”, “đất muôn đời”,
“thiên đàng” hay “vườn địa đàng”. Nhưng thế giới thực luôn hoà
lẫn với cái thế giới phi thực, cho nên thế giới của nhạc Trịnh
Công Sơn là nơi mà Bùi Vĩnh Phúc gọi là thế giới “nhoè nhạt” hay
“lai”,
[9]
là chốn giữa thực và siêu thực; một thế giới mà trong bài “Đời
cho ta thế”, Trịnh Công Sơn đã hát rằng “Không xa trời và cũng
không xa phận người”. Cái mờ ảo giữa thực và phi thực, có thể
được coi là cõi mờ ảo giữa sự sống và sự chết, giữa thực thể
trần gian và chốn vĩnh hằng bao trùm khắp và là sự pha trộn của
những hình ảnh đối lập quan trọng nhất trong nhạc Trịnh Công
Sơn.
Nhưng còn có những mờ ảo khác, thường trong cùng một dòng. Theo
Cao Huy Thuần, nhạc Trịnh Công Sơn thường có một thoáng của cái
này trong cái kia và ngược lại: “Một chút xuôi trong ngược. Trăm
năm trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ.”
[10]
Nhiều câu chữ có cấu trúc song song, một hệ thống thường được
dùng để trung hoà những điều đối nghịch, lại được Trịnh Công Sơn
dùng đến, không phải để phân biệt và đối lập các giá trị và phạm
trù, mà ngược lại, để làm nhoè và mờ đi, một nghệ thuật Cao Huy
Thuần gọi là “đối hợp.”
[11]
Ví dụ: “Tình không xa nhưng không thật gần”, “Không xa đời và
cũng không xa mộ người”, và “Một phố hồng, một phố hư không”.
[12]
Tuy cấu trúc không song song, nhưng có những câu nhạc của Trịnh
Công Sơn hiển nhiên không muốn phân biệt chất lượng cũng như
phạm trù: “Có chút lệ nhoà trong phút hôn nhau” và “Tình ngỡ đã
phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy”.
[13]
Nhạc Trịnh Công Sơn cho ta hình ảnh một người đi xuyên suốt một
thế giới nửa hư nửa thực. Người ấy mệt mỏi và buồn bã. Dù biết
ơn cuộc đời này, đặc biệt là tình yêu, ông
[14]
vẫn không hoàn toàn thuộc về chốn nhân gian này; trong một số
bài hát, ông nhắc đến mình như kẻ lưu đày.
[15]
Vậy con người này sẽ đi về đâu? Và ông đang ra đi, hay đang trở
về? Ông ra đi từ trần gian này, hay đang trở về từ một chốn nào
khác? Kẻ lữ hành đó không thể trả lời những câu hỏi này. Trong
bài “Có một ngày như thế”, ông hát:
Có một ngày… có một ngày như thế
Anh đi… Anh đi đâu?… về đâu?
Và trong bài “Tiến thoái lưỡng nan” ông hát:
Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Ngày xưa lận đận
Không biết về đâu
Về đâu cuối ngõ?
Về đâu cuối trời?
Xa xăm tôi ngồi
Tôi tìm lại tôi
Trong nhiều bài khác, ông lại hát lên nỗi nhớ nhà:
Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà
“Lời thiên thu gọi”
Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì
“Bên đời hiu quạnh”
Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố kia tôi về
“Đêm thấy ta là thác đổ”
Nhưng khi nhắc đến “nhà”, “quê nhà” và “quê quán”, vậy ông đang
nhắc đến quê quán của mình, hay đang nói nơi yên nghỉ cuối cùng
của mình – cái chết, sự vĩnh hằng? Về điểm này, ông có vẻ cũng
không rõ – như trong bài “Tiến thoái lưỡng nan”, rằng ông đang
đi về “cuối ngõ” nơi quê nhà hay về “cuối trời” của cõi vĩnh
hằng. Trong bài hát “Một cõi đi về”
[16]
rất nổi tiếng của ông, Trịnh Công Sơn viết “Chẳng biết nơi nao
là chốn quê nhà”, và vì vậy người nhạc sĩ cứ mãi loanh quanh:
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi xuống trăm năm một cõi đi về
Những ảnh hưởng của Phật giáo
Như hầu hết các triết lý khác, “triết lý nhẹ nhàng” của nhạc
Trịnh Công Sơn để lại cho chúng ta rất nhiều thắc mắc. Tuy vậy,
triết lý của Trịnh Công Sơn và những sáng tác của ông, thật ra
không khó hiểu như khi vừa tiếp cận, một khi chúng ta nhìn chúng
từ tư tưởng Phật giáo. Hiển nhiên, biết thêm về cuộc đời của
người nhạc sĩ này cũng phần nào giúp chúng ta hiểu thêm.
Trịnh Công Sơn đã trải qua thời thơ ấu gắn liền với cuộc chiến
thứ nhất và trưởng thành trong thời gian xảy ra cuộc chiến thứ
hai ở Đông Dương; một trải nghiệm chắc chắn đã giúp ông thấy
rằng thế giới này ngập tràn những khổ đau và sự sống rất mong
manh. Cha ông tham gia kháng chiến và đã bị bỏ tù ở Buôn Ma
Thuột; năm 1949, khi mới lên mười, Trịnh Công Sơn đã phải sống
với cha ông một năm trong Lao Thừa Phủ. Năm năm sau, cha ông qua
đời trong một tai nạn xe trên đường từ Quảng Trị về nhà ở Huế.
[17]
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Trịnh Công Sơn có lần đã nói
rằng từ những năm của thời thơ ấu mãi đến tận bây giờ (1998),
với ông, cái chết vẫn luôn là “ám ảnh lớn nhất” và cho rằng
“biên giới giữa cái chết và cái sống hình như chỉ là một sợi tóc
mong manh.”
[18]
Nhiều tác giả khác đã viết rất nhiều bài về thời thơ ấu và những
trải nghiệm chiến tranh của ông,
[19]
nên ở đây, tôi sẽ chỉ tập trung nói về những ảnh hưởng của Phật
giáo và chủ nghĩa hiện sinh.
Sau khi ông qua đời, trong rất nhiều những bài viết về Trịnh
Công Sơn, người ta thường nhắc qua về ảnh hưởng của Phật giáo
trong các sáng tác của ông.
[20]
Những người say mê Trịnh Công Sơn thường không đi sâu vào những
ảnh hưởng này, theo tôi, là vì trong một nền văn hoá vốn đã quá
thấm nhuần tư tưởng Phật giáo như ở Việt Nam, những người viết
về Trịnh Công Sơn tự thấy không cần thiết phải đi sâu vào chủ đề
này thêm nữa. Tuy vậy, trong những lần trả lời phỏng vấn, chính
Trịnh Công Sơn thỉnh thoảng đã nhắc đến những ảnh hưởng của Huế,
quê hương ông, và của Phật giáo. “Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu
đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi”, ông đã nói với một người
phỏng vấn ông như vậy.
[21]
Huế và Phật giáo gắn kết với tâm hồn của Trịnh Công Sơn cũng như
nhiều người Việt Nam khác. Huế là đất của Phật giáo với rất
nhiều chùa chiền. Tháng 5 năm 1963, khi những đại diện của vị
Tổng thống theo đạo Công giáo Ngô Đình Diệm cấm Phật tử treo cờ
mừng lễ Phật đản lần thứ 2527, nhiều người đã tập trung biểu
tình hoà bình gần Đài phát thanh Huế. Một sĩ quan cảnh sát đã ra
lệnh cho bắn vào đám đông biểu tình, giết chết một phụ nữ và tám
trẻ em. Sự kiện này đã làm tăng những cuộc biểu tình của Phật tử
và phần nào là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô
Đình Diệm. Huế cũng được biết đến với nhiều khu lăng tẩm vua
chúa nằm ở những vùng yên lắng ở ngoại ô thành phố. Khi được hỏi
về những ảnh hưởng của Huế, Trịnh Công Sơn đã nhắc đến những
lăng tẩm – những cơn mưa dầm, và con đường mang tên “Âm hồn” ở
Huế! Trịnh Công Sơn nói, “Tất cả những bài hát của tôi đều viết
về Huế”; điều này cho thấy quê quán phần nào là nguyên nhân của
nỗi buồn và ám ảnh về cái chết mà mọi người tìm thấy trong những
bài hát của ông.
[22]
Trong bài viết năm 2001 trên tờ Nguyệt san Giác Ngộ,
Trịnh Công Sơn đã nói trực tiếp về những ảnh hưởng của Phật giáo
đến cuộc đời và những sáng tác của ông:
Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là
Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh
Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những
năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một thầy đến nhà
tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những
câu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những
cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hoá
Đông Tây góp nhặt được, còn có lời kinh kệ vô tình nằm ở đấy.
[23]
Nhưng bằng chứng về những ảnh hưởng của Phật Giáo xuất hiện rõ
nhất trong các bài hát của ông. Chân lý trước tiên của Phật giáo
là “Đời là bể khổ.”
[24]
Một chân lý khác là tính tạm bợ của cõi nhân gian, đã được diễn
đạt rõ ràng và thi vị trong Kim cương kinh (Kim cương bát nhã ba
la mật kinh), một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật
giáo:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bào ảnh
Như sương như chớp loè
Hãy quán chiếu như thế.
[25]
Cả hai chân lý này – rằng đời sống là khổ đau và không có điều
gì là vĩnh cửu – là hai điều chúng ta sẽ thấy được lặp đi lặp
lại nhiều lần trong nhạc Trịnh Công Sơn. Hai điều này liên quan
chặt chẽ với nhau: con người khổ đau vì không có điều gì vĩnh
cửu. Peter Harvey cho rằng Phật giáo “chẳng những không khước từ
hạnh phúc tồn tại ở cõi trần mà còn cung cấp nhiều cách để đạt
thêm hạnh phúc nữa, nhưng cũng nhấn mạnh rằng, tất cả mọi hình
thái của hạnh phúc đều không vĩnh cửu (trừ cõi niết bàn). Sớm
muộn gì, những niềm hạnh phúc này rồi sẽ tuột khỏi tay của mỗi
con người, và để lại những dư vị của mất mát và khao khát.”
[26]
Những “dư vị của mất mát và khao khát” đó rất rõ trong nhạc
Trịnh Công Sơn, là bằng chứng cho thấy ông đã trăn trở để chấp
nhận một chân lý khác rằng con đường để chấm dứt khổ đau là hãy
bớt đi những si mê với cõi đời này. Điều này, Trịnh Công Sơn
biết ông sẽ khó làm được, vì ông đã hát trong bài “Mỗi ngày tôi
chọn một niềm vui” rằng “Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của
tôi”. Điều này không có nghĩa rằng Trịnh Công Sơn cảm thấy mâu
thuẫn giữa niềm tin vào Phật giáo và tình yêu của ông với cuộc
đời. Ông đã từng nói, “Với tôi, Phật giáo là một triết học làm
cho ta yêu đời hơn chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc
sống”.
[27]
Nhưng Phật giáo cũng dạy về sự quan trọng của việc không quyến
luyến, không bám víu vào những vui thú của cuộc đời. Trong một
số bài hát, chúng ta thấy Trịnh Công Sơn đã trăn trở nhưng chưa
thôi quyến luyến cuộc đời; trong những bài ông viết sau này – ví
dụ như bài “Như một lời chia tay”
[28]
, ông sáng tác năm 1991, và bài “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”, sáng
tác năm 1992 – ông dường như đã sẵn sàng hơn để từ bỏ cõi này.
Cuộc sống là khổ đau. Mọi cái chỉ là tạm thời. Những quan niệm
Phật giáo này đã thâm nhập vào sáng tác của Trịnh Công Sơn. Một
quan niệm Phật giáo nữa, mà Trịnh Công Sơn không coi quan trọng
bằng hai quan niệm trên, là thuyết luân hồi, rằng muôn vật sẽ
được tái sinh làm kiếp khác, tuỳ theo nghiệp của họ ở cõi này.
Trong những bài hát của mình, Trịnh Công Sơn như muốn nhắc đến
một câu rất phổ thông trong Phật giáo: “Hiện tại là chiếc bóng
của quá khứ, tương lai là chiếc bóng của hiện tại.”
[29]
Cao Huy Thuần nói rằng “Trịnh Công Sơn như vừa đứng ở hiện tại
vừa linh cảm cùng trong một lúc quá khứ và tương lai. Anh như
thấy tiền kiếp réo tên và cái chết vẫy gọi.”
[30]
Trong bài “Cát bụi”, ông tự hỏi:
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi?
Trong những bài hát khác, những ám chỉ về sự tái sinh phần nào
đó gián tiếp hơn:
Những ngày ngồi rủ tóc âm u
Nghe tiền thân về chào tiếng lạ
“Cỏ xót xa đưa”
Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô
Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa
“Rừng xưa đã khép”
Có những ai xa đời quay về lại
Về lại nơi cuối trời
Làm mây trôi
“Phôi Pha”
Quan niệm của Phật giáo về kiếp luân hồi giúp giải thích tại sao
Trịnh Công Sơn thường không bao giờ nói đến sự ra đi mà lại
không nhắc đến sự quay trở về, và ông luôn xoá nhoà sự khác biệt
giữa hai hành động này, như trong bài “Phôi pha” ở trên.
[31]
Nếu cái chết là kết tủa của tái sinh, thì khi một người ra đi,
cũng là lúc người đó đang trở về. Nhìn sự sống và cái chết từ
khía cạnh này cũng giống như khi ta nhìn nước trong một dòng
sông, và tự hỏi liệu ta nên nói nó đang trôi đi hay đang đến,
một điều mà Trịnh Công Sơn đã nắm bắt được trong bài “Gần như
niềm tuyệt vọng”:
Những ngàn xưa trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về
Khi nói về cái chết, Trịnh Công Sơn thường hay xoá nhoà giữa đi
và về, vì trong Phật giáo, cuộc hành trình từ cái sống đến cái
chết ví như dòng nước; nó là một quá trình luân chuyển nhẹ
nhàng, khác với triết học Tây phương, nơi, như René Muller nói,
“từ sống đến chết là một sự gián đoạn cay độc.” Và ông nói thêm
rằng, điều này cũng đúng với ngay cả “những tín đồ Thiên Chúa
vốn có niềm tin vào đời sau và sự sống muôn đời.”
[32]
Phật giáo dạy ta về cái chết với một thái độ khác. Các Phật tử
tin rằng “không có một cá thể, một linh hồn hay một cái tôi vĩnh
cửu nào ngoài quá trình biến chuyển không ngừng của tinh thần và
vật chất, cái tạo nên sự tồn tại của chúng ta.”
[33]
Tuy vậy, theo lời dạy của Phật, một chút gì đó trong một sinh
vật khi chết đi sẽ được tồn tại trong sinh vật đó sau khi tái
sinh. Harvey giải thích như sau:
Mỗi con người trước tái sinh không giống và cũng không khác con
người sau tái sinh. “Con người đó sẽ không giữ hoàn toàn bản
tính cũ và cũng không khác hoàn toàn bản tính cũ.”
[34]
Không có một thực thể nào đi từ kiếp này đến kiếp khác mà không
thay đổi, nhưng cái chết của một thực thể này dẫn đến cái sống
của một thực thể khác, giống như thắp một ngọn nến này đến một
ngọn nến khác.
[35]
… Người “kiếp trước” và người “kiếp sau” kết nối với nhau bởi
dòng xoáy của ý thức và luật nhân quả, nên đặc tính của một kiếp
này bắt nguồn từ những đặc tính của “kiếp khác”.
[36]
Nếu con người trong vòng sinh-tử-tái sinh giữ được một số khía
cạnh của tiền kiếp khi tái sinh, thì quá trình này có cả sự ra
đi và sự trở về - “một cõi đi về”, như Trịnh Công Sơn đã đặt cho
tựa đề một bài hát rất nổi tiếng của ông.
Trong bài “Ngẫu nhiên”, Trịnh Công Sơn cho rằng không thể phân
tách giữa ra đi và trở về; ở đây, chúng ta có lẽ cũng thấy quan
niệm của Phật giáo là con người không thể biết được vòng tái
sinh bắt đầu từ đâu và bao giờ sẽ kết thúc:
Không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng
Bởi vì không có sự khởi đầu hay kết thúc rõ ràng của vòng tái
sinh, nên cũng rất khó phân biệt giữa ra đi và trở về. Vua Trần
Nhân Tông (1279-1293), một Phật tử, đã viết bài thơ trong di
chúc:
Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hay hiểu như vậy
Chư Phật thường trước mặt
Đến đi sao có đây
[37]
Một giá trị Phật giáo sau cùng trong những sáng tác của Trịnh
Công Sơn là những ca từ khó hiểu và phi lôgic. Hiển nhiên, bài
hát không phải là lý luận của lý trí, mà là tiếng thổn thức của
tấm lòng. Bằng việc không giải thích những ý nghĩa đơn giản,
Trịnh Công Sơn để cho người nghe tự diễn đạt theo ý của riêng
họ, và từ đó đồng hành với ông trong việc tạo ra ý nghĩa. Sự
thiếu mạch lạc có chủ ý cũng phản ánh một xu hướng hiện đại chủ
nghĩa bằng cách xa lạ hoá ngôn từ để làm nghệ thuật mới và tươi
mát. Nhưng sự cố ý tối nghĩa của Trịnh Công Sơn, theo tôi, cũng
là một cách truyền tải quan niệm Phật giáo rằng con người không
thể tìm tới sự tịnh an của tâm hồn bằng lý lẽ, và sự giác ngộ
nằm ngoài biên giới của ngôn ngữ và logic, như nhà sư Ấn Độ Bồ
Ðề Ðạt Ma đã truyền vào Trung Hoa ở thế kỷ thứ sáu:
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ chơn tâm,
Kiến tánh thành Phật
(Truyền riêng ngoài giáo
Chẳng lập văn tự
Chỉ thẳng tâm người
Thấy tánh thành Phật).
[38]
Mục đích vượt khỏi giới hạn của ngôn ngữ có thể là lời giải
thích tại sao Trịnh Công Sơn đã hoà trộn những phản đề như ra đi
và trở về, gần và xa, lạnh nhạt và nồng nàn – như việc Trịnh
Công Sơn luôn khẳng định rằng luôn có một thoáng của cái này
trong cái kia và ngược lại. Giống như các Thiền sư, Trịnh Công
Sơn có thể phủ nhận tuyết màu trắng và quạ màu đen chỉ để nói
lên rằng, để được giác ngộ, con người phải “thoát khỏi những
phản đề của ‘có’ và ‘không’” và tìm cách để hài hoà những đối
nghịch.
[39]
Theo lời Phật dạy, để giác ngộ, con người phải biết cưỡng lại xu
hướng thỏa mãn với những nhị nguyên đơn giản. Trí năng của con
người luôn muốn chống lại, phân biệt và phân loại, nhưng chúng
ta phải vượt qua được xu hướng này để đạt đến “tánh không.” Để
giúp con người đạt đến trạng thái này, các thiền sư dùng phương
pháp “minh hoạ bằng phép phủ định,” một phương pháp được tìm
thấy trong rất nhiều bộ kinh, luận và công án của đạo Phật.
[40]
Sư Long Thọ, một trong những luận sư vĩ đại nhất của Phật giáo
Đại Thừa Ma-ha-diễn-na (có nghĩa là “cỗ xe lớn”, là một trong
hai trường phái lớn nhất của đạo Phật - ND), nói đến trạng thái
này trong cuốn Trung luận của ông, một kinh văn rất quan
trọng của Ma-ha-diễn-na, bắt đầu như sau:
Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không nhất cũng không dị
Không lai cũng không khứ
Chang Chen-chi giải thích rằng đa số những công án Thiền đều dựa
theo phương pháp “minh hoạ bằng phép phủ định.”
[41]
Điển hình là một ví dụ nổi tiếng của công án về việc lắng nghe
âm thanh khi vỗ bằng một bàn tay – một âm thanh không hẳn là âm
thanh nhưng cũng không (hoàn toàn) không là âm thanh. Những bài
hát của Trịnh Công Sơn phần nào có hơi hướng như một công án vì
chúng cho thấy sự ảnh hưởng của “minh hoạ bằng phép phủ định”
này hay phương pháp “không-không.” Trong rất nhiều bài hát,
chúng ta thấy phương pháp này được sử dụng trong một hay hai câu
hát; tuy nhiên, trong bài “Đời cho ta thế” và “Bay đi thầm
lặng”, hơn một nửa những câu hát phá vỡ những cấu trúc đối lập
dễ dãi. Cả ba đoạn trong bài “Đời cho ta thế” đều bắt đầu và kết
thúc với những câu hát “minh hoạ qua phép phủ định”. Đây là
những câu hát trong đoạn thứ hai:
Không xa người và cũng không xa mặt trời…
Không xa tình đầy và cũng không xa lạc loài…
Không xa tình và cũng không xa thù hận
Không xa nồng nàn và cũng không xa lạnh lùng
Nguồn:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10058&rb=0206
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
[1]Xem
phần phụ lục 1 để biết thêm về danh sách và ngày xuất bản của
tất cả các bài hát được trích dẫn trong bài viết này. Để tìm
những lời bài hát và thông tin khác về những bài hát của Trịnh
Công Sơn (ngày xuất bản, tên tập nhạc và những chi tiết khác),
xem trang web: trang web của Trịnh Công Sơn-forum.org,
http://TCS-home.org/songs; Kho sưu tập tư liệu về nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn, dưới mục “Kho sưu tập” tại
http://www.hoiquanhoingo.com.vn và trang web của
VNEnterprise.com, http://www.vnenterprise.com. Để biết thêm về
các bản nhạc cũng như lời bài hát, xem Trịnh Công Sơn: Tuyển
tập những bài ca không năm tháng (TPHCM: Âm nhạc, 1998).
[2]Tuy
nhiên, nhà cầm quyền đã gặp khó khăn trong việc thẩm định xem
những bài hát nào trong những sáng tác trước năm 1975 của Trịnh
Công Sơn là phản chiến. Năm 2003, khi phỏng vấn Lê Nam, giám đốc
phòng băng đĩa của phòng Nghệ thuật Trình diễn Thành phố Hồ Chí
Minh, thuộc Bộ Văn hoá Thông tin, ông ta cho rằng vấn đề nằm ở
những bài hát trong tập nhạc Ca khúc da vàng (1966/1967)
vì những sáng tác này “nội dung phản chiến được nêu lên rất
chung chung, không phân biệt chiến tranh phi nghĩa và chính
nghĩa.” Xem bài “Cái gì đã thuộc về nguyên tắc thì không có
ngoại lệ” của Thu Hà, báo Tuổi trẻ, ngày 18 tháng 4,
2003, http://www.tuoitre.com.vn. Quả vậy, bài hát nào của Trịnh
Công Sơn được và không được phép trình diễn tại Việt Nam vẫn là
một điều mập mờ. Nhà cầm quyền thường lẫn lộn giữa những ca khúc
của ông, bài hát được sáng tác trước năm 1975, và trong số đó,
bài nào nằm trong tập Ca khúc da vàng. Một điều không rõ
ràng nữa là tất cả hay chỉ một số những bài hát trong tập nhạc
này bị cấm. Theo Cao Minh Hiền và Dạ Ly, “Đối với dòng Ca khúc
da vàng của Trịnh Công Sơn cho đến bây giờ vẫn rất ‘mập mờ’
trong viêc cho hay không cho các ca sĩ hát.” Xem “Chuyện ca
khúc… duyệt và không duyệt!”, Thanh Niên Online, 7 tháng
5, 2004,
http://www2.thanhnien.com.vn
[3]Xem
“The Trịnh Công Sơn Phenomenon”, John Schafer.
Journal of
Asian Studies,
số sắp ra.
[4]Trịnh
Công Sơn, “Để bắt đầu một hồi ức”, Âm nhạc, tháng 1 1997;
in lại trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca một cõi đi
về (Hà Nội: Âm Nhạc, 2001), trang 201-202, do Nguyễn Trọng
Tạo, Nguyễn Thụy Kha, và Đoàn Tử Huyến biên tập.
[5]Trịnh
Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé
(HCMC: Trẻ, 2004), 84.
6]Câu
thơ này từ bài thơ “Yêu” của Xuân Diệu, lần đầu tiên xuất bản
trong tập Thơ Thơ năm 1938. Xem Tuyển tập Xuân Diệu:
Thơ (Hà Nội: Văn Học, 1986), trang 72.
[7]Ngoài
bài “Bên đời hiu quạnh”, những bài hát khác mà Trịnh Công Sơn
nói đến cái chết của chính ông gồm có bài “Ngẫu nhiên” và “Phúc
âm buồn”.
[8]Ví
dụ, xem: “Cỏ xót xa đưa”, “Như một lời chia tay”, “Ở trọ”, “Phôi
pha”, và “Về nơi cuối trời”
[9]Xem
Trịnh Công Sơn: Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của
Bùi Vĩnh Phúc (Gardena, CA: Văn Mới, 2005), trang 131. Những
người khác cũng đồng ý. Cao Huy Thuần cho rằng “Với Trịnh Công
Sơn, cõi khác và cõi này không tách rời nhau rõ rệt.” Cao Huy
Thuần nói điều này trong phần giới thiệu những bài hát của Trịnh
Công Sơn tại “Đêm hoài niệm Trịnh Công Sơn”, Paris, 26 tháng 5,
2001.
[10]Cao
Huy Thuần, “Buồn bã với những môi hôn”, trong Trịnh Công Sơn
cát bụi lộng lẫy, Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô
Minh (Huế: Thuận Hoá, 2001), trang 102.
[11]Ibid.
[12]Từ
bài “Như một lời chia tay”, “Đời cho ta thế”, và “Có nghe đời
nghiêng”, theo thứ tự như trên.
[13]Từ
bài “Bay đi thầm lặng” và “Tình nhớ”, theo thứ tự như trên.
[14]Tôi
dùng đại từ giống đực vì tôi tin những bài hát của Trịnh Công
Sơn là những thông điệp cá nhân của ông. Tuy nhiên, những buồn
bã của thân phận ông và thân phận của kiếp người rất gần gũi với
nhau: chúng luôn bổ túc cho nhau.
[15]Ví
dụ, xem “Dã tràng ca”, “Phúc âm buồn”, “Tình xót xa vừa” và “Vết
lăn trầm”.
[16]Lời
của bài hát này nằm ở phần phụ lục B.
[17]Xem
Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý (TPHCM:
Trẻ, 2003), 16-17.
[18]Cuộc
phỏng vấn này, với Văn Cầm Hải, xảy ra năm 1998. Nó được in lại
dưới tựa “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” trong cuốn Trịnh
Công Sơn: Một người thi ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy
Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 207-208.
[19]Xem
Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý, Trịnh
Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Có một
thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân (TPHCM: Văn Học, 2003);
Về một quãng đời Trịnh Công Sơn của Nguyễn Thanh Ty. Tôi
cũng nói đến những năm tháng chiến tranh và những bài hát phản
chiến của Sơn trong bài “The Trịnh Công Sơn Phenomenon,”
Journal of Asian Studies (sắp ra).
[20]Những
bài viết này xuất hiện trong nhiều tập sưu tầm. Ví dụ, xem
Cát bụi lộng lẫy của Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô
Minh; Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca của Nguyễn Trọng
Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến.
[21]Buổi
phỏng vấn [không rõ ngày tháng] này được in lại với tựa đề “Chữ
tài chữ mệnh cũng là bể dâu” trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một
người thơ ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn
Tử Huyến, trang 221.
[22]Bài
“Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” của Văn Cầm Hải trong cuốn
Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca do Nguyễn Trọng Tạo,
Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến biên tập.
[23]Trịnh
Công Sơn, Nguyệt San Giác Ngộ, tháng 4, 2001. Được in lại
với tựa đề “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Phải biết sống trong mỗi
sát na của hiện tại”, trong cuốn Trịnh Công Sơn: Rơi lệ ru
người do Lê Minh Quốc biên tập (Hà Nội: Phụ Nữ, 2004), trang
202-204.
[24]Từ
này trong cổ ngữ Ấn Độ là duhkha, Thích Thiên Ân dịch là “khổ
đau, đau đớn, buồn rầu, bất mãn; những trạng thái của Luân hồi.”
(Luân hồi là “bể của sinh và tử; là bánh xe của sự tồn tại; thế
giới luân chuyển hiện hữu.”)
Xem Zen Philosophy của Thích Thiên Ân (Emeryville, CA: Dharma
Publishing, 1975), 175, 177.
[25]Thích
Nhất Hạnh dịch, Kinh Kim Cương.
[26]Peter
Harvey, An Introduction to Buddhism (Cambridge: Cambridge
University Press, 1990), 48.
[27]Trịnh
Công Sơn, “Phải biết sống hết mình,” trong cuốn Trịnh Công
Sơn: Rơi lệ ru người (xem chú thích số 24), Lê Minh Quốc
biên tập, trang 203.
[28]Lời
bài hát này nằm ở phần phụ lục C.
[29]Xem
Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 54.
[30]Cao
Huy Thuần, (Xem chú thích 9).
[31]Trịnh
Công Sơn nói về sự ra đi và trở về trong nhiều bài hát, trong đó
có bài “Biển nhớ”, “Có nghe đời nghiêng”, “Cỏ xót xa đưa”, “Lặng
lẽ nơi này”, “Lời thiên thu gọi”, “Rừng xưa đã khép”, và “Một
cõi đi về”.
[32]Xem
René Muller, Beyond Marginality: Constructing a Self in the
Twilight of Western Culture (Westport, CT: Praeger, 1998),
121.
[33]Xem
Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 84.
[34]Harvey
trích dẫn từ Di Lan Đà Vấn Đạo, một đoạn đối thoại giữa
Di Lan Đà, một vị vua Hy Lạp cai trị đế quốc Ấn – Hy Lạp vào
những năm cuối thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, và một vị sư
tên Na Tiên.
Di Lan Đà Vấn
Đạo
là một quyển quan trọng của tín lý Phật giáo, đặc biệt là nhánh
Theravada (Tiểu thừa). Để biết thêm về giáo lý Phật liên quan
đến vấn đề tái sinh, xem thêm Thích Thiên Ân, “The Matter of
Soul in Buddhism,” trong cuốn Zen Philosophy, 165-170.
Giải thích về tái sinh, Thích Thiên Ân cũng nói đến Di Lan Đà
Vấn Đạo và hình ảnh ngọn đèn.
[35]Harvey,
Introduction to Buddhism, 58.
[36]Harvey
trích dẫn Di Lan Đà Vấn Đạo, phần 71, như là nguồn gốc
của hình ảnh này (58).
[37]Thích
Thiên Ân dịch, Zen Philosophy, 108.
[38]Xem
Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 17.
[39]Daisetz
Teitaro Suzuki, An Introduction to Zen Buddhism (New
York: Grove Press, 1964), 52, 69.
[40]Xem
Chang Chen-chi, The Practice of Zen (New York: Harper and
Brothers, 1959), 128. Thích Thiên Ân cũng nói đến phương pháp
này, mà ông gọi là “phương pháp không-không” trong Buddhism
and Zen in Vietnam (Rutland, VT:Charles Tuttle, 1975), 34,
219n6; 257–258n6.
[41]Xem
Chang Chen-chi, The Practice of Zen, 128.
Nguồn:
Journal of Vietnamese Studies
(Tạp chí Việt Học), số 1, tập 2, mùa đông 2007, published by The
University of California Press
Ngươi không phải là một tạo sinh, mà là sự biểu hiện |
|