Triết học Ấn Độ
-
Bối cảnh lịch sử và văn hóa - Một số khái niệm
căn bản
- Kinh sách và văn học - Các trường phái triết
học chính thống
- Các trường phái triết học phi chính thống
- Cuộc sống: cứu cánh và đạo đức học
1
Bối cảnh lịch sử và và văn hóa

Ðời sống, tôn giáo và nền triết học gồm nhiều triết hệ của tiểu
lục địa Ấn Ðộ phô diễn một hỗn hợp phong phú và đầy kinh ngạc.
Ðược phát triển từ hơn ba ngàn năm trước, chúng gồm các ý tưởng,
các thực hành và các phong tục xã hội. Tại Ấn, không có một tôn
giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết học độc nhất; đúng
hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết
học Ấn Ðộ cũng như Ấn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý
tưởng được bảo lưu một cách rộng rãi, trong đó một số ý tưởng
này cổ đại hơn một số ý tưởng khác tới cả ngàn năm.
Vì thế, trước khi đi vào chương này, chúng tôi muốn lưu ý người
đọc rằng thuật ngữ ‘Triết học Ấn Ðộ’ và ‘Ấn giáo’ ở đây chỉ ngụ
ý khái quát. Cả hai được dùng theo lối của người Tây phương hoặc
của người ngoài Ấn Ðộ để tiện việc khảo cứu các ý tưởng và các
thực hành được tìm thấy ở xứ sở bao la và diệu vợi ấy.
Ðôi nét đất và người
Trước hết, Ấn Ðộ không là một quốc gia thuần túy; nó chịu ảnh
hưởng của nhiều dân tộc đã lần lượt xâm chiếm nó. Ấn là một tiểu
lục địa mênh mông, ngày xưa bị chia thành nhiều tiểu quốc. Ngày
nay, sau khi hai nước Pakistan (Tây Hồi) và Bangladesh (Tây Hồi)
tách rời, diện tích còn lại là năm triệu cây số vuông - rộng gấp
hơn 15 lần nước Việt Nam. Ấn có tới 14 ngôn ngữ sắc tộc, hằng
trăm thổ ngữ. Ngôn ngữ chính là tiếng Anh và tiếng Hindu. Khí
hậu rất khắc nghiệt. Miền bắc gần Hi mã lạp sơn lạnh buốt. Miền
nam nhiệt đới ẩm, sương mù. Nông nghiệp là chính tuy người dân
chỉ có thể canh tác trong mùa hè, đầy gió mùa và mưa dầm. Cho
đến giữa thế kỷ 20, thiên tai và nạn đói triền miên đe dọa.
Ấn Ðộ là vùng đất hòa trộn cả Ðông lẫn Tây do bởi kết quả tự
nhiên của sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa, giao lưu thương mại và
những cuộc ngoại xâm. Theo công trình khảo cổ khai quật và các
bức tranh trong hang động, nền Văn minh Thung lũng Indus có ít
nhất là 5.000 năm trước Công nguyên (TCN), trước cả Babylon, Ai
Cập và Hi Lạp. Từ mấy ngàn năm nay, tôn giáo và hệ thống đẳng
cấp xã hội là những nguyên nhân xung đột chính, chi phối mạnh mẽ
sinh hoạt văn hóa và xã hội.
Ấn Ðộ là thiên đường của đủ loại hình tôn giáo, từ mê tín sâu
sắc, với những lý thuyết trái ngược nhau và các vị thánh, khất
sĩ, ẩn sĩ, hiền giả và người vô tín ngưỡng. Theo thống kê năm
2001, người Ấn theo Ấn giáo 80.5%, Hồi giáo 13.4 %, Kitô giáo
2.3%, Sikh 1.9%, các tôn giáo khác 1.8%, không xác định 0.1%.
Ngược dòng lịch sử, khoảng năm 1.500 TCN, người Aryan nói tiếng
Sanskrit, xâm lăng Ấn Ðộ từ ngả tây bắc, đã tìm thấy ở đó có dân
chúng Dravidian bản địa, với một nền văn minh tiến bộ. Người
Aryan đưa vào Ấn tiếng Sanskrit và tôn giáo theo kinh Veda, kết
hợp với tín ngưỡng bản địa làm thành Ấn giáo.
Phật giáo xuất hiện vào thế kỷ 6 TCN, lan rộng khắp miền bắc Ấn
và được đẩy mạnh qua công lao của một trong các vị vua cổ đại vĩ
đại nhất, đó là hoàng đế Asoka (k.269-232 TCN), kẻ cũng đã thống
nhất hầu hết tiểu lục địa Ấn lần đầu tiên.
Quá trình phát triển tư tưởng Ấn
Trước khi xảy ra cuộc xâm lăng của người Aryan, như đã nói ở
trên, chúng ta có bằng chứng về nền văn minh bản địa trong
khoảng từ năm 2.500 tới năm 1.700 TCN. Người ta khó đánh giá mức
độ ảnh hưởng của Văn minh Thung lũng Indus lên sự phát triển của
tư tưởng Ấn Ðộ, nhưng có những bức tượng nhỏ về các thần nam và
thần nữ, trong đó có một bức giống các hình ảnh về sau của thần
Shiva và một tư thế tập luyện Yoga, gợi cho thấy những người dân
thượng cổ ấy đã có những đóng góp trực tiếp vào nền triết học và
tôn giáo về sau.
Cũng có thể sự pha trộn người Aryan nước da nhạt hơn với cư dân
bản địa nước da sậm màu hơn đã tạo ra một cấp độ các hiện tượng
tôn giáo và xã hội tại Ấn Ðộ, trong đó gồm cả hệ thống đẳng cấp
vốn ảnh hưởng rất lớn lên lối sống và tư tưởng Ấn Ðộ từ hơn hai
ngàn năm nay.
Những cuộc xâm lăng về sau không thể không để lại dấu ấn. Từ
khoảng năm 500 TCN, có một dòng người Parsi lũ lượt tuôn vào. Họ
là tín đồ Bái Hỏa giáo của Zoroaster, tên Hi Lạp của
Zarathustra, sống khoảng thế kỷ 6 TCN, phát sinh từ Ba Tư. Sau
đó, từ năm 300 tới năm 100 TCN, Ấn có giao lưu với người Hi Lạp,
khởi đầu từ cuộc đánh chiếm dưới quyền chỉ huy của Ðại đế
Alexander (356-323 TCN).
Người A Rập xâm lăng, thiết lập nền cai trị Muslim vững chắc ở
miền Tây Ấn vào thế kỷ 8. Người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát
miền Bắc Ấn từ năm 1200. Ðế quốc Hồi giáo Mogul vĩ đại được
thành lập từ năm 1526, đặt trung tâm tại
Delhi
và kéo dài tới năm 1857. Ấn Ðộ bắt đầu giao dịch thương mại với
Tây phương kể từ khi Vasco da Gama, nhà thám hiểm người Bồ Ðào
Nha đặt chân đến vào năm 1498. Sau những bước chân thăng trầm
của người Hà Lan, Ðức, Pháp, đất Ấn bị người Anh cai trị từ đầu
thế kỷ 19 cho tới năm 1947.
Dân số Ấn hiện nay đã hơn một tỉ người, có triển vọng sẽ đông
hơn Trung Hoa. Tới hôm nay, cùng với nhịp độ toàn cầu hóa và sự
phát triển của công nghệ thông tin, Ấn Ðộ ngày càng tiếp nhận
văn hóa phương Tây, mà trong đó tiếng Anh là một lợi thế. Không
kém người Hoa, người Ấn di dân gần như có mặt khắp nơi trên thế
giới, từ các đảo quốc Thái bình dương tới Ðại tây dương, nhất là
khu vực Trung Mỹ và Bắc Mỹ. Tính tới đầu thế kỷ 21, trong 6
người dân trên thế giới, có khoảng 2.5 người gốc Ấn và Hoa.
Với một quá trình lịch sử và phát triển văn hóa như thế, hẳn
không thực tế nếu nhìn tư tưởng Ấn Ðộ và kỳ vọng sẽ lập thành
một hệ thống triết học nhất quán và duy nhất. Nó là tầng tầng
triết học xã hội với lớp lớp siêu hình học trừu tượng và tôn
giáo.
Các thời kỳ phát triển
Có một cách đi vào đúng hướng và nhìn chính xác qui mô bao la
của tư tưởng Ấn Ðộ cùng những thực hành của nó là xem xét trong
tương quan với từng thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ có một quan
tâm cá biệt, tô màu vẽ sắc cho nền triết học ấy. Tuy thế, thật
khó xác định thời điểm cho từng thời kỳ vì hầu như người Ấn Ðộ
thuở ấy ít quan tâm tới niên đại. Chúng tôi dựa đôi chút vào sự
phân chia niên đại của Radhakrishna, qua Nguyễn Ðăng Thục trong
Triết học Ðông phương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1997,
tập 3, với nhiều bổ túc nội dung.
1. Thời kỳ Veda và anh hùng ca
:
Giai đoạn đầu từ năm 1500 tới năm 600 TCN. Ðây là giai đoạn dân
Aryan thiết định dần dần trên đất Ấn và truyền bá văn hóa, văn
minh Aryan. Bắt đầu với thi ca Rig-Veda tự do, khởi hứng để dần
dần hệ thống hóa vào các Upanishad. Kinh Veda được kết tập như
một một phối hợp tư tưởng Aryan với nghi lễ cúng tế của các sắc
dân bản địa.
Giai đoạn hai từ năm 600 TCN tới năm 200 SCN. Ði từ các
Upanishad đến các Darsùana, quan điểm triết học. Nó
gồm những tác phẩm thần thoại Ramayana và Mahabharata
trong đó có Bhagavad Gita.
Chúng ta có bằng chứng thành văn về thời kỳ sớm sủa này, nhất là
sự hợp thành đại tác phẩm Veda, mà mối quan tâm chủ yếu dường
như là Dharma — trật tự hợp lý và chính đáng của xã hội
nói chung và của cá nhân trong xã hội nhằm thành tựu cuộc sống
hòa điệu và hạnh phúc.
2. Thời kỳ kinh học
:
Bắt đầu từ năm 200 SCN với sáu triết hệ cổ điển của Ấn Ðộ và dư
hưởng kéo dài cho tới hết thiên niên kỷ thứ nhất. Trong thời kỳ
này, mối quan tâm chủ yếu chuyển từ Dharma trật tự hợp lý
và chính đáng về mặt thế tục qua tới Moksa, niềm khát
khao giải thoát khỏi thế giới luân hồi bất tận. Dù hết thảy
những gì nói thuở trước về Dharma vẫn còn thích đáng, lúc này,
triết học Ấn quan tâm mới mẻ hơn tới sự giải thoát tâm linh cá
nhân Moksa, và đặt nó lên trên cùng, thậm chí cao hơn Dharma.
3. Thời kỳ kinh viện
:
Ðợt thứ ba của tư tưởng Ấn Ðộ bắt đầu vào khoảng giữa thiên niên
kỷ thứ nhất SCN. Lúc này nhấn mạnh lên sự sùng mộ, tận hiến
(Bhakti) cho đấng thần linh tối cao do mỗi người chọn lựa. Ở
đây, mục đích không chú trọng lắm tới sự giải thoát khỏi chu kỳ
luân hồi cho bằng sự hiệp nhất với đấng thần linh ấy trong và
qua cuộc sống trần thế của mình.
2
Một số khái niệm căn bản
Brahman
Chịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, từ ngữ
‘Thượng đế’ được dùng trong tư tưởng Tây phương là để biểu hiện
một thực tại vừa có tính sáng thế vừa có tính nhân cách. Thượng
đế ấy được mô tả như một nguyên nhân vừa không bị tác động vừa
tác động lên mọi sự, nhưng đồng thời cũng là đấng thần linh có
nhân cách mà người đời có thể dâng lời nguyện cầu và đấng ấy có
thể nghe tường tận từng lời cầu nguyện.
Từ ngữ cảnh Tây phương, chuyển mắt nhìn sang Ðông phương, ta
thấy tình thế có hơi khác. Ở cấp độ tôn giáo đại chúng, Ấn giáo
có hàng ngàn thần linh nam và thần linh nữ — mỗi vị trấn nhậm
một phạm vi ảnh hưởng cá biệt, hoặc có tính địa dư hoặc liên
quan tới một khía cạnh đặc thù trong cuộc sống. Thí dụ thần đầu
voi Ganesa được cho là mang lại vận hội may mắn và thành quả học
tập, do đó, được tôn kính đặc biệt bởi những ai liên quan tới
sinh hoạt ấy.
Ngoài vô số thần linh Ấn Ðộ, có ba vị thần tối cao, theo lối tam
vị nhất thể, tiêu biểu cho các khía cạnh bổ sung nhau của sự
sống:
a. Brahma: Thần sáng tạo.
b. Visnu: Thần gìn giữ.
c. Siva: Thần hủy diệt.
Các khía cạnh có tính nền tảng ấy trong quá trình biến đổi của
thế giới đều được thừa nhận và khắc tạc chân dung bằng cách thể
hiện thành hình tượng tương ứng với mỗi vị thần và tùy vào khái
niệm của mỗi triết hệ đối với vị thần ấy. Tuy thế, thần Brahma,
vị đệ nhất trong tam vị, thường được đặc biệt biểu hiện bằng màu
đó, bốn đầu, bốn cánh tay cầm chén thánh có chân, cây cung,
quyền trượng và kinh Veda.
Thế nhưng, ở quá bên kia ba thần linh ấy là ý tưởng về
Brahman — Ðấng Phạm Thiên tối thượng. Từ ngữ này dùng để
biểu hiện một thực tại tối hậu, bao gồm toàn thể vũ trụ với vô
số các nam thần và nữ thần. Brahman được xem là thực tại vô
hình, ở bên trong và ở chung quanh mọi sự. Brahman là Ðại ngã.
Hết thảy các thần linh khác biểu hiện hữu hạn một khía cạnh của
Brahman và làm cho ngài trở thành vô hình.
Brahman là cái tuyệt đối bất biến và vĩnh hằng, thực tại tối
thượng và phi nhị nguyên. Các tôn giáo và triết thuyết nhị
nguyên, dựa vào sự tồn tại của một Thượng đế có nhân cách
(personal God), không thể nào biết tới một cái gì tương đương
với khái niệm Brahman. Với sự trừu tượng hóa, và ý niệm về Ý
thức tuyệt đối, không thể hiểu Brahman theo lối duy lý. Chỉ cần
có ý định cụ thể hóa một chút là giản lược Brahman thành
Ishvara, Thượng đế trong một triết hệ Ấn Ðộ mà ta sẽ đề cập
ở phần sau.
So với triết Tây
:
Ðối chiếu với các thuật ngữ Tây phương, ta có thể là người theo
thuyết độc thần (monotheism) khi tin rằng chỉ có một vị thần
thôi; cũng có thể theo thuyết đa thần (polytheism) khi tin rằng
có nhiều vị thần; hoặc theo thuyết vô thần (atheism) khi tin
rằng chẳng có thần linh nào cả. Thật thế, trong triết học tôn
giáo tại Tây phương, các triết gia dành phần chủ yếu cho nỗ lực
chứng minh có hay không có Thượng đế. Vấn đề ấy không thật sự có
ý nghĩa khi ta nhìn vào tư tưởng Ấn Ðộ.
Cá nhân mỗi nam thần hay mỗi nữ thần hiện hữu dưới dạng các hình
tượng ghi tạc họ. Họ cũng hiện hữu như những biểu hiện cho một
khía cạnh đặc thù của cuộc sống. Nhưng người Ấn Ðộ không xem họ
hiện hữu độc lập và tách rời với thể xác. Không được xác định
nơi tọa lạc, họ là các khía cạnh của thực tại được tiêu biểu
bằng tranh tượng của mỗi vị thần.
Nói cách khác, thật khó đặt vấn đề Brahman có hiện hữu hay
không. Theo một ý nghĩa nào đó, ngài ở bên trên khái nệm về hiện
hữu. Bạn không thể hỏi một cách hợp lý rằng thực tại có hiện hữu
hay không, do bởi đơn giản rằng thực tại là thực tại; điều duy
nhất bạn có thể làm là xem xét và tranh luận về bản tính của
thực tại.
Cũng giống như thế, có những hình tượng của các thần nữ được
dùng để tiêu biểu cho những khía cạnh khác nhau của đời sống.
Thế nhưng tất cả đều có chung một điểm là biểu hiện cho năng lực
sinh hóa của người nữ (sakti). Chúng ta sẽ xem xét bản tính và
thao tác của quyền năng sáng tạo sakti ấy trong chương
nói về Tantra.
Tóm lại, tư tưởng Ấn Ðộ lập luận rằng có vô số thần linh, mỗi vị
là một cách biểu hiện cho thực tại tối hậu và đơn nhất, cái được
gọi là Brahman — Ðấng Phạm Thiên.
Âm tiết AUM
Brahman đôi khi còn được biểu hiệu bằng âm tiết AUM — đọc là OM.
Người Ấn có thể ngân âm tiết AUM lên một cách khoan thai, âm
thanh vang vọng theo ba tiếng đi liền nhau, từ lồng ngực, rồi
tới cổ họng và cuối cùng tới đỉnh đầu mình. Theo Nguyễn Ðăng
Thục (1908-1999) trong sách đã dẫn, ba tiếng ấy tiêu biểu tam vị
nhất thể của Brahman. A cho Brahma: ngôi sáng tạo; U cho Visnu:
ngôi bảo vệ; và M cho Siva: ngôi hủy diệt.
Người ta tin rằng sự chấn động của các năng lực cung cấp sự sống
cho toàn thể vũ trụ, phát ra từ Brahman nhưng nó cũng tiêu biểu
cho sự hội tụ toàn bộ cá nhân con người trong một phô diễn đơn
nhất. Việc ngân lên âm tiết ấy trong thực tế chạm tới toàn cõi
vũ trụ, làm tăng thêm sức mạnh nền tảng trong các Upanishad về
sự hiệp nhất của Ðại ngã Brahman và Tiểu ngã Atman của cá nhân
mỗi người. Nó là một biểu tượng tôn giáo cho quan điểm hiệp nhất
thực tại nền tảng, có tính độc thần thuyết.
Atman
Trong khi thực tại tối hậu được gọi là Brahman, thì bản ngã cá
nhân của mỗi người được ngụ ý tới bằng Atman, đôi khi có thể
được dịch là ‘linh hồn’ hoặc ‘tiểu ngã’ hay ‘tự ngã’, một thuật
ngữ dùng để chỉ cái Ngã đích thực và bất tử của con người, theo
quan điểm Ấn Ðộ giáo. Như chúng ta vừa đề cập, và sẽ bàn tới nữa
ở phần sau trong chương này, một trong những ý tưởng chủ chốt
của các Upanishad và của triết hệ Vedanta về sau, là sự hiệp
nhất hay hòa nhập của Atman vào Brahman.
Bất kể sự hữu hạn thể xác của bạn trong thế giới này có liên
quan tới yếu tính thật sự hoặc bản ngã bên trong mình, bạn vẫn
có khả năng dự phần vào thực tại tuyệt đối và đơn nhất là
Brahman. Do đó, ở một cấp độ nào đó, bản ngã được đồng hóa với
cái tuyệt đối.
Atman và đẳng cấp
Tuy thế, ở một cấp độ khác, cái là con người, cả nam lẫn nữ, có
thể được xác định trên một qui mô lớn dựa theo vị trí của nó
trong xã hội. Ðó là đẳng cấp của người ấy — có tính gia truyền
nên gọi là tập cấp,
varna.
Varna
nguyên nghĩa là ‘màu sắc’, có lẽ ban đầu có ý nói tới sự tương
phản giữa những người Aryan xâm lăng có nước da nhạt hơn với sắc
dân bản địa Dravidian có nước da sậm hơn mà họ gặp gỡ. Dưới bốn
varna
đó là những người ở bên ngoài hệ thống đẳng cấp — vô đẳng cấp
(pariah) — và giữ địa vị hạ đẳng trong xã hội. Chúng ta sẽ lại
đề cập chi tiết vấn đề
varna
trong phần nói tới cuộc sống và đạo đức học của người Ấn Ðộ.
Hệ thống đẳng cấp ấy không là hiện tượng xã hội ở bề nổi, nó có
gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm trong triết học Ấn Ðộ. Trong
Rig-Veda, một trong các văn bản thiêng liêng và sớm sủa nhất của
Ấn giáo, đã có giải thích về việc phân chia thần ngã (purusa),
hoặc tính vũ trụ của mỗi người, căn cứ theo từng thành phần của
người ấy mà sản sinh một bộ phận cá biệt của xã hội con người
hoặc của đẳng cấp. Do đó, đẳng cấp được đánh giá là tấm gương
nhân sinh phản chiếu cấu trúc nền tảng của vũ trụ, một cấu trúc
trong đó có những dị biệt cố hữu liên quan tới chức năng và như
thế, hàm ý giá trị.
Một chút ngẫm nghĩ
:
Hệ thống đẳng cấp của người Ấn, khiến cho ta có thể suy đi xét
lại một số vấn đề như:
1. Có phải sự bình đẳng giữa người với người là không tự nhiên?
2. Có phải sự việc người Ấn thừa nhận những dị biệt căn bản
trong xã hội là một kết luận hợp luận lý, xuất từ sự đánh giá
khách quan trật tự tự nhiên?
3. Hoặc khía cạnh ấy của tư tưởng Ấn Ðộ chỉ đơn giản là sự giải
thích duy lý hóa và biện minh hóa về sau, cho những gì đã xảy ra
khi người xâm lăng áp đặt quan điểm của họ lên cư dân bản địa bị
họ dùng làm công cụ?
Atman và Brahman
Tuy thế, khi nhìn cặn kẽ ý tưởng về bản ngã, chúng ta phải cân
nhắc hai điều khác nhau. Một là bản ngã hiện thể trong một thân
xác mà về mặt xã hội, nó được quyết định phần lớn theo tập cấp
của nó. Hai là ‘Atma’, cái bản ngã trong quan hệ với cái toàn
thể, được diễn tả là Brahman.
Các Upanishad lập luận rằng Brahman và Atman trong thực tế chỉ
là một, rằng cái tôi (bản ngã) nền tảng thì có tính cùng dàn
trải với thực tại của vũ trụ. Có cách diễn tả khác, đó là có thể
nói rằng chỉ có một thực tại duy nhất; khi biểu thị về mặt toàn
vũ trụ thì nó là Brahman, nhưng khi biểu thị trong bản ngã mỗi
người thì nó là Atman. Cũng còn một cách diễn tả khác nữa là chỉ
một linh hồn: linh hồn ấy ở cấp độ vũ trụ là Brahman; linh hồn
ấy ở cấp độ cá thể con người là Atman.
‘Hắn [Atman] là bản thân tôi bên trong trái tim, nhỏ bé hơn hạt
gạo hay hạt lúa mạch, hoặc hạt kê: đây là bản thân tôi bên trong
trái tim tôi, lớn lao hơn mặt đất, lớn lao hơn khí quyển, lớn
lao hơn bầu trời, lớn lao hơn hết thảy thế gian này’.
(Chandogya Upanishad, quyển III. 14:3-5)
Câu chuyện minh họa
Kinh Veda kể chuyện chàng thanh niên có tên là Cvetaketu
Aruneya. Sau khi theo sư phụ 12 năm, học xong kinh Veda, tới năm
24 tuổi chàng tự mãn về học thức của mình. Vì thế chàng bị người
cha dạy cho một bài học.
Ðoạn dưới đây, chúng tôi trích theo Nguyễn Ðăng Thục trong sách
đã dẫn, tt. 96-97:
"Cha nó bảo nó:
- Cvetaketu con ơi, con đã tự túc tự mãn với cái biết của con,
kiêu ngạo như thế chẳng hay có bao giờ con tìm hỏi cái biết mà
nhờ đó người ta biết được cái gì người ta chưa học cũng như
người ta đã học rồi, cái gì người ta chưa nghĩ đến cũng như
người ta đã từng nghĩ đến rồi, cái gì người ta chưa hiểu cũng
như người ta đã hiểu rồi không?
- Thế nào vậy, thưa cha, cái học thức ấy như thế nào?
- Con ơi! Thì cũng ví như nhờ biết một hòn đất sét mà người ta
biết tất cả những gì bằng đất sét
[tất cả sự đổi thay chỉ là ngôn ngữ danh từ, thực thể vẫn là đất
sét, ghi thêm của NÐT] cũng như thế con ạ, đấy là cái học
thức ấy vậy.
- Chắc hẳn những bậc sư phụ tôn kính của con không biết cái học
thức ấy. Vì nếu các ngài biết thì các ngài có giấu giếm con làm
chi? Nhưng cha ơi, xin cha hãy dạy cho con.
- Ðược con ạ, con đi kiếm cho cha quả vả ở đằng kia.
- Thưa cha, đây.
- Bửa nó ra.
- Thưa cha, nó đã bửa rồi.
- Con thấy chi ở đấy?
- Thưa cha rất nhiều hạt nhỏ.
- Thì con hãy phân một hạt ra.
- Thưa cha một hạt đã phân rồi.
- Con thấy chi không?
- Thưa cha, không thấy chi hết.
Người cha bèn giải thích:
- Sự thực con ơi, cái thực thể tế vi mà con không tri giác được
chính là cái thực thể tế vi ấy mà cây vả này đã mọc lên được.
Con ơi, con hãy tin rằng cái thực thể tế vi ấy đã tạo thành ra
cả thế giới, toàn thể vũ trụ. Ðấy là thực tại, đấy là ATMAN, Tự
ngã. Chính con là cái ấy (TAT TVAM ASI), hỡi Cvetaketu."
(Chandogya Upanishad, quyển VI, 1:12-13)
Tất cả những gì chàng thanh niên học xong kinh Veda ấy tìm tới
tận cùng tâm điểm của nó là ‘không là gì cả’. Thực tại có tính
trung tâm đó thì vô hình — cái hư không xuất hiện khi các vật cá
thể bị chia thành những phần cấu thành nhỏ nhất của chúng — và
cái đó là con người: ‘TAT TVAM ASI: Chính ngươi là cái đó’.
Con đường triết Ấn
Bản ngã chỉ tọa lạc và xác định về mặt nổi do bởi thể xác. Trên
thực tế, Atman hằng cửu và vô tận trong chiều rộng. Và, không có
sự khác biệt giữa Atman và Brahman.
Các khái niệm về Brahman (Ðại ngã) và Atman (Tiểu ngã) cực kỳ
quan trọng vì dường như đặc điểm chủ yếu của tư tưởng Ấn Ðộ là
cuộc tìm kiếm nhằm hiểu cho được lý do khiến thế giới xuất hiện
đúng như nó đang là nó, bản ngã cá nhân có chỗ nào bên trong thế
giới đó và cách mà bản ngã có thể khắc phục những gì làm nó khổ
não.
Phạm vi của đáp án cho những câu hỏi ấy chạy dài từ tính cách vô
ngã và vô thần chủ nghĩa sang tới cảm giác sự hiệp nhất của cái
tôi Atman với cái tối hậu Brahman rồi qua tới sự giải thoát bằng
tận hiến cho một thượng đế Isvara có nhân cách.
Trong toàn bộ cuộc hành trình ấy, người ta không làm triết học
bằng phương cách lỏng lẻo, rời rạc. Triết học Ấn Ðộ không mang
tính suy tưởng đơn thuần mà là kết liên mật thiết với ý tưởng về
giải thoát — một khi đã am hiểu bản tính chân chính của vạn vật,
con người được giải phóng khỏi ràng buộc của ảo giác, mê lầm.
Sanatana-Dharma
Sanatana là ‘thường trực, vĩnh hằng’. Dharma nghĩa căn bản là
‘trật tự của vạn vật’. Có thể hiểu cụ thể Sanatana-Dharma là
‘trật tự hằng cửu của vạn vật’.
Nó dựa trên khái niệm rằng thế giới này có cấu trúc và ý nghĩa
phi thời gian, và rằng am hiểu điều đó cho phép con người sống
hòa hợp tận nền tảng với sự sống. Ở đây, chữ Dharma còn có ý
nghĩa là ‘thực tại, chân lý’. Nhưng nếu chỉ hiểu Sanatana-Dharma
là thực tại vĩnh hằng thì có thể khiến nó bị giảm hạ thành một
mệnh đề độc lập, khiến ý nghĩa của nó ra hạn hẹp. Hẳn sai lầm
khi ta hiểu nó là chân lý theo ý nghĩa cô đọng của ngôn từ lý
tính; nó là sự chứng nghiệm thật sự thực tại đúng như thực tại.
Hầu hết triết học Ấn Ðộ lập thành sự phân biệt rõ ràng giữa cái
được tri giác với cái thực tại tuyệt đối nằm bên dưới các tri
giác ấy. Nó nhận biết khả năng sai lầm do tri giác của con người
gây ra. Thế giới tri giác của chúng ta được gọi là samsara, một
thế giới tương đối, vô thường, luân hồi, chu kỳ bất tận của sinh
và tử rồi lại sinh Người ta tin rằng bản ngã, bằng cách nào đó,
bị mắc kẹt bên trong thế giới luân hồi và bị quyết định bởi luật
nghiệp báo karma, do đó, nó bị bắt phải chịu đầu thai và
tái sinh bất tận.
Ở đây, cần chú ý rằng Dharma là một từ ngữ rất thông dụng trong
Ấn giáo lẫn Phật giáo. Một cách khái quát, ý nghĩa chính xác của
nó có liên hệ tới ngữ cảnh sử dụng nó. Trong Ấn giáo, Dharma có
nghĩa là chân lý hoặc thực tại hoặc lời giảng hoặc trật tự.
Trong Phật giáo, Dharma là từ ngữ được dùng cho lời giảng dạy
của Ðức Phật, và do đó, là một trong Tam bảo Phật Pháp Tăng mà
Phật tử tìm về nương náu. Nếu được dùng với dạng không viết hoa
‘dharma’ có nghĩa là ‘vật’ hoặc ‘hành chất’, những thành phần
lập thành thế giới hiện hữu, thay cho ý tưởng ‘vật chất’ hay
‘nguyên tử’ của triết học Tây phương. Như thế, có thể nói quá
trình phân tích là để vén lộ các dharma từ cái mà các vật đa hợp
hình thành.
Karma
Karma là một khái niệm ta có thể tìm thấy cả trong tư tưởng Ấn
Ðộ lẫn Phật giáo và Kỳ Na giáo, dù người theo đạo Phật có thể
hiểu karma có hơi khác.
Theo nghĩa đen, karma là ‘hành động’; cũng có thể hiểu là
nghiệp, nghiệp báo, nhân quả, định mệnh.
1. Karma: một hành động thể lý hoặc tâm thần;
2. Karma: hậu quả của một hành động thể lý hoặc tâm thần;
3. Karma: tổng số những hậu quả của hành vi mà một cá
nhân đã làm trong cuộc sống này hoặc cuộc sống trước.
4. Karma: chuỗi nhân quả của thế giới đạo đức.
Như thế, karma là từ ngữ dùng để gọi một quá trình diễn tiến qua
đó người ta tin rằng các hành động chính là các hậu quả dành cho
người đã thể hiện chúng. Những hậu quả ấy không chỉ đơn thuần là
kết quả hiển nhiên và thực tiễn của hành động, mà còn được xem
là có tính tinh thần, tâm linh, trong đó nó ảnh hưởng lên cuộc
hành trình của Atman đi qua thế giới luân hồi.
Người Ấn giáo còn tin rằng các hành động được thể hiện trong một
kiếp sống của một người sẽ ảnh hưởng lên những gì xảy tới cho
người đó ở quá bên kia cái chết, dựa trên cơ sở rằng hậu quả
chưa đủ mức chín muồi từ karma trong các kiếp sống trước sẽ tự
chúng thao tác trong các kiếp tái sinh về sau.
Như được nhận thức một cách đại chúng, sự tuân giữ Dharma (thực
tại, hoặc ‘luật tắc, trật tự hằng cửu’) ngay tại đây và bây giờ
trong kiếp sống hiện tiền này sẽ đưa tới một cuộc tái sinh tốt
đẹp hơn và tránh được những nghiệp báo xấu trong nhiều kiếp về
sau.
Moksa
Kết quả của thực hiện sự đồng nhất của Atman và Brahman là
moksa: giải thoát — được xem là thoát khỏi khổ não và hữu
hạn, hàm ý từ cái nhìn chật hẹp của bản ngã tới sự thức ngộ định
mệnh vĩnh hằng của ta.
Như thế, moksa là giải thoát hẳn, giải thoát khỏi mọi mối ràng
buộc trần thế, khỏi karma và chu kỳ tái sinh, luân hồi
(samsara), nhờ hiệp nhất với Brahman và nhận thức thực tại tối
hậu. Moksa là mục đích cao nhất trong bốn mục đích của đời
người, mà ta sẽ bàn tới ba mục đích kia ở phần sau. Ðối với
người khao khát tâm linh, việc thực hiện moksa là mục đích tồn
tại độc nhất của đời mình.
Tất cả những gì chướng ngại trên con đường thức ngộ là avidya
(vô minh), một trạng thái trong đó người ta không thể phân biệt
tính chất phi thực tại và tương đối của vạn vật — vốn được tri
giác trong phạm vi hữu hạn của thế giới luân hồi — với thực tại
tối hậu.
Khái niệm vô minh được rút ra từ triết học Vedanta, có ý nói tới
sự không biết của cá nhân cũng như của vũ trụ. Ở trình độ cá
nhân, sự ngu dốt, như đã nói ở trên, ngăn cản việc phân biệt
tính thường trực (thường tại) và tính biến đổi (vô thường), hình
thức và hiện thực. Ở trình độ vũ trụ, nó là maya: ảo
giác, ảo hóa.
Trên đây là các khái niệm cơ bản. Ở phần sau của chương này,
chúng ta sẽ xem xét phương cách mà các triết hệ Ấn Ðộ khác nhau
sử dụng để thăm dò.
So với triết Tây
:
Có lẽ cần chú ý rằng mục đích của người theo Ấn giáo là được
thoát khỏi tình huống bắt phải chịu các kiếp sống vô tận. Việc
tiếp tục chuyển qua một kiếp sống khác sau khi chết dù bản thân
ta có thể phấn đấu cải thiện tình huống bằng cách tránh làm ác
nghiệp, thực hiện thiện nghiệp, thế nhưng đó không phải là cứu
cánh tối hậu. Cứu cánh tối hậu là không còn bị đầu thai. Quan
điểm ấy tương phản với hầu hết quan điểm của Tây phương về sự
sống sau khi chết.
Mặt khác, có những điểm tương đồng căn bản giữa sự tương phản về
thực tại tối hậu với kinh nghiệm trần thế, và cách riêng, quan
điểm của Plato về vai trò của triết gia. Ðối với Plato, hầu hết
người ta là tù nhân bị trói chặt và giam giữ ở cuối hang sâu. Họ
chỉ nhìn thấy những phản ánh của các vật được ánh lửa sau lưng
họ phóng chiếu lên bức vách trước mặt họ, mà Plato gọi là những
chiếc bóng. Triết gia là kẻ nỗ lực thành tựu tự do và thấy rõ tự
thân thực tại ở quá bên kia những hình bóng ấy.
Hầu hết tư tưởng Ðông phương cũng có lược đồ giống y như thế —
để thấy thực tại vô phân biệt, tương phản với dòng chảy đầy tục
lụy, biến đổi bất tận và rất bất toại của các biến cố.
3
Kinh sách và văn học
Kinh Veda
Khi người Aryan vào đất Ấn, phần kinh Veda được họ mang theo chỉ
là những câu thơ theo truyền thống thi ca ở Ba Tư. Tới khoảng
năm 1.200, một số nhóm tư tế Aryan mới phối hợp với các nghi
thức và kinh lễ bản địa, san định để ghi nhớ và sử dụng trong
các cuộc cúng tế. Tới năm 800 TCN, những tụng thi ấy được gom
thành bốn cuốn kinh mà ngày nay được biết tới là các kinh Veda.
Danh xưng ấy còn được phiên âm là Vệ Ðà hay Phệ Ðà. Như thế,
Veda chứa đựng sự gặp gỡ một số văn hiến ở Tây Bắc Ấn Ðộ. Văn tự
được dùng để ghi thành kinh là sanskrit, một ngôn ngữ thuộc nhóm
Ấn Âu.
Kinh Veda được xem là kinh thánh của Ấn giáo, dùng làm căn bản
định chuẩn, tựa viên đá thử vàng, cho triết học Ấn Ðộ. Những gì
phù hợp với kinh ấy thì được đánh giá là chính thống, và không
phù hợp thì bị cho là phi chính thống. Chữ Veda có nghĩa là
‘biết’, ‘minh triết’. Người Trung Hoa dịch là Minh luận. Các
cuốn kinh Veda gồm khoảng 10.000 câu thơ xuôi. Tuy không được
sắp xếp phân minh, nhưng kinh Veda, ngoài giá trị sách thiêng
liêng, còn là đại tác phẩm tiêu biểu cho một nền văn học.
Bốn bộ kinh Veda gồm:
I. Rig Veda. Tán tụng minh luận. Cuốn quan trọng nhất,
cung cấp hầu hết những giảng huấn cốt tủy. Nó là bộ xưa nhất
trong bốn bộ — kết tập khoảng năm 1.200 TCN.
II. Sama Veda. Ca vịnh minh luận. Bao gồm các giai điệu
và các thánh ca.
III. Yajur Veda. Tế tự minh luận. Cung cấp những chi tiết
cần thiết khi thực hiện các lễ tế.
IV. Arthava Veda. Nhương tai minh luận. Bao gồm có các
thần chú và bùa chú. Ðây có thể là những sản phẩm gốc bản địa,
có từ trước khi người Aryan xâm lăng.
Mỗi bộ kinh Veda lại được chia làm 4 phần:
1. Mantra tức thánh ca.
2. Brahmana. Phạn chí. Gồm những bài kinh cầu, thần chú,
các nghi lễ dành cho giới tư tế. Có lẽ được kết tập từ năm 800
tới 600 TCN.
3. Aranyaka. Các bài dành cho các tu sĩ khổ hạnh. Thời
điểm có lẽ từ năm 600 TCN.
4. Upanishad. Áo nghĩa thư. Các bài thuyết pháp, giải
thích triết lý dành cho các nhà tư tưởng. Thời điểm có lẽ từ năm
600 tới 300 TCN.
Bài ca Sáng tạo
Ðể thưởng thức đôi chút hương vị của kinh Veda, chúng tôi mời
bạn đọc một bài thơ trong Rig- Veda — qua bản dịch chân chất của
Nguyễn Hiến Lê— mà Will Durant cho rằng ‘Bài thơ hay nhất là bài
Thánh ca về sự sáng tạo vũ trụ, thật lạ lùng, chúng ta thấy một
thuyết phiếm thần tế nhị và cả một giọng hoài nghi rất tôn kính
trong bộ Thánh kinh cổ nhất của dân tộc mộ đạo nhất đó:
Buổi đó, hoàn toàn chẳng có gì cả, mặt trời rực rỡ kia không có,
Mà vòm trời là cái khăn phủ mênh mang kia, cũng không có.
Vậy thì cái gì trùm lên, che phủ, chứa chất vạn vật?
Phải chăng là vực nước sâu thẳm?
Thời đó không có chết — vậy mà không có gì là bất tử,
Không phân biệt ngày và đêm,
Cái Nhất, cái Ðộc Nhất, không có hơi mà tự thở lấy được.
Ngoài Cái đó ra không có cái gì khác nữa.
Tối tăm, và hồi đầu cái gì cũng chìm trong cảnh tối tăm mù mịt —
như biển cả không ánh sáng — Cái mầm khuất trong cái vỏ
Bỗng nẩy ra, duy nhất, dưới sức nóng nung nấu.
Thế là lần đầu tiên, lòng thương yêu xuất hiện, nó là dòng suối
mới
Của tinh thần, các thi sĩ suy tư và thấy được trong lòng mình
Mối liên lạc giữa cái không được tạo ra với những vật được tạo
ra.
Tia sáng đó chiếu ra, xâm chiếm hết, nó phát xuất từ trời hay từ
đất?
Giống đã gieo và người ta thấy các năng lực cao cả xuất hiện
Ở dưới thấp là thiên nhiên, ở trên cao là quyền năng và ý lực.
Ai là người vén được màn bí mật?
Ai là người cho ta biết
Sự sáng tạo muôn vật đó từ đâu mà có?
Chính các thần linh cũng chỉ xuất hiện sau này.
Vậy thì ai là người biết được sự sáng tạo mầu nhiệm đó từ đâu mà
có?
Ðấng nào đã gây ra sự sáng tạo đẹp đẽ đó.
Là do vô tình hay hữu ý?
Ðấng Tối Cao trên tầng trời cao nhất kia
Biết được — nhưng biết đâu chừng, có thể chính Ngài cũng không
biết nốt."
(Lịch sử văn minh Ấn Ðộ,
NXB Văn Hóa, năm 1996, tt 58- 59)
Veda, đền thờ thần linh
Các kinh Veda dẫn nhập vào một đền thờ các thần linh Ấn Ðộ. Theo
Will Durant trong sách đã dẫn thì các vị thần đầu tiên trong các
kinh Veda là sức mạnh thiên nhiên: trời, mặt trời, đất, lửa, ánh
sáng, gió, nước và sinh thực khí.
Thần Dyaus (tức như thần Zeus của Hi Lạp và thần Jupiter của La
Mã), mới đầu chính là ba tầng trời, và tiếng sanskrit, deva
(nguồn gốc của tiếng Anh divine: thiêng liêng) ban đầu chỉ có
nghĩa là rực rỡ. Rồi người ta nhân cách hóa những cái đó cho có
thi vị mà tạo ra vô số thần: chẳng hạn trời thành cha, Varuna;
đất thành mẹ, Prthivi; trời đất giao hoan với nhau sinh ra mây
mưa, nhờ mây mưa mà có thảo mộc. Chính mưa cũng là một vị thần,
Parjanya. Agni là thần lửa. Vayu là thần gió. Rudid là thần gió
độc gây ra các bệnh dịch . Indra là thần dông tố. Ushas là thần
rạng động. Sita là thần luống cày. Suria, Mithra hoặc Visnu đều
là thần mặt trời. Soma là thần rượu, v.v.
Tầm quan trọng của các vị thần thay đổi theo thời gian. Dường
như vai trò của mưa trong nông nghiệp biến Indra thành vị thần
quan trọng nhất, căn cứ vào số lượng tụng ca hát dâng lên thần
ấy. Agni không kém phần quan trọng vì là ngọn lửa tế lễ và vũ
trụ ấm áp. Soma cũng thế, vì biểu hiệu cho rượu chè say sưa
trong các nghi lễ cúng tế.
Như thế, trong các kinh Veda, những ý tưởng có tính vũ trụ và
thế giới của các thần linh được thể hiện theo khía cạnh huyền
thoại chứ không mang tính triết học. Nguồn gốc của thế giới được
xem như một quả trứng, nổi bồng bềnh trên biển cả hỗn độn, hoặc
bằng một hình ảnh nổi tiếng nhất như trong lễ tế thần ngã vũ trụ
(purusa).
Chuyển dịch cuối thời Veda
Tới cuối thời kỳ Veda, theo nội dung của cuốn Arthava-Veda
thì dường như xuất hiện tình trạng không mãn nguyện với các hình
thức huyền thoại, từ đó chuyển tới việc nói tới asat (phi
hữu thể hoặc phi thực) và sat (hữu thể hoặc có thực),
trong đó, con người tâm linh chuyển dịch mục đích từ asat
tới sat.
Thuật ngữ asat chỉ toàn bộ lãnh vực ‘không thể biết
được’, những gì nằm bên ngoài hữu thể, không thể hiểu được bằng
ngôn từ và tư tưởng, và vượt ra khỏi mọi định nghĩa. Về sau, đó
là cái ‘Tuyệt đối không’ mang tính phi nhị nguyên Vedanta. Ngược
lại, sat là thực thể tuyệt đối, vĩnh cửu và thường hằng,
đồng nhất với Brahman.
Chúng ta thấy có sự chuyển dịch trong các Brahmana (Phạn chí),
từ cúng tế như một phương tiện bảo đảm hành động của thần linh
sang tới tập trung vào chi tiết của chính lễ tế. Nghi lễ bắt đầu
được xem là hiện thân của vũ trụ và duy trì vũ trụ, biểu hiện
cho tự thân thực tại, và thực tại tuyệt đối đó chính là Brahman.
Trọng tâm ấy khiến người cử hành nghi lễ — giới tư tế Bà la môn
— và các chi tiết tế lễ trở thành cực kỳ quan trọng. Các bài ca
khổ hạnh Aranyaka ngày càng được đưa thêm vào các Brahmana, và
như thế, thừa nhận rằng có thể lấy nghi thức tinh thần qua trầm
tư mặc tưởng thay cho các lễ tế thật sự. Do đó, có sự triển khai
tới các Upanishad, nghĩa là chuyển dịch từ việc cử hành lễ tế
tới lãnh vực suy tưởng siêu hình và trừu tượng.
Có thể diễn tả một cách giản dị quá trình ấy một cách khác. Rằng
có sự chuyển dịch từ sự sử dụng ‘ma thuật’ của lễ tế để ảnh
hưởng lên các sức mạnh thiêng liêng qua việc cử hành lễ tế như
một hành động phô diễn bản tính của thực tại cùng với ý tưởng
cho rằng có thể thể hiện lễ tế một cách tinh thần, hướng tới ý
tưởng vũ trụ có thể được am hiểu một cách lý tính và triết học.
Thử đặt hai câu hỏi
Trong các kinh Veda, việc tế lễ đúng nghi thức được xem là hành
động giữ cho vũ trụ liền lạc nhau và cho nó một hình thức cấu
trúc chặt chẽ. Hành động phát xuất từ nghi lễ cũng là một phương
cách cung cấp ý nghĩa. Những gì diễn ra ở đó rõ ràng mang tính
cách thừa nhận rằng con người có nhu cầu định hướng, một phương
cách cho rằng bản ngã cá nhân có liên quan tới cái toàn bộ. Lễ
tế của tư tế Bà la môn giữ cho thế giới liền lạc nhau, vì không
có cái nhìn thiêng liêng và riêng tư thì thực tại không thể
chuyển dịch từ bất định và hỗn độn thành một vũ trụ ngăn nắp và
trật tự.
Như đã đề cập ở đoạn trên, chúng ta thấy dần dần có nhượng bộ sự
suy tưởng trừu tượng hơn, nghĩa là nhường lối cho sự tiếp cận có
tính ‘triết học’ hơn. Nhưng có lẽ ngang đây chúng ta cũng nên
dừng lại đôi chút, để thử nêu lên hai câu hỏi quan trọng. Lý do
vì một trong những sức mạnh của nghi lễ là làm cho chúng ta có
khả năng dự phần đầy xúc động, và những ngôn từ cùng cử chỉ
trong khi tế lễ cuốn hút, làm mải mê cả tâm trí vô thức lẫn tâm
trí ý thức. Vậy thì:
1. Trong hai phương cách, một là suy lý trừu tượng có tính triết
lý, hai là cử chỉ điệu bộ hành lễ và sự tham dự vào nghi lễ,
phương cách nào khiến cho con người có khả năng nắm bắt tốt nhất
cảm giác về ý nghĩa và cứu cánh?
2. Bằng chỉ một mình lý trí mà thôi, liệu chúng ta có thể nắm
bắt được chân lý tối hậu không?
Chúng ta sẽ phải xem xét cả hai câu hỏi ấy trong các chương nói
tới Mật Tông và Thiền Tông.
Các Upanishad
‘Upanishad’ — thường được dịch là Áo nghĩa thư: cuốn sách chan
chứa những ý nghĩa uyên thâm — có lẽ có nguồn gốc từ ba chữ
‘upa-ni-shad’, nghĩa là ‘ngồi gần’ hoặc ‘ngồi dưới chân thầy’.
Cụm từ Upanishad có ý nói tới những lời của một tôn sư giảng cho
đệ tử ngồi gần ông nhất. Nói cách khác, sách dành cho đối tượng
là kẻ được khai tâm điểm đạo hơn cho đại chúng.
Các Upanishad chính gồm 13 bộ nhưng thường người ta chỉ nói tới
mười bộ, gọi là thập kinh. Ba vấn đề triết học căn bản trong đó
là:
1. Advaita: Phi nhị nguyên. Linh hồn cá nhân, hay tiểu
ngã atman đồng nhất với linh hồn vũ trụ, hay đại ngã Brahman.
2. Samsara: Luân hồi. Linh hồn bị giam hãm trong chu kỳ
tử sinh đầy khổ não và bất tận.
3. Moksa: Giải thoát. Linh hồn được thoát ra khỏi cõi hữu
hạn bằng ý thức đồng nhất tính của nó với đại vũ trụ. Trong
trạng thái hiệp nhất ấy, con người không còn khổ não.
Trong khi các Upanishads sớm sủa nhất đi cùng một kiểu cách với
các Brahmana, thì theo với thời gian, càng về sau các Upanishad
càng ít phản ánh văn chương Veda trước đó, và đồng thời, sức
mạnh thiêng liêng của lễ tế cũng càng lúc càng được xem như là
sức mạnh nằm bên trong và ở đằng sau toàn thể vũ trụ.
Trong Chandogya Upanishad (5:3-10) chúng ta có ý tưởng về
sự tái sinh bị tùy thuộc vào các hành động (karma), và sự mô tả
atman như một bản ngã cá thể tách biệt. Chandogya Upanishad
cũng bao gồm câu chuyện về chàng thanh niên Cvetaketu vâng lời
cha bửa hạt vả ra để thấy tận tâm điểm là ‘không có gì’, và đó
chính là TAT TVAM ASI.
Trọng điểm của các Upanishad
Như thế, ta có thể cho rằng các Upanishad trình bày những lời
giảng có trước chúng bằng hình thức triết học mang tính nhất
nguyên luận. Nói cách khác, chúng lập luận rằng có một thực tại
duy nhất mà mọi sự tùy thuộc vào nó.
Vẻ ngoài của trạng thái tách biệt riêng rẻ — thí dụ giữa bản ngã
cá thể: atman, và thực tại tối hậu: Brahman — chỉ đơn thuần là
ảo giác; chân lý tối hậu là: chúng là một và chỉ một thôi.
Tuy nhiên, những am hiểu hôm nay của chúng ta về các Upanishads
có lẽ bị ảnh hưởng của lối trình bày chúng, mang tính triết học
về sau, đặc biệt của triết gia Sankara Carya, người khởi xướng
triết hệ Vedanta (xem phần các triết hệ).
Các sử thi
Tư tưởng Ấn Ðộ lập thành sự phân biệt giữa những cái được biết
tới như là lắng nghe (shruti), vốn áp dụng cho các kinh Veda với
hàm ý chúng là chân lý vĩnh hằng, và những cái được biết tới như
là ghi nhớ (smriti), vốn có thể sử dụng loại hình văn chương
nhưng không có địa vị chân lý vĩnh hằng ấy. Trong số các tác
phẩm văn chương thuộc những cái ‘ghi nhớ’ có hai đại tác phẩm sử
thi. Ðó là Ramayana và Mahabharata.
1/ Ramayana:
Tên của tác phẩm ấy có nghĩa là ‘cuộc đời của Rama’. Ðây là
trường ca sử thi đầu tiên trong văn học sanskrit, được coi là do
thánh nhân truyền thuyết Vamiki viết. Hình thức xưa nhất và
thuần túy nhất của nó có gốc ở Bắc Ấn (thế kỷ 4 TCN) rồi qua
nhiều thế kỷ, được sửa chữa nhiều lần ở Bengali.
Ramayana gồm 24 ngàn câu thơ đôi, chia thành bảy quyển (Kanda),
mô tả cuộc đời gian truân của hoàng tử Rama và vợ là công nương
Sita với sự bảo hộ của thần khỉ Hanuman; việc Ravana cưới Sita,
cuộc chiến tranh chống lại quỉ sứ, sự trở về kinh đô Ayodhya, và
cuối cùng cái chết và lên trời của Rama. Nhiều chuyện phiêu lưu
mô tả rất sinh động và rộng lớn trong Ramayana cũng như nội dung
phi thường của nó đã làm tác phẩm này, cùng với Mahabharata trở
thành nguồn cảm hứng chính cho văn học Ấn Ðộ.
Cho tới ngày nay, tuy không là một tác phẩm có tính triết học,
Ramayana vẫn được tôn sùng ở Ấn Ðộ và một số nước Ðông Nam Á.
Thần khỉ Hanuman thành thần hộ gia. Tại Việt
Nam, có ít nhất hai bản dịch tóm lược tác phẩm này, hai vở
chuyển thể thoại kịch và cải lương. Hình tượng Hanuman thường
thấy trên vách các chùa chiền Phật giáo Khmer ở nam bộ. Trong
một câu thơ nhập đề của Ramanaya, người ta đọc thấy: ‘Kẻ nào đọc
và lặp lại sách thánh Ramayana, nguồn gốc sự sống, sẽ được giải
thoát khỏi tội lỗi và được lên trời’.
2/ Mahabharata:
Mahabharata chứa đựng nhiều thứ, trong đó có tác phẩm triết học
Bhagavad Gita, với thời điểm sáng tác có lẽ vào thế kỷ 2
TCN hoặc sau đó một chút. Ðây là tác phẩm nổi tiếng nhất trong
đại chúng so với mọi tác phẩm văn chương của Ấn Ðộ. Nó đánh dấu
bước chuyển đổi quan trọng trong quá trình phát triển tư tưởng
triết học Ấn Ðộ.
Mahabharata gồm 106.000 câu thơ, chia ra thành 18 tập (parva).
Người ta thường xem triết gia thần bí Vyasa là tác giả của nó,
nhưng thật ra có nhiều ngưới biên tập và chữ vyasa theo tiếng
sanskrit chỉ có nghĩa là người xếp loại. Sách tập hợp một phần
lớn gia tài ngụ ngôn, cổ tích và truyện huyền thoại của Ấn Ðộ.
Chủ đề chính của Mahabharata là cuộc chiến tranh giữa hai họ
Bharata thân thuộc nhau, trong đó họ Kauvara hung ác và họ
Pandava đức độ; đối tượng tranh chấp là vương quốc do vua mù
Dhritarashtra chia cho. Phần triết học chính của tác phẩm (tập
sáu) là Bhagavad-Gita, sưu tập những lời khuyên của thần
Krishna, một hiện thân của Visnu và là người hóa thân làm kẻ
đánh xe ngựa cho hoàng tử Arjuna trước khi ông hoàng này ra
chiến trường bắt đầu trận đánh kéo dài 18 ngày. Trong các lời
khuyên ấy,
Krishna
giải thích rằng bản ngã atman thì bất hoại và hằng cửu. Do đó,
Arjuna không sắp giết bản ngã chân chính mà chỉ là giết thể xác,
cái tựa như vỏ bọc ở bên ngoài.
Gita
— tiếng thường dùng để gọi tắt Bhagavad Gita — cống hiến
một tổng hợp nhiều lời giảng dạy đương thời của Ấn giáo trong
khung khổ tổng thể niềm tin vào Thượng đế. Krishna tuyên bố rằng
mọi hành động nếu thực hiện với động cơ vô ngã đều trở thành lễ
tế, và rằng không thể nào rút lui khỏi thế giới này để chỉ đi
theo thiên hướng tâm linh, cách tốt hơn vẫn là trụ lại mà hành
động với cung cách vô ngã. Nói cách khác, nghiệp của ta tùy
thuộc vào tính chính đáng của động cơ thúc đẩy.
Quan điểm ấy trở thành phương cách thứ nhất trong ba phương cách
đạt tới giải thoát, đó là phương cách hành động (karmamarga). Nó
được tiếp theo bởi phương cách tri thức (jnanamarga), và cuối
cùng, phương cách tận hiến (bhaktimarga). Ở đây, quá trình
chuyển dịch của Ấn giáo có thể được diễn tả khái quát thành ba
nhịp chuyển:
a. Tới quá bên kia nhu cầu tế lễ được đề cập tới trong các kinh
Veda thời sớm sủa nhất
b. để đi tới phương cách tri thức và sự hiệp nhất đầy bí nhiệm
do các Upanishads cống hiến,
c. và rồi đi nữa, tới điểm thành tựu giải thoát qua sự hiến thân
cho đấng thần linh tối cao là Thượng đế.
Sau thời Gita, ta tới thời kỳ Ấn giáo cổ điển, được tiêu biểu
bằng các trường phái triết học vĩ đại. Nhưng điểm cần để ý trước
khi đi vào các triết hệ ấy là chúng không hoàn toàn mới mẻ;
chúng có nguồn gốc từ nội hàm của những lời giảng dạy trước đó.
4
Các trường phái triết học chính
thống
Có thể chia triết học Ấn Ðộ thành các trường phái khác nhau.
Việc chấp nhận thẩm quyền của các kinh Veda và lấy đó làm định
chuẩn là hai yếu tố xác nhận tính chính thống (astika) của một
trường phái; ngược lại, nếu không chấp nhận thì bị xem là phi
chính thống (nastika). Bị xếp vào loại thứ hai có truyền thống
Phật giáo và Kỳ Na giáo.
Trong các trường phái chính thống, có sáu triết hệ. Chúng ta sẽ
lần lượt xem xét ban đầu là một cặp, sau đó lần lượt từng cái đi
liền nhau trong bốn triết hệ còn lại.
I. Nyaya và Vaisesika
Hai triết hệ này được xem xét sóng đôi vì tuy ban đầu, vào
khoảng thế kỷ 4 TCN, chúng độc lập với nhau, nhưng về sau cả hai
hiệp cùng nhau. Nói chung, công lao hiệp nhất ấy thuộc về
Gangesa, một nhà hiền triết sống khoảng thế kỷ 12 SCN. Từ đó, cả
hai làm thành một hệ thống triết học duy nhất.
Nyaya,
nhân minh luận, có nghĩa là luận lý học, con đường đưa tới kết
luận, với tác phẩm nổi tiếng nhất là Nyaya-sutra. tác giả
tương truyền là một người trong dòng họ Gautama; có người bảo
sống khoảng thế kỷ thứ ba TCN, có người lại bảo thuộc thế kỷ thứ
nhất SCN.
Triết hệ Nyaya quan tâm tới tri thức luận (epistemology). Nói
cách khác, nó nêu vấn nạn làm thế nào chúng ta biết được rằng
cái gì đó là đúng, là chắc chắn. Như thế, thí dụ, nó lập luận
rằng chúng ta có bốn nguồn chân xác của tri thức: tri giác, suy
ra, chứng cớ, và đối chiếu. Dựa trên bốn nguồn đó, Nyaya sắp xếp
một cách có hệ thống để quyết định rằng chúng ta có thể biết cái
gì.
Nòng cốt luận lý của triết hệ này là ngũ đoạn luận, chứ không
tam đoạn luận như của Aristotle. Ngũ đoạn luận của Nyaya gồm:
định lý, lý đo, đại tiền đề, tiểu tiền đề, và kết luận. Thí dụ:
1. Socrates phải chết;
2. Vì ông ấy là người;
3. Người nào cũng phải chết;
4. Mà Socrates là người;
5. Vậy thì ông phải chết.
Vaisesika,
thắng luận, cũng còn được gọi là vệ thế sự luận, nghĩa là ‘cá
biệt hoặc đặc thù’. Tương truyền phái này do Kanada đề xướng.
Danh xưng ấy có nghĩa là ‘người ăn nguyên tử’ nên người ta ngờ
rằng đó chỉ là một nhân vật hoang đường.
Triết hệ Vaisesika quan tâm tới siêu hình học. Nói cách khác, nó
muốn biết cấu trúc nằm bên dưới và thực tại của kinh nghiệm con
người. Nó tiến hành quá trình thăm dò, bắt đầu từ các hành chất
(substance) căn bản của đất, nước, lửa và không khí, cùng các
phẩm tính đặc thù của vị giác, màu sắc, sờ và ngửi.
Vaisesika lập luận rằng có thể phân chia mọi sự ra những thành
phần nhỏ rồi nhỏ hơn nữa, và rốt cuộc ta tới cái gì đó mà về mặt
lý thuyết, không thể phân chia nữa. Cai đó nó gọi là paramanu
— có thể tạm gọi là nguyên tử. Do đó, mọi sự là những hợp thành
của các paramanu.
Triết hệ này lấy kinh nghiệm làm khởi điểm của tri thức: mọi cái
chúng ta có thể biết đều thông qua các giác quan. Bất cứ cái gì
ta trải nghiệm đều có thể phân chia thành phạm trù (padartha),
là cái mà sự hiện hữu của nó có thể được biết tới và được nối
kết với nhau. Tất cả có bảy thứ: bản thể hoặc hành chất, phẩm
tính, hành động, đặc tính theo loại, đặc tính theo cá thể, tính
chất không thể phân chia; và phi hiện hữu. Những đặc tính và
những quan hệ ấy đều có thật, thật không kém bản thể của cái phô
bày chúng. Chúng là toàn bộ thành phần của các hiện tương trong
thế giới như chúng ta trải nghiệm nó.
So với triết Tây:
Triết thuyết Nyaya-Vaisesika có những điểm tương đồng thú vị với
chủ nghĩa duy nghiệm của triết học Tây phương. Ðiểm cần để ý là
nó đưa ra giả định căn bản rằng có ba điểm đi liền nhau — cái là
thật cũng là cái có thể biết tới và cũng là cái có thể diễn tả —
với hàm ý rằng cái không được biết tới tức là cái không thể có
thật.
Ở đây, có những điểm tương đồng với lối tiếp cận mang tính thực
chứng luận lý chủ nghĩa (logical positivism). Và hẳn không kém
phần thú vị khi thăm dò những điểm tương đồng của triết hệ này
với cuốn Tractatus của Wittgenstein (xem Ðại cương
Triết học Tây phương trong cùng một tủ sách triết học này).
Có những điểm tương đồng giữa Vaisesika với ‘thuyết nguyên tử’
Tây phương, phát xuất từ ‘các nhà nguyên tử’ Leucippus và
Democrtus thời Hi Lạp cổ đại vào thế kỷ 5 TCN, qua quan điểm của
David Hume, triết gia Anh thế kỷ 18, rằng thế giới gồm có các
nguyên tử của kinh nghiệm, rồi tới ‘thuyết nguyên tử luận lý’
của Bertrand Russell khoảng năm 1918, trong đó ông xem toàn bộ
thế giới được làm thành bởi các nguyên tử luận lý, mỗi cái biểu
hiện cho thuộc tính của một loại nào đó.
Ngoài ra, các paramanu của Vaisesika cũng làm ta liên
tưởng tới các đơn tử (monads) của Leibniz.
Phẩm tính cố hữu
Triết hệ Nyaya-Vaisesika xem phẩm tính, vốn cố hữu trong một số
lượng các vật cá thể, là thực tại trong chính nó. Do đó, có phẩm
tính ‘cây’ cố hữu bên trong và làm các vật cá thể trở thành cái
cây. Phẩm tính ấy có thể bị phân chia và có thể cùng cố hữu với
các phẩm tính khác trong một vật cá thể — nói cho cùng, cái cây
sau thời gian một năm thích đáng, cũng có phẩm tính ‘lục’ —
nhưng mỗi phẩm tính bảo lưu thực tại riêng biệt của chính nó.
So với triết Tây:
Ở đây có những tương đồng với ý tưởng của Plato về các ‘hình
thái’ (forms). Ðối với Plato, ‘hình thái’ — thí dụ, của ‘cái
thiện’ — có một thực tại lớn lao hơn các hành động thiện của cá
nhân, một thực tại mà các hành động cá nhân ấy tham dự vào trong
chừng mực chúng có thể được gọi là ‘thiện’. Chúng ta biết một
cách trực giác hình thái ấy, và do đó, chúng ta có thể nhận dạng
nó trong các sự vật riêng biệt mà chúng ta bắt gặp.
Lối tiếp cận ngược lại có thể là dùng quan điểm duy danh chủ
nghĩa (nominalism), cho rằng ‘thiện’ không có bất cứ thực tại
độc lập nào; nó vỏn vẹn chỉ là tên gọi mà chúng ta đưa ra để cho
thấy một số lượng các hành động được qui cho một phẩm tính
chung.
Ðối với tư tưởng Ðông phương và Tây phương. chủ đề lớn lao cả
hai đều phải thăm dò là có hiện hữu hay không những cái phổ
quát. Có phải chúng chỉ thuộc phần của ngôn ngữ và là phương
cách được trí não chúng ta sử dụng để tổ chức kinh nghiệm của nó
về thế giới, hoặc chúng thật sự hiện hữu ‘ở ngoài ấy’?
Nan đề của Nyaya-Vaisesika
Nếu toàn bộ tri thức chỉ đến với chúng ta qua kinh nghiệm thì
với lối tiếp cận đó, triết hệ Nyaya-Vaisesika hiểu thế nào về
thực chất của bản ngã atman? Thể xác, tâm trí và các giác quan,
hết thảy những cái đó đều tùy thuộc vào atman, cái là nguyên lý
làm sinh động chúng. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể biết bản
ngã trong liên quan tới atman của chính bản thân ta hoặc của
người khác?
Không thể đồng hóa atman với thể xác, vì atman vẫn tồn tại y như
cũ trong khi thể xác bị biến đổi, nghĩa là bạn người lớn rất
khác với lúc bạn trẻ con. Cũng không thể đồng hóa atman với các
kinh nghiệm của con người, vì các kinh nghiệm đều liên tục biến
đổi. Thế thì, chúng ta đi tới chỗ chống lại với bất cứ triết
thuyết duy nghiệm nào trong vấn đề thông dụng ấy. Ðó là, bạn
liên quan ra sao với những gì bạn biết nhưng không thể đồng hóa
với bất cứ cái nào trong những cái được trải nghiệm bằng giác
quan?
Trực nhận bản ngã
Theo triết hệ Nyaya-Vaisesika, bạn biết bản ngã của bạn bằng
trực nhận: nhận biết một cách trực tiếp. Nó là cái ‘Tôi’ thuộc
về kinh nghiệm của tôi. Tuy thế, đối với bản ngã của những người
khác, chúng chỉ có thể được biết tới bằng sự suy ra từ kinh
nghiệm của bạn về chúng. Bạn có thể nhìn các thể xác và các hành
động của chúng, và từ những cái đó, bạn suy ra rằng chúng là
những ‘bản ngã’ cùng chung một loại với cái được bạn trực tiếp
trải nghiệm là bản ngã của chính bạn.
Bản ngã không thể đồng hóa với thể xác, tâm trí hoặc cảm giác,
nhưng trong trường hợp bản thân tôi, nó được biết tới một cách
trực tiếp, và trong trường hợp của người khác, nó được biết tới
qua sự suy ra, như là ‘Tôi’ hoặc ‘Bạn’, vốn liên tục tồn tại
trong khi mọi cái khác đều đang biến đổi.
Như thế, có thể trình bày quan điểm mang tính Nyaya-Vaisesika ấy
bằng một luận cứ của triết học Tây phương về bản ngã, xuất phát
từ quan điểm duy nghiệm chủ nghĩa. Nhưng ở đây, nó được cung cấp
bằng cách nhìn vấn đề rất cá biệt Ấn Ðộ, ở đó bản ngã tồn tại
hằng cửu trong khi thể xác bị vứt bỏ sau khi chết, và một thể
xác khác sẽ đảm trách diễn tiến luân hồi. Như thế, ta không thể
giải thích các đặc tính và thói quen riêng tư cá nhân trong liên
quan đơn lẻ tới những trải nghiệm trong một kiếp sống, mà còn có
thể qui chúng cho những trải nghiệm trong các tiền kiếp khác
nữa.
Phật giáo: không có atman như thế
Từ các hiện tượng quan sát giống y như thế, triết học Phật giáo
đi tới kết luận rất khác. Phật giáo lập luận rằng không có atman
cố định. Vì không thể tìm thấy bằng chứng thực nghiệm nào để
quyết định giữa hai lập trường khác nhau ấy, người ta buộc phải
hạ giảm thành nhận thức riêng tư cá nhân.
Triết hệ Nyaya-Vaisesika chỉ tới sự trải nghiệm cái ‘tôi’ thường
tại, đang tồn lưu qua hết thảy những biến đổi của kiếp người;
người Phật giáo xem cái đó là ảo giác. Ðối với Phật giáo, cái
‘tôi’ không hơn gì một cách thức qui ước dùng để diễn tả bản
thân bạn. Không có cái ‘ta’ vượt quá và ở bên trên những gì ta
suy nghĩ, cảm thấy, nói và làm, không có atman ẩn mật và bất
biến đằng sau những hoạt cảnh ấy.
Ðại ngã và Thượng đế
Khi xét tới Ðại ngã, mà chúng ta đang có ý nói tới bằng thuật
ngữ ‘Thượng đế’ của Tây phương, vì ở đây, nó có điểm tương đồng
hơn các triết thuyết Ấn Ðộ khác. Triết thuyết Nyaya-Vaisesika có
một luận cứ dựa trên các hậu quả và các tác nhân. Có thể trình
bày luận cứ ấy theo hình thức giản dị nhất như sau:
a. Mỗi hậu quả có một tác nhân;
b. Thế giới là một hậu quả;
c. Do đó thế giới phải được sản sinh bởi một tác nhân, và
d. Danh xưng được đặt cho tác nhân ấy là Thượng đế
Kế đó nó tiếp tục trình bày Thượng đế ấy vừa toàn năng vừa toàn
trí.
Luận cứ đó gây ra vài vấn đề, cho dù nhìn từ quan điểm của
Nyaya-Vasesika. Thứ nhất, không thể chứng minh một cách thực
nghiệm giả thuyết rằng mỗi hậu quả có một tác nhân. Thứ hai, có
một số cái, thí dụ atman, được cho là có tính hằng cửu. Thế thì
cái là hằng cửu thì không là hậu quả, vì không có thời gian khi
nó không hiện hữu, và do đó, nó không cần phải được đưa vào mới
hiện hữu. Ðiều ấy hàm ý rằng các bản ngã cá nhân không là đối
tượng của hành động tạo dựng của Ðại ngã, và như thế, dường như
nó khiến cho Thượng đế không thật sự hoàn toàn là toàn năng và
toàn trí.
So với triết Tây:
Thomas Aquinas cũng biện minh cho sự hiện hữu của Thượng đế bằng
các luận cứ truyền thống mang tính vũ trụ luận. Ông đưa ra ‘Năm
con đường’ chứng minh, tương đương với luận cứ của triết hệ
Nyaya-Vaisesika ở đây.
Thêm một luận cứ nữa
:
Tới thế kỷ 10 SCN, triết gia Udayana tìm thấy trong Nyaya
Kusamanjali một luận cứ khác về sự hiện hữu của Thượng đế.
Nó phát biểu giản dị rằng:
a. Người ta dùng từ ngữ ‘Thượng đế’, thế thì từ ngữ ấy có ý
nghĩa.
b. Từ ngữ ấy phải ngụ ý cái gì đó, vì ý nghĩa được cung cấp
trong liên quan tới cái được từ ngữ nói tới.
c. Do đó, Thượng đế hiện hữu.
Có hai cách hiểu luận cứ ấy. Thứ nhất, theo lối suy nghĩ đại
chúng rằng ‘phải có người ta mới nói’ theo kiểu ‘không có lửa
lấy gì có khói’. Thứ hai, xét theo quan điểm của triết hệ
Nyaya-Vaisesika, cách hiển nhiên nhất là dựa trên sự giả định
của triết hệ ấy rằng bất cứ cái gì có thật mà hiện hữu, thì đều
biết tới được và diễn tả được:
a. Nếu người ta dùng một từ ngữ thì nó có ý nói tới cái gì đó.
b. Cái đó phải có thể được biết tới, nếu không, không có lý do
gì khiến từ ngữ ấy được đưa vào sử dụng.
c. Do đó, phải hiện hữu cái được từ ngữ ấy có ý nói tới.
Lý thuyết ấy về tri thức cho thấy triết hệ này hoàn toàn có tính
duy nghiệm chủ nghĩa. Mọi sự được biết tới đều dựa trên kinh
nghiệm (tri giác), và những cách thức khác nhằm sở đắc tri thức
(gồm suy ra, chứng cớ và đối chiếu) đều tùy thuộc vào trải
nghiệm.
Nói cách khác, triết hệ này chấp nhận rằng tri thức không chỉ là
kinh nghiệm thô sơ, nó còn tùy thuộc vào cách am hiểu hoặc đánh
giá bản giải thích kinh nghiệm ấy.
Ý nghĩa của ngôn ngữ
:
Khi xét tới ngôn ngữ, lối tiếp cận của triết hệ Nyaya-Vaisesika
biến một từ ngữ riêng rẽ — thay vì một câu như một toàn bộ —
thành nền tảng của ý nghĩa.
Ý nghĩa của một từ ngữ được cung cấp bởi cái được nó nói tới.
Nếu không có thực tại ngoại tại như một tham chiếu, thì từ ngữ
ấy không có ý nghĩa. Do đó, đương nhiên mọi ý nghĩa đều có tính
qui ước. Người ta chỉ đơn giản đồng ý với nhau rằng một từ ngữ
nhất định thì có ý đề cập tới một thực tại ngoại tại nhất định.
So với triết Tây:
Quan điểm của triết hệ này về ý nghĩa của ngôn ngữ có nhiều điểm
tương đồng với người theo thuyết thực chứng luận lý, vốn cũng
cho rằng ngôn ngữ phát sinh từ duy nghiệm chủ nghĩa tận gốc rễ.
Họ quả quyết rằng ý nghĩa của từ ngữ là một phương pháp dùng để
xác định, và rằng bất cứ cái gì không thể cho thấy có khả năng
viện dẫn kinh nghiệm thì đều vô nghĩa.
Tri thức và giải thoát:
Giống với hầu hết triết học Ấn Ðộ, triết hệ Nyaya-Vaisesika quan
tâm tới moksa (giải thoát) khỏi thế gian đầy khổ não. Ðể
đạt tới moksa, có thể đòi hỏi phải nỗ lực, nhưng nỗ lực
ấy cần đặt căn bản trên tri thức.
Như thế, trong triết hệ này không có sự phân biệt giữa tri thức
và lợi ích tự thân của nó với tri thức và lợi ích cho sự giải
thoát. Cả hai đều là thành phần của một và cũng thuộc một quá
trình thôi. Tri thức thiết yếu cho những bước đi giải phóng bản
thân.
Tương đồng với Tây phương nhất:
Cũng như hết thảy các triết thuyết trong triết học Ấn Ðộ, triết
hệ Nyaya-Vaisesika cũng cảm thấy vui thích với việc phân tích
chi tiết và những phân biệt tinh tế. Chúng tôi tiến hành phần
khảo cứu này cũng chỉ gợi ra những dấu vết để bạn đọc có thể đi
sâu và đi xa hơn với lối tiếp cận rộng rãi hơn.
Trong tất cả các triết thuyết Ðông phương, có lẽ Nyaya-Vaisiseka
là một triết hệ có nhiều điểm tương đồng nhất với triết học Tây
phương — cách riêng với chủ nghĩa duy nghiệm, lối tiếp cận của
nó vào ngôn ngữ và thêm nữa, vai trò mà nó dành cho Thượng đế
trong siêu hình học tổng thể của nó.
Thêm một điều quan trọng nữa về triết hệ này: ta cần phải thừa
nhận rằng nó không là sản phẩm của một người độc nhất hoặc của
một kỷ nguyên. Ðúng hơn, nó diễn tả một truyền thống rộng lớn
trong một nền triết học phát triển suốt hơn hai ngàn năm.
II. Samkhya
Samkhya, số luận, nghĩa gốc là ‘liệt kê’. Nói chung, triết hệ
này được coi là cổ nhất trong các hệ thống triết học Ấn Ðộ, vì
đã có những đề cập tới nó ở trong kinh Svetasvatara Upanishad
và trường ca Bhagavad Gita.
Bản thể và thần ngã
Thêm nữa, ngoài hai nghĩa đen vừa được kể ở trên, từ ngữ Samkhya
còn có nghĩa là ‘tri thức’ hoặc ‘minh triết’, như thế, có thể
những ngụ ý ấy đều chỉ mang ý nghĩa tổng quát. Hai đặc điểm cốt
yếu của tư tưởng Samkhya là prakrti (bản thể) và
purusa (thần ngã, hoặc tinh thần).
Prakrti cũng có thể được hiểu là vật chất đang thể hiện, cái sản
sinh ra cái khác; purusa cũng có thể hiểu là ý thức. Diễn tả của
Will Durant trong Lịch sử văn minh Ấn Ðộ, trang 269, là ‘Tinh
thần (purusa: thần ngã), nguyên lý tâm thần phổ quát, tự nó
không làm gì được cả, nhưng truyền sinh khí vào các prakrti,
truyền khả năng biến hóa của nó vào các tác động của các
prakrti’.
Thời điểm sáng lập
Hai đặc tính prakrti và pususa được tìm thấy trong
tác phẩm sử thi Mahabharata, chứng tỏ một cách chắc chắn
rằng các thành tố của triết hệ Samkhya có thời điểm cổ đại không
kém trường ca ấy. Theo truyền thuyết, vị hiền giả sáng lập triết
hệ này được hậu thế gọi tên là Kapila. Triết gia ấy sống đâu đó
trong khoảng thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai TCN, nhưng chúng ta
không có văn bản nào của ông. Truyền thống Ấn Ðộ vốn không coi
trọng niên đại, đã cho rằng Kapila thành lập triết hệ Samkhya
với văn bản xưa nhất, tới tận thế kỷ 5 hoặc 6 TCN.
Về mặt căn bản, cũng giống các hệ thống triết học khác, triết hệ
Samkhya nỗ lực đưa ra lời giải thích về thực tại và phương cách
thoát khỏi khổ não và đạt tới giải thoát. Thực hành hóa các phát
biểu triết lý của Samkhya là triết hệ Yoga (Du già), một truyền
thống đi liền với Samkhya, đề ra những nguyên tắc kỷ luật cho
người ta theo đó tu tập nhằm thành tựu sự giải thoát ấy.
Ba guna
Theo triết hệ Samkhya, có hai thực tại tối hậu: prakrti (bản
thể, vật chất) và purusa (tinh thần, thần ngã, ý thức). Prakrti
là thực tại, xuất từ đó hình thành thế giới như chúng ta đang
trải nghiệm. Nó được làm nên bởi ba guna, có thể hiểu là
ba tao dây, ba khả năng biến hóa của bản thể, quyết định dòng
sinh tử. Ba guna gồm: trong sạch, hoạt động và vô minh.
Có thể chiết các guna thành chi tiết như sau:
1. Sattwa. Thực tại. Ðây là phẩm chất cao cả nhất trong 3
guna. Nó chỉ tới sự quân bình, ngay thẳng, thanh thản và tinh
thần hiền hòa. Ở cấp độ tâm lý, guna này sản sinh hạnh phúc.
2. Rajas. Loạn động tính. Nó được thể hiện ở prakrti dưới
hình thức hoạt động, khát vọng, ham muốn, sôi nổi và táo bạo.
Guna này là sức mạnh cho phép chiến thắng tamas. Ðây là hoạt
động triền miên không ngưng nghỉ, khiến cho con người khổ não.
3. Tamas. Tối tăm, mù quáng. Một trong ba guna tạo thành
cấu trúc prakrti. Tamas đại diện cho những sức mạnh ngấm ngầm và
trì trệ của tự nhiên, biểu hiệu dưới hình thức ngu dốt, thiếu
sáng suốt và tăm tối. Nó dẫn tới vô minh và lãnh đạm.
Prakrti
Người ta bắt gặïp prakrti và ba guna của nó trong hết thảy những
sự vật đặc thù mà chúng ta trải nghiệm: mỗi sự vật đều có tính
hữu hạn và có nguyên nhân. Nhưng tự thân prakrti, vốn nằm đằng
sau mọi biểu thị cá biệt của nó, thì hằng cửu và không có nguyên
nhân, không bị tác động. Ta không thể trực tiếp trải nghiệm
prakrti vì nó là thực tại vô thức và phi trí huệ.
Nói cách khác, nằm bên dưới mọi sự chúng ta trải nghiệm, có một
thực tại mang tính vật chất và trung tính. Xuất từ thực tại ấy
triển khai thành thế giới chúng ta đã và đang biết tới. Thực tại
ấy có những phẩm tính khác nhau — các guna — nhưng nó không liên
quan riêng lẻ với cái nào và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ người
nào.
Purusa
Tương phản với prakrti, purusa thần ngã là tinh thần thuần túy.
Nó là cái giống y như tâm trí, bản ngã hoặc trí huệ, vì theo
triết hệ Samkhya, cả ba cái đó là những hình thức tinh lọc của
vật chất.
Purusa là ‘người biết’ — hằng cửu, tự do, ở quá bên kia thời
gian và không gian. Hiệp với prakrti làm thành hai thực tại được
triết hệ Samkhya công nhận, nhưng purusa là thực tại, là con
người nguyên sơ và vĩnh hằng, thực thể cao nhất.
Samkhya đề ra ba cách khác nhau chứng minh cho sự hiện hữu của
purusa, bao gồm sự kiện phải hiện hữu một chủ thể để trải nghiệm
khoái lạc, khổ não hoặc vô minh, được bắt gặp trong prakrti.
Ðiều đó cũng có nghĩa rằng niềm khao khát giải thoát khỏi thế
giới vật chất này chỉ có ý nghĩa với điều kiện phải có một tâm
linh cá thể đủ năng lực tiến hành quá trình giải thoát ấy.
Ở đây, ta cần chú ý rằng purusa không tọa lạc bên ngoài bản ngã
— cái tôi. Nó không là thần linh ngoại tại nào đó; quả thật,
triết hệ Samkhya trong tự nó, mang tính vô thần chủ nghĩa. Ðúng
hơn, vì purusa có tính phổ quát và vĩnh hằng nên nó được tìm
thấy bên trong bản ngã, nhưng như một cái ngã thuần túy tinh
thần chứ không như một cái ngã của bản ngã hoặc của trí huệ; thế
nên mới gọi purusa là thần ngã.
Hai mươi lăm thực thể
Tiếp đến, triết hệ Samkhya truyên bố rằng vì prakrti được purusa
truyền sinh khí và truyền năng lực biến hóa nên trong khi đó, nó
phải đi qua chu kỳ tiến hóa và tan rã trong quá trình sản sinh
tuần tự hai mươi lăm thực thể (tatwa: tát đỏa), được liệt kê
gồm:
a. Bản thể (prakrti);
b. Trí năng (buddhi) tự biến hóa mà sinh ra;
c. Khả năng thuộc giác quan của thế giới nội tại
d. Năm khả năng theo từng bộ phận: thấy, nghe, ngửi, nếm và sờ;
đ. Tinh thần (manas: mạt na), khả năng nhận thức;
e. Năm khả năng thuộc ngũ quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, da;
f. Năm cơ quan tác động cơ thể: cuống họng, bàn tay, bàn chân,
bộ phận bài tiết và sinh dục;
g. Năm hành chất của thế giới bên ngoài như ê-te, không khí, lửa
và ánh sáng, nước, đất;
h. Và sau cùng: thần ngã purusa;
Thức ngộ và giải thoát
Người ta không rõ tại sao 25 cái vừa kể lại xảy ra dưới ảnh
hưởng của purusa hằng cửu, hoặc tại sao chúng lại được sản sinh
theo thứ tự như thế, nhưng theo Samkhya, chính prakrti trung
tính là cơ sở của toàn bộ cuộc tiến hóa ấy và của sự xuất hiện
thế giới gồm những cái đặc thù ấy.
Cũng theo Samkhya, con người cá nhân (jiva), gồm purusa kết hợp
với một cái tôi (ego — ahankara), các giác quan và thể xác. Nói
cách khác, nó biểu hiệu hai đặc tính căn bản của thế giới. Nhưng
các cá nhân vô minh không nhận ra rằng bản sắc chân chính của
mình là purusa vì họ bị mải mê bởi cái tôi, để cho mình bị hoàn
toàn lèo lái bởi giác quan và nhu cầu thể xác của mình. Từ đó,
cái ego ấy tự tạo ra ảo giác về nhị nguyên và nhân quả, và vì
thế nó bị đẩy vào chu kỳ sinh diệt. Chỉ có thể xảy tới giải
thoát một khi nhận biết sự khác biệt giữa purusa và prakrti.
Nói cách khác, một khi bạn nhận ra rằng bạn có bản tính thuần
túy tinh thần, không chút nào giống với cái tôi ego, trí năng và
thể xác của bạn, lúc đó bạn được giải thoát. Hễ linh hồn
(purusa) nhận ra rằng nó không lệ thuộc vào sự vật (prakrti) thì
nó được tự do. Thức ngộ được sự phân biệt đó tức là thoát ra
ngoài vòng kềm tỏa của thời gian và không gian, thoát khỏi thế
giới khổ não và vượt ra ngoài chu kỳ luân hồi.
Ba nguồn tri thức
Những điều vừa trình bày mới chỉ trong phạm vi tri thức, còn
phương pháp đạt tới giải thoát thì đã có Yoga, một triết hệ sóng
đôi với Samkhya.
Tuy thế, trước khi chấm dứt phần trình bày về Samkhya, có lẽ sẽ
không bỏ công nếu rướn thêm một bước nữa, đề cập tới phần tri
thức luận của triết hệ này, gồm lý thuyết của nó về tri thức và
cách riêng, quan điểm của nó về quan hệ nhân quả.
Trước hết, Samkhya cho rằng tri thức về thế giới này đến với
chúng ta qua các giác quan bằng cách lập thành hình ảnh trong
tâm trí, được sản sinh do bởi thao tác của giác quan trong khi
giao tiếp với các sự vật trong thế giới. Dù không bao giờ hoài
nghi sự hiện hữu của thế giới ngoại tại, Samkhya cho rằng chúng
ta không thể biết về thế giới ngoại tại như nó đang hiện hữu
trong chính nó; chúng ta chỉ có các ấn tượng giác quan được sản
sinh trong tâm trí như là kết quả của nó thôi.
Ðó là nguồn thứ nhất trong ba nguồn tri thức. Hai nguồn kia, một
cái do bởi suy diễn, như chúng ta đã thấy phần lớn trong khi nói
tới triết hệ Nyaya, một cái là shruti, tri thức có được
từ kinh sách thiêng liêng. Tuy nhiên, trong thực tế, Samkhya
hiếm khi tham chiếu sách thánh, và nói chung, nó chỉ nói tới tri
giác, suy ra và xét theo tương đồng. Kapila tuyên bố rằng các
kinh Veda đáng cho chúng ta tin kính vì tác giả của chúng biết
được chân lý đã xác định. Tuy nhiên, sau khi tuyên bố chắc nịch
như thế, ông tiếp tục giảng thuyết mà không đề cập gì tới kinh
Veda, coi như không có.
Ở đây, chúng ta thấy lập trường của Samkhya có điểm tương phản
với Nyaya.
a. Theo Nyaya, thế giới là cái được trải nghiệm, thế thôi.
b. Theo Samkhya, thế giới thì ‘ở ngoài kia’; ta không thể biết
bản thân nó, và thế giới ấy hoàn toàn khác với các ấn tượng về
nó do giác quan làm nảy sinh trong tâm trí của ta.
So với triết Tây:
Emmanuel Kant cũng đưa ra sự phân biệt giữa các vật trong tự
thân chúng, là cái không thể nào biết được, với các vật như
chúng ta tri giác chúng hiện hữu. Ông nêu lên hai thuật ngữ: thế
giới của bản thể (hoặc bản chất), và thế giới của hiện tượng.
Quan hệ nhân quả
Phần lớn luận cứ trong triết học đều sử dụng khái niệm về quan
hệ nhân quả. Samkhya có lối tiếp cận riêng của nó vào vấn đề ấy.
Samkhya lập luận rằng bạn không thể có được bất cứ kết quả nào
từ một nguyên nhân nhất định vì kết quả thì liên hệ tới các phẩm
tính tiềm ẩn trong nguyên nhân ấy. Thí dụ, bạn chỉ có thể chế
tạo bơ từ sữa chứ không thể từ nước lã.
Ðiều đó hàm ý, theo lập luận của Samkhya, rằng khi ‘cái này’ tác
động cho xảy ra ‘cái kia’, thì đơn giản chỉ là đang tạo ra cái
thật sự đã có tiềm năng trong cái tác động. Bơ là tiềm năng đã
có bên trong sữa. Sữa là nguyên nhân vật liệu của bơ, nhưng nó
cũng đòi hỏi một nguyên nhân hiệu ứng của việc khuấy cho thật
mạnh, và cứ thế biến tiềm năng của ‘cái này’ (sữa) thành ‘cái
kia’ thật sự (bơ).
Samkhya đạt tới kết luận về quan hệ nhân quả rằng chúng không là
hai cái có chút nào riêng biệt nhau, mà chỉ là hai trạng thái
khác nhau của cùng một bản thể.
Có lẽ dưới ánh sáng của kết luận ấy, ta có thể nhìn lại ý tưởng
của Samkhya về sự tiến hóa và tan rã liên tục của mọi sự trong
thế giới này. Có một quá trình triền miên biến đổi, với những
nguyên nhân dẫn tới những kết quả mà tự chúng lại xuất hiện làm
thành nguyên nhân cho những kết quả về sau nữa.
Trong thực tế, triết hệ Samkhya mời gọi chúng ta xem xét rằng
không có quá trình tách biệt của các sự vật đang phản ứng nhau,
mà như một gia công của tiềm năng thuộc về một prakrti vô phân
biệt và đơn nhất.
So với triết Tây:
Có thể không bỏ công khi cân nhắc lập trường vừa kể của Samkhya
trong ánh sáng bốn nguyên nhân của Aristotle: chất liệu, dạng
thức, hiệu ứng và tối hậu.
Tại cả Ðông lẫn Tây, triết học đều phải chiến đấu với vấn đề căn
bản là quan hệ nhân quả. Nguyên nhân và kết quả liên quan nhau
như thế nào? Có phải kết quả đã nằm sẵn như một tiềm năng trong
nguyên nhân? Dường như cả Aristotle lẫn triết hệ Samkhya đều trả
lời rằng đúng như thế.
III. Yoga
Yoga, du già, cống hiến một tập hợp các kỷ luật mà thực hành
đúng qui cách sẽ đưa tới giải thoát. Nó có nguồn gốc từ thời
thượng cổ, tuy thế, về truyền thuyết, nhà hiền triết Patanjali,
người có thể sống vào khoảng năm thế kỷ 2-3 TCN, cũng có thể
khoảng thế kỷ 4-5 SCN, là người soạn cuốn kinh Yoga Sutra,
một văn bản cổ nhất về Yoga.
Nói chung, dù Yoga sóng đôi với triết hệ Samkhya, nó mang ý
nghĩa rất khác. Có học giả còn liệt kê Yoga vào loại pháp môn tu
tập, không hẳn là một triết hệ. Cái biến Yoga thành triết hệ có
lẽ chính là khái niệm của nó về một Ðấng tối cao.
Thượng đế Ishvara
Không giống triết hệ Samkhya, Yoga bao gồm ý kiến về một Thượng
đế có nhân cách: Isvara. Luận cứ được triết hệ Yoga đưa
ra để biện minh cho sự hiện hữu của Isvara dựa trên những cấp
bậc khác nhau mà chúng ta cung cấp cho các phẩm tính. Khi nói
cái này vĩ đại hơn cái kia, chúng ta hàm ý rằng có những phương
cách hoặc tiêu chí nào đó để qua đó, có thể đánh giá cái này cái
nọ. Như thế, lần lượt đi tới hàm ý rằng phải có một Hữu thể nào
đó sở hữu chúng ở cấp độ khả dĩ tối thượng.
Nói cách khác, việc đưa ra các phán đoán về giá trị có ngụ ý nói
tới tri thức về cái thiện, về giá trị tối thượng, tức là Isvara.
Tuy nhiên, điều ta cần để ý trong triết hệ Yoga là: tuy Isvara
có tính vĩnh hằng, toàn năng và toàn trí, như ngài không được
đánh giá là đấng tạo dựng thế giới vật chất. Do đó, khái niệm
của Yoga về Thượng đế rất khác với khái niệm của Tây phương và
của triết hệ Nyaya-Vaisesika.
So với triết Tây:
Thế nhưng, chúng ta cũng hãy để ý tới những điểm tương đồng giữa
triết hệ Yoga với luận cứ mang tính bản thể luận của Tổng giám
mục Anselm nhằm chứng minh sự hiện hữu của ‘cái không cái gì lớn
hơn có thể quan niệm được’.
Cũng thế, Thomas Aquinas đề ra luận cứ từ các cấp độ của giá
trị, lập thành con đường thứ năm trong ‘Năm con đường’ ông dùng
để chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế.
Con đường giải thoát của hành giả
Nghĩa vụ của Yoga là giải tỏa thần ngã purusa. Ðể thực
hiện công tác ấy, phải có kỷ luật tinh thần, hiểu theo nghĩa cao
nhất là tâm linh. Triết hệ Yoga đề ra một con đường thực hành
gồm tám giai đoạn.
1. Yama. Tự kiểm soát. Giai đoạn này gồm năm bài tập đạo
đức: tôn trọng sự sống (ahimsa); tôn trọng sự thật (satya), tôn
trọng sở hữu (asteya); trinh tiết (brahmacharya); và không thèm
muốn (aparigraha). Những bài tập này phải được thực hiện bằng ý
nghĩ, lời nói và hành động.
2. Niyama. Giữ lề luật. Chuẩn bị đạo đức; giữ tinh khiết
bên trong và bên ngoài; tự nguyện và nghiêm khắc với bản thân;
học các sách thánh; và sống tận hiến cho Thượng đế Isvara.
3. Asana. Tư thế. Thực hiện những tư thế khác nhau của
Yoga. Giai đoạn này phải tập bỏ mọi cử động, mọi cảm giác. Ban
đầu có thể ngồi theo tư thế bán già, nhưng tốt hơn hết là kiết
già. Nơi ngồi phải vững vàng, không quá cao, không quá thấp, yên
tĩnh và sạch sẽ. Theo truyền thống Ấn Ðộ, nơi đó phủ cỏ thiêng,
bên trên có trải một tấm da mang và một bồ đoàn.
4. Pranayama. Làm chủ prana, tức là kiểm soát hơi thở. Có
thể thực hành các bài tập thở gắn với một mantra. Nhờ luyện tập,
có thể quên mọi sự trừ hơi thở. Óc không còn ý niệm, trống rỗng,
bỏ ngỏ để tiếp thu. Hấp thu càng ít không khí càng tốt.
5. Pratyahara. Sau khi chủ động giác quan, tới giai đoạn
ly thế. Hoàn toàn hướng các cảm giác khỏi những đối tượng cảm
tính để không làm xao lãng tư duy và khả năng tập trung mọi suy
ngẫm hướng tới đối tượng đã chọn.
6. Dharana. Quán tưởng. Tập trung trí tuệ và giác quan
vào một đối tượng, gạt ra ngoài mọi sự khác. Nhờ thế, tâm hồn
giải thoát khỏi thực tại, khỏi mọi cảm giác, mọi ý nghĩ, tư dục.
Patanjali gọi quán tưởng là dòng tư duy liên tục hội tụ với đối
tượng tập trung, hành giả có khả năng nhìn thấu suốt tâm điểm
của vấn đề.
7. Dhyana. Thiền định. Ðây là phần thứ hai của ba giai
đoạn cao nhất. Trước nó là Dharana, sau nó là Samadhi. Theo
Yoga, thiền định là để cho tư tưởng mình lắng xuống, do đó ý
thức tuyệt đối thoát khỏi các chồng chéo. Lúc đó tinh thần thoát
được thực thể, thảnh thơi, cảm nhận bản thể phi vật chất của
thực tại hằng cửu. Không có thiền định, không thể vươn tới tình
trạng ý thức cao hơn của giai đoạn kế tiếp.
8. Samadhi. Nhập định. Nghĩa đen là ‘hiệp nhất, nhập
vào’. Trạng thái xuất thần nhập hóa. Trí óc thật sự hư không,
hành giả mất ý thức hiện hữu cách biệt, làm một với đại khối,
tiểu ngã hòa nhập đại ngã, thức ngộ duy nhất tính của vũ trụ và
nhất thể tính của vạn vật.
Ðiểm giải phóng thần ngã
Trong giai đoạn sau cùng, tâm trí có thể vẫn nhận biết đối tượng
của quán tưởng, và bằng trực giác, nhận biết cái đang xảy ra,
hoặc nó có thể đi tới quá bên kia quá trình tư duy, nhập vào
trạng thái tâm trí hoàn toàn bị cuốn hút vào diễn tiến quán
tưởng hoặc thiền định, theo lối Yoga. Chính trong trạng thái tối
hậu ấy, purusa được giải phóng khỏi vật chất.
Rõ ràng diễn tiến ấy phản ánh sự đáp ứng thực tiễn bản tính của
thực tại purusa và prakrti đã được đề ra trong triết hệ Samkhya.
Chức năng của Thượng đế Isvara trong triết hệ Yoga là cung cấp
nguồn cảm hứng — vì bằng chứng cho thấy sự hiện hữu của ngài thì
có tính cách chứng nghiệm, thông qua tri thức trực giác về cái
tối thượng, và vì sự tận hiến cho ngài được xem là hành động
chuẩn bị cho hành giả Yoga đi đúng theo các kỷ luật thể chất và
tâm thần.
Nhận xét của Will Durant
Trong cuốn Lịch sử văn minh Ấn Ðộ (lời dịch của Nguyễn
Hiến Lê, tt 280-281), sử gia và triết gia Will Durant đưa
ra những nhận xét của ông về triết hệ Yoga, đáng cho ta suy
nghĩ. Ông viết:
"[.] ‘Yoga chỉ có thể biết được bằng con đường yoga’.
"Tuy nhiên, người tu theo yoga không nhằm mục đích hiểu biết
Thượng đế hoặc hợp nhất với Thượng đế; trong triết lý yoga,
Thượng đế (Ishvara) không phải là đấng sáng tạo hoặc duy trì vũ
trụ: không có nhiệm vụ thưởng phạt con người; mà chỉ là một
trong một số ít đối tượng để linh hồn có thể suy tư mà đạt tới
trạng thái tập trung và giác ngộ.
"Mục đích của người tu hành rõ ràng là làm cho linh hồn tách ra
khỏi thể chất, bứng hết mọi trở ngại vật chất ra khỏi tinh thần
để tinh thần đạt được cái đại giác và các khả năng siêu nhiên.
Linh hồn mà trong sạch, khỏi vướng lụy vào thể chất, thì nó là
Brahman, chứ không phải hợp nhất với Brahman; vì
Brahman chính là cái cơ sở tinh thần ẩn tàng, cái linh
hồn vô cá thể, vô chất còn lại sau khi mất hết mọi liên hệ với
giác quan. Linh hồn mà tự giải thoát ra khỏi cái thân xác giam
hãm nó, thì nó thành Brahman, có cái đại giác và sức mạnh
của Brahman.
"Ở đây, ta lại thấy tái hiện nền tảng yêu thuật của tôn giáo nó
làm hại cho tôn giáo — nền tảng đó là sự thờ phụng các quyền
năng mạnh hơn con người".
IV. Mimamsa
Mimamsa, di man tác luận, quan tâm tới sự am hiểu các kinh Veda,
gồm các tụng ca Mantra, các Upanishad và các Brahmana.
Mimamsa và Vedanta
Trong triết hệ Mimamsa, có hai truyền thống:
1. Purva (tiền) Mimmasa: Truyền thống này quan tâm tới
Dharma (Pháp), những nguyên tắc hành động đúng qui cách, được đề
ra trong kinh Veda. Ðôi khi còn được gọi là Dharma Mimamsa.
2. Uttara (hậu) Mimamsa: Truyền thống này quan tâm tới
Brahman, Ðại ngã tuyệt đối bất biến và vĩnh hằng, nguyên nhân
tối hậu của mọi sự. Nó khảo sát bản tính của thực tại thay vì
các nguyên tắc hạnh kiểm. Ðôi khi còn được gọi là Brahma
Mimamsa.
Uttara Mimamsa cũng còn được gọi là Vedanta, triết hệ sau cùng
trong sáu triết hệ, và là cái chúng ta sắp sửa xem xét. Tuy
Purva có nghĩa là về trước, và Uttara có nghĩa là về sau, nhưng
cần chú ý hai chữ trước sau ấy không hàm ý cái này theo sau và
thay cho cái kia. Chúng chỉ theo ý nghĩa rằng triết hệ Vedanta
nhấn mạnh tới hành động đi quá bên kia nó để nhìn tận tường các
nguyên lý nằm đằng sau ngôn từ văn học của kinh Veda.
Mimmasa được xem xét sóng đôi với Vedanta, vì nói chung, truyền
thống cổ nhất Purva Mimmsa được gọi là Mimamsa, còn truyền thống
gần đây nhất, Uttara Mimamsa thì được biết tới dưới tên gọi
Vedanta nhiều hơn. Dưới đây, chúng ta chỉ xem xét Parvu Mimamsa.
Ngược dòng lịch sử
Nguồn gốc của truyền thống Purva Mimamsa không rõ ràng chút nào.
Theo truyền thuyết, triết hệ Mimamsa bắt nguồn từ cuốn kinh
Mimamsa Sutra của nhà hiền triết Jaimini, được hình thành
đâu đó vào thế kỷ thứ hai TCN và thế kỷ thứ hai SCN, nhưng lưu
hành một thời gian dưới dạng truyền khẩu. Mimamsa Sutra
tóm tắt trong 12 chương tất cả những lý giải đã có từ thời
Jaimini. Chương đầu có ích lợi đặc biệt về mặt triết học vì nó
bàn tới những nguồn nhận thức kinh Veda. Vì Jaimini soạn các lập
luận biện minh cho mỗi phần của kinh ấy, thế nên, xét theo nội
dung, những tư liệu của ông có lẽ không đúng với thời điểm
truyền thuyết ấy.
Hậu thế biết tới kinh Mimamsa Sutra chủ yếu qua cuốn bản
thông giải của Bhasya người Sabara, sống vào khoảng thế kỷ 3
hoặc 4 SCN. Cũng theo truyền thuyết, sở dĩ Jaimini sáng lập
triết hệ Purva Mimamsa chẳng qua vì ông muốn phản kháng thái độ
của Kapila và Kanada, hai nhà tư tưởng không nhắc nhở gì tới
kinh Veda trong các lời giảng của họ.
Tuyệt đối theo kinh sách
Jaimini cho rằng con đường hữu hiệu để sở đắc minh triết và định
tĩnh tâm hồn là cứ khiêm tốn giữ đúng mọi nghi lễ đã được qui
định trong kinh sách, chứ không thể đi qua các mê cung luận lý,
vì lý trí không cung cấp ‘tri thức’ hoặc luận lý; nó chỉ biện
minh cho thói đam mê dục lạc và thói kiêu căng của ta.
Mimamsa khởi hành với mệnh đề căn bản rằng chỉ những phát biểu
có tính huấn lệnh về đường hướng hành động là có ý nghĩa. Sở dĩ
triết hệ ấy dám đưa ra lời đoan chắc đầy kinh ngạc ấy là vì nó
đánh giá kinh Veda là chân lý vĩnh cửu. Theo Jaimini, đối với
biến cố riêng biệt — nói cách khác, sự việc đặc thù — ta có thể
dựa vào chứng cớ để biết chúng đúng hoặc sai, nhưng đối với cái
có tính hằng cửu thì không thể nào đưa ra bằng cớ vì ta không
thể định vị nó hoặc định nghĩa nó. Do đó, nếu kinh Veda có tính
vĩnh cửu thì những gì được cống hiến trong đó đương nhiên làø
chắc chắn.
Dharma tuyệt đối đúng
Thế thì chúng ta phải hiểu ra sao về những mô tả rõ ràng và cụ
thể trong kinh Veda? Trả lời câu hỏi ấy, Mimamsa cho rằng kinh
Veda có ý nghĩa vĩnh cửu trong chừng mực nó dẫn nhập hoặc giải
thích nguyên tắc nào đó lề luật nào đó hoặc qui định nào đó để
sống.
Nếu mọi cái có ý nghĩa trong kinh Veda, bằng cách nào đó, kết
hiệp với các lề luật để sống ở đời (nói cách khác, các Dharma),
thế thì không thể nào thắc mắc kinh Veda có đúng hay không, hoặc
không thể nào tính chuyện kiểm tra xem chúng có đi ngược lại các
sự việc độc lập hay không; những hành động thuộc loại ấy chẳng
thích đáng chút nào. Tất cả những gì chúng ta phải làm là thăm
dò cách thức có thể áp dụng các Dharma đặc thù ấy vào đời sống
của bản thân ta, một cách thích đáng nhất.
Tóm lại, triết hệ Mimamsa không bao giờ tìm cách thách đố hoặc
thẩm định kinh Veda. Nó chỉ làm công việc thông giải các luật lệ
được nó tìm thấy trong kinh ấy.
So với triết Tây:
Tại Tây phương, chủ nghĩa duy qui định (prescriptivism) là thuật
ngữ dùng để nói tới một quan điểm triết học cho rằng những phát
biểu về giá trị đều thật sự chỉ là những lời khuyên răn về đường
hướng hành động. Nếu tôi nói rằng cái gì đó là thiện, thì không
có các sự việc ngoại tại tương ứng với từ ngữ ‘thiện’; nó đơn
giản chỉ là cách nói rằng cái hành động mà tôi đang mô tả là
thiện ấy chỉ là một hành động đúng với qui định của tôi.
Mimamsa đi tới lập trường tương tự. Khi nói rằng kinh Veda có
tính vĩnh cửu, tức là cho rằng kinh ấy có giá trị tối hậu. Nhưng
giá trị ấy không thể được phô diễn trong liên quan tới các sự
việc không chắc chắn, nghĩa là những gì phải tùy thuộc cái này
cái nọ. Do đó, kinh Veda phải liên quan tới sự qui định đường
hướng hành động.
Mimamsa nhị nguyên chủ nghĩa
Triết hệ Mimamsa đưa ra quan điểm về bản tính của tri thức tương
hợp với lời tuyên bố của nó về tính hằng cửu của kinh Veda. Nó
cho rằng toàn bộ tri thức là hiển nhiên, tự thân chúng đã rõ
ràng. Và ta biết tới chúng là nhờ sự tự nhận thức của chính ta.
Nói cách khác, các sự việc đơn thuần không mang lại tri thức
chân chính.
Ở đây, chúng ta thấy hiện rõ tính nhị nguyên chủ nghĩa tận gốc
rễ. Tâm trí hoàn toàn tách biệt với các đối tượng hằng ngày
chúng ta nhận biết. Tri thức không là cái gì đó mà tâm trí phát
sinh dựa trên cơ sở kinh nghiệm, nhưng là cái có tính vĩnh cửu,
hiện hữu sẵn ở đó chờ được phát hiện. Nhưng ta không thể phát
hiện các chân lý vĩnh cửu ấy qua các sự việc, do đó, ta phải
chấp nhận chúng vì chúng được cung cấp bởi kinh Veda.
Tác động của triết hệ Mimamsa
Như thế, lập trường chấp nhận ấy làm nổi bật sắc nét bản tính
phổ quát của nghiệp báo nhân quả. Mọi sự chúng ta làm đều đã
được quyết định bởi các hành động trước đó của chúng ta.
Hậu quả tổng thể của triết hệ Mimamsa trong truyền thống Ấn Ðộâ
là nhấn mạnh vai trò của việc thể hiện chính xác Dharma. Kinh
Veda cung cấp một gia tài cực kỳ phong phú các luật lệ chi tiết,
có giá trị vĩnh cửu, những cái cần phải thường xuyên thông giải
vì chúng đã, đang và sẽ được áp dụng liên tục. Và đồng thời với
sự nhấn mạnh ấy, lập trường của Mimamsa còn đi tới một hàm ý hăm
dọa rằng sự thất bại trong việc thể hiện chính xác Dharma đưa
tới ác nghiệp, và như thế, đưa tới khổ não trong tương lai, cả
gần gũi lẫn xa xăm.
V. Vedanta
tổng quát về vedanta
Cho tới ngày nay, triết hệ Vedanta, Vệ đà luận, vẫn ảnh hưởng
rất bao quát và sâu sắc. Có thể hiểu từ ngữ Vedanta theo hai
nghĩa. Nghĩa gốc của nó là cuối thời kinh Veda, tức chuyển qua
thời các Upanishad. Tự thân từ ngữ Vedanta có nghĩa là ‘cứu cánh
và mục đích của kinh Veda’. Như thế, triết hệ Vedanta quan tâm
ưu tiên tới Brahman, thực tại tối hậu được mô tả trong các
Upanishad.
Chữ ‘anta’ có nghĩa là kết cuộc; Vedanta nghĩa đen là hoàn thiện
kinh Veda. Do dó, triết hệ Vedanta cũng tự xem mình có nghĩa vụ
liên tục cung cấp các thông giải triết lý cho những tư liệu lớn
rộng và muôn hình muôn vẻ trong kinh Veda. Tác phẩm sớm sủa nhất
và hiện vẫn lưu hành của triết hệ này có tên là Vedantasutra,
trong đó có cả những tóm lược các cuộc tranh luận diễn ra ở
những thời kỳ trước nó.
Sự bất lực của lý trí
Ðặc điểm cốt yếu của lối tiếp cận mang tính Vedanta là không thể
dùng lý trí để biết Brahman, chân lý tối hậu, chỉ có thể tri
giác Brahman bằng tận hiến và trầm tư mặc tưởng. Vedanta giải
thích rành mạch lý do của tình thế ấy như sau:
a. Brahman không có thuộc tính. Không có gì có thể tượng trưng
cho Brahman. Brahman không là ‘cái này’ hoặc ‘cái kia’, không là
thành phần của thế giới hiện tượng;
b. Lý trí chỉ có thể ứng xử bằng các khái niệm, các thuộc tính
hoặc các cái tượng trưng;
c. Thế nên lý trí không thể lãnh hội Brahman.
Brahman tuyệt đối bất biến. Theo Vedanta, Brahman là thực tại
tối cao và phi nhị nguyên. Các tôn giáo hoặc các triết thuyết
nhị nguyên đều dựa vào sự hiện hữu của một Thượng đế có nhân
cách và có ngôi vị (personal God) nên không thể nào biết tới cái
nào đó tương đương với khái niệm Brahman. Như ‘luận cứ ba điểm’
ở trên, con người nếu với sự trừu tượng hóa của ý niệm và bằng
lối tiếp cận duy lý, thì không thể nào hiểu được Ý thức tuyệt
đối (Brhaman). Chỉ cần hơi có ý định cụ thể hóa Brahman là
Brahman trở thành Isvara, Thượng đế của triết hệ Yoga.
Brahman và thế giới
Nhưng nếu thế, làm thế nào Brahman có thể quan hệ với thế giới
này?
Triết hệ Vedanta đưa ra câu trả lời rằng Brahman chuyển thể bản
thân thành vạn vật làm nên thế giới, nhưng khi làm như thế, bản
thân Brahman không biến đổi. Do đó, theo ý nghĩa nào đó, Brahman
được xem là nguyên nhân của thế giới. Nhưng thực tế không đơn
giản như thế vì nguyên nhân và kết quả là hai cái tách biệt
nhau; nếu Brahman có tính hằng cửu thì chẳng cái gì có thể tách
biệt với ngài. Do đó, Brahman và thế giới quả thật đồng hóa.
Không có cái gì không là Brahman nhưng đồng thời, không có cái
gì là Brahman.
Dù Vedanta nỗ lực kiến lập một triết thuyết nhất quán và đơn
nhất, xuất từ chất liệu của các Upanishad, nhưng nó không thể
tránh khỏi tình trạng có một số quan điểm khác biệt.
Vấn đề quan trọng nhất, liên quan tới việc Brahman được xem là
tác nhân trong chừng mực nào. Nói cho cùng, nếu Brahman chuyển
thể bản thân thành vạn vật của thế giới, tức là ngài giữ vai trò
trực tiếp trong quá trình thành hiện thực của vạn vật. Nói cách
khác, cũng như các triết hệ Ấn Ðộ khác, Vedanta bao gồm ý tưởng
về karma (nghiệp báo), rằng mọi sự là kết quả của các hành động
thiện hoặc ác được thể hiện trong quá khứ. Nhưng như thế, liệu ý
tưởng đó có nghĩa là có một số điều này do karma gây ra và có
một số điều nọ do Brahman gây ra bằng hành động chuyển thể trực
tiếp của ngài? Vế vấn đề này, dường như Vedanta không nhất quán.
So với triết Tây:
Về nhiều mặt, triết hệ Vedanta hiểu Brahman khá giống với ý
tưởng của Tây phương về thuyết phiếm thần (panentheism), Thuyết
ấy cho rằng Thượng đế ở bên trong mọi sự tuy thế, tách biệt với
mọi sự.
Ðại hiền giả Sankara
Người sáng lập triết hệ Vedanta là Sankara (k.788-820 SCN), còn
gọi là Sankaracarya. Khởi nguyên của triết hệ này là cuốn kinh
Brahmasutra, một trong những tác phẩm quan trọng nhất của
triết học Ấn Ðộ. Kinh ấy gồm có 555 câu châm ngôn và những câu
thơ về triết học Vedanta, theo truyền thuyết được qui cho người
sưu tập là Badarayana, một nhà thông thái Ấn Ðộ sống khoảng thế
kỷ thứ nhất TCN hoặc thế kỷ 2 hay 3 SCN. Sách lưu truyền và được
tiếp tục chú giải qua nhiều đời hiền triết.
Bộ chú giải sau cùng và nổi tiếng nhất có tên là Vedanta,
của Sankara. Tuy nhà hiền triết và thánh nhân ấy chỉ sống một
cuộc đời ngắn ngủi 32 năm, nhưng ông được đánh giá là triết gia
vĩ đại nhất của Ấn Ðộ. Trong bộ Vedanta, nghĩa là hoàn
thiện kinh Veda, Sankara nêu ý kiến của mình về các Upanishad,
kinh Bhagavad-Gita và kinh Brahmasutra. Ông cho
rằng thế giới thông thường như chúng ta tri giác, trong thực tế,
chỉ là maya, hư ảo. Thực tại căn bản và duy nhất là
Brahman. Ðây là lối tiếp cận được đặt tên là advaita: phi
nhị nguyên, nghĩa là không có hai thực tại, chỉ một thôi. Do đó,
về sau triết hệ này có một truyền thống tên là Advaita Vedanta.
Vạch tổng quát của Vedanta
Sankara vạch ra đường nét tổng quát Vedanta rằng lý trí không
thể lãnh hội Brahman, vì tri giác chỉ có thể áp dụng cho thế
giới kinh nghiệm. Bạn không thể với tới quá bên kia các giác
quan. Nói cách khác, bản ngã hoặc linh hồn là một khía cạnh của
Brahman, do đó, người ta có khả năng biết trực tiếp Brahman qua
bản ngã. Trong thực tế, Brahman chính là cái ‘Tôi’ đang hành
động — tách biệt với thể xác và các khía cạnh khác của bản ngã
(cái tôi) có thể được nhìn thấy và mô tả.
Sankara cũng phân biệt thực tại phi phẩm tính (Nirguna Brahman)
với thực tại có phẩm tính (Saguna Brahman).
Có thể nói Nirguna Brahman chỉ là ý thức thuần túy ở trình độ
cao. Thuật ngữ Nirguna Brahman gợi lên một thực thể vừa tối
thượng vừa siêu việt, vượt ra ngoài trạng thái có và trạng thái
không có phẩm tính. Còn Saguna Brahman được xem là hành động ở
trình độ thấp, như một sức lực sống động trong mọi sự và cũng là
Isvara, từ ngữ tổng quát dùng để gọi Thượng đế. Thuật ngữ Saguna
Brahman gợi ra một Brahman có đủ thứ phẩm tính để tiện cho việc
thờ phượng.
Trong Ramatapaniya-Upanishad, có viết: ‘Brahman là một
thực thể thuần khiết và không có hình thức và không có các bộ
phận [phi phẩm tính]. Ðể giúp tín đồ trong nỗ lực sùng tín,
người ta đã tô điểm cho Brahman những biểu tượng và những phẩm
tính. Brahman có phẩm tính (guna) trở thành Isvara, một thần
linh có nhân cách mà người ta có thể chiêm ngưỡng và nguyện
cầu’.
So với triết Tây:
Các học giả thường nối kết Sankara với Kant, vì cả hai đều vạch
ra những giới hạn của cái có thể được biết tới bằng giác quan.
Cũng giống như Sankara, Kant cho rằng chỉ có thể biết tới Thượng
đế qua trải nghiệm sự tự do của con người. Ðối với Kant, Thượng
đế, tự do và sự bất tử là các yêu cầu của lý trí thực tiễn; nói
cách khác, chúng ta tiền giả định chúng mỗi khi chúng ta lập sự
chọn lựa tự do và hành động tiếp liền đó.
Trong chừng mực nào đó, ta có thể xem sự phân biệt của Sankara
về Nirguna Brahman và Saguna Brahman giống như thế giới bản thể
và thế giới hiện tượng của Kant.
Nghiệp báo và tri thức
Sự phân biệt Brahman và Isvara ấy đưa tới hai cấp độ của chân
lý: một về mặt qui ước và một về mặt thực dụng. Sankara thấy thế
giới là một hệ thống đang tiến hóa và biến đổi, được sản sinh
bởi con người thiêng liêng, lăn qua các chu kỳ của nó, nhưng một
cách tối hậu, ông tin rằng thế giới này không thật.
Khi toàn bộ kinh nghiệm bỏ ngỏ cho sự thông giải sai lạc, chúng
ta có thể bị đánh lừa. Và thế giới như chúng ta biết tới, có thể
như một giấc mộng mà chúng ta đang trải qua giấc mộng ấy. Thực
tại tuyệt đối và duy nhất là Brahman, đồng hóa với bản ngã (cái
tôi) là Atman. Nói cách khác, Ðại ngã hiệp làm một với Tiểu ngã.
Linh hồn ấy (Atman) bị vây hãm bên trong tầng tầng lớp lớp, mà
tầng lớp bên ngoài nhất chính là thể xác vật lý. Các tầng tầng
lớp lớp ấy bị quyết định bởi nghiệp báo của chúng ta và những
tầng lớp kềm tỏa ấy có thể càng lúc càng tróc rụng dần cho tới
khi lộ ra ở ngay chính tâm điểm bản thân chúng ta hiện hữu
Atman.
Ðối với Sankara, giải thoát là do bởi tri thức (jnanamarga), và
nó là giải thoát thành satcitananda (hoặc saccidananda),
một thuật ngữ được làm thành bởi ba từ ngữ: sat: hiện
hữu, thực thể tuyệt đối, vĩnh cửu và thường hằng, cit: ý
thức tuyệt đối, và ananda: ân sủng, tức là đại hạnh phúc.
Cũng còn chưa nhất quán?
Ở đây, dường như có mấy câu hỏi căn bản đặt ra cho
satcitananda.
a. Có phải trạng thái đó — như được gợi ra bởi từ ngữ cit
— ngụ ý môt ý thức tuyệt đối? Nếu như thế, trong trạng thái ấy,
người ta có thể ý thức cái gì?
b. Nếu nó là trạng thái hiện hữu Atman vô tận và hằng cửu, hiệp
làm một với Brahman, thì ở đó, còn cái gì khác nữa để người ta
nhận thức?
c. Cũng thế, nếu bằng một cách nào đó, Atman là tự ý thức, thì
còn cái gì khác nữa để có thể nói là cái đó ở trong trạng thái
đại hạnh phúc?
d. Và hiệp nhất trong trạng thái đại hạnh phúc đó cũng có nghĩa
là Atman và Brahman có nhân cách (personal), nhưng Sankara quả
quyết rằng Brahman ở bên trên nhân cách.
Có thể giải quyết vấn nạn ấy tới một mức độ nào đó bằng cách đưa
ra sự phân biệt giữa Nirguna Brahman (thực tại phi phẩm tính) và
Saguna Brahman (thực tại có phẩm tính), rằng ta có thể biết tới
cái thứ hai, nhưng không thể biết tới cái thứ nhất. Nhưng hình
như Sankara lại luôn luôn muốn có cả hai cách:
1. Có khả năng nói về Brahman, nhưng cùng lúc đó, đồng hóa ngài
một cách tuyệt đối với cái mà ta không thể nói tới, và
2. Ðề nghị một trạng thái nhận thức và đại hạnh phúc mà không
thể cung cấp bất cứ nội dung nhận thức hay đại hạnh phúc nào.
Thí dụ minh họa của Sankara
Sankara cố gắng phô bày mối quan hệ giữa cái tuyệt đối và cái
đặc thù mà nó dự phần vào đó bằng cách sử dụng hình ảnh dưới
đây.
Có một số chậu đầy nước. Mặt trời rọi xuống và được phản chiếu
trên mặt nước trong mỗi chậu. Cũng chỉ một mặt trời ấy thôi
nhưng được thấy bằng nhiều phản ảnh khác nhau. Cũng giống y như
thế, Brahman có thể xuất hiện cho mỗi cá nhân như là Atman của
người ấy, trong khi vẫn chỉ là một Brahman duy nhất.
Cũng một cách thức như thế, giống với ánh sáng bị khúc xạ qua
khối pha lê trong suốt vô sắc nhưng lại cho ra toàn bộ quang phổ
các sắc màu, tới độ chúng ta có khuynh hướng giả định rằng thực
tại được chúng ta nhận thấy bằng giác quan của mình là thực tại
chân chính, nhưng trong thực tiễn, nó bị giới hạn và nó là thành
phần của thế gian ảo giác (maya).
Phê bình Samkhya
Triết hệ Samkhya cho rằng kết quả hiện hữu trước trong nguyên
nhân của nó, Sankara phê bình luận cứ ấy trên cơ sở rằng điều ấy
sẽ dẫn tới một sự đi ngược trở lại tới vô tận: nếu mọi sự đều
tùy thuộc vào tiềm năng trước đó, và cứ thế, thì làm thế nào có
cái gì đó có thể trở thành có thật ở vị trí đầu tiên?
Quả thật, ông lập luận rằng, trong thực tế, nguyên nhân và kết
quả thì đồng hóa. Chúng ta thấy chúng hoàn toàn khác nhau vì đó
là cách thức qui ước trong đó chúng ta có thể trải nghiệm chúng.
So với triết Tây:
Ðây thêm một điểm cho thấy Sankara rất gần với Kant. Kant lập
luận rằng không gian, thời gian và quan hệ nhân quả là thành
phần của chúng ta tri giác các vật, chứ không là đặc tính của
các vật như chúng hiện hữu tự thân. Cũng một cách như thế,
Sankara lập luận rằng nguyên nhân và kết quả như hai cái tách
biệt thì chỉ có tính qui ước, về mặt tối hậu, chúng đồng hóa.
Thế giới của trí năng
Sankara cũng lập luận rằng:
a. Không vật vô tri vô giác nào — trừ phi nó là một công cụ được
hữu thể có tri giác sử dụng — có thể làm được gì để đạt tới cứu
cánh, mục đích;
b. Tuy thế, thế giới dường như có cứu cánh;
c. Do đó, nên xem thế giới như một sản phẩm của trí năng.
Ông phát biểu điều ấy theo lối dùng phép loại suy của chính ông:
đất sét cần người làm bình mới có thể trở thành chiếc bình.
So với triết Tây:
Ðó là lối giải thích của Sankara về điều mà rất lâu về sau, tại
Tây phương, thành ‘luận cứ phát sinh từ sự thiết kế’ hoặc ‘luận
cứ mang tính cứu cánh luận’ được Thomas Aquinas, giữa thế kỷ 13,
sử dụng. Và sau đó, William Paley, cuối thế kỷ 18, nêu lên về
việc ông lượm được chiếc đồng hồ giữa đường. Qua việc xem xét
máy móc của nó, ông bị buộc đi tới kết luận rằng phải có người
chế tạo chiếc đồng hồ ấy.
Luận cứ này chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế dựa trên cơ sở
cứu cánh và thiết kế có thể tri giác được trong thế giới này.
Sankara phê bình Phật giáo
Ðúng tác phong của một triết gia, Sankara không ngần ngại phê
phán lập trường của các triết thuyết đối nghịch. Ở trên, chúng
ta đã đề cập tới lời phê bình của ông khi ông đánh giá triết hệ
Samkhya. Ông cũng phê bình triết học Phật giáo về một chủ đề cốt
tủy.
Phật giáo cho rằng (xem chương kế) mọi sự vô thường tận gốc rễ,
và các thành phần (dharma) làm nên thế giới hiện hữu đều là
những sự cố nhất thời. Do đó, trong triết học Phật giáo, cái ngã
(atman, atta) không hiện diện, không thường tại mà gồm có năm
uẩn (shandkha) liên tục biến đổi và hiệp cùng nhau tạo thành giả
hợp ở từng điểm trong thời gian. Nói như Joseph Goldstein, một
hành giả và tác giả Phật giáo người Mỹ (1944- ) rằng: ‘Cái mà ta
gọi là cái ta chỉ là ngũ uẩn đang hiện hành vô chủ’.
Sankara không chấp nhận quan điểm đó. Cách riêng, ông lập luận
rằng nếu không có cái gì thường xuyên tồn tại từ khoảnh khắc này
tới khoảnh khác kế tiếp thì thật rất khó có thể giải thích các
hiện tượng của ký ức hoặc của sự thừa nhận. Theo Sankara, nếu
tôi nhớ lại điều gì đó, nó có ngụ ý rằng có một cái ‘Tôi’ ở đó
cả trong quá khứ lẫn trong hiện tại. Và dĩ nhiên đối với ông,
cái ‘Tôi’ đó là atman, tối hậu hiệp làm một với Brahman, thực
tại nền tảng. Cái ‘Tôi’ đó hiện hữu liên tục dẫu cho mọi sự khác
trong thế giới kinh nghiệm đều chỉ là ảo giác (maya) và là đối
tượng của biến đổi.
Một chỗ cho tôn giáo
Triết hệ Vedanta của Sankara chừa một phạm vi nhỏ cho lòng sùng
mộ và tận hiến tôn giáo mà ông thấy đó chỉ như một khởi điểm,
không hơn không kém.
Từ khởi điểm đó, con người vẫn phải tiếp tục chuyển dịch để
triển khai tri thức sâu sắc, sở đắc trầm tư mặc tưởng, nhằm đạt
tới giải thoát (moksa).
Các
hệ phái vedanta
Từ thế kỷ thứ 8 SCN tới thế kỷ 15, có triển khai các hệ phái
Vedanta khác nhau. Có ba truyền thống chính là:
1. Phi nhị nguyên chính thống (Advaita-vedanta).
2. Phi nhị nguyên có phẩm tính (Visistadvaita-vedanta).
3. Nhị nguyên luận (Dvaita-vedanta).
1/ Phi nhị nguyên chính thống:
Truyền thống phi nhị nguyên (Advaita-vedanta) triển khai một
cách chính thống lối tiếp cận phi phẩm chất do Sankara đề ra. Ta
có thể tóm tắt nó ở dạng đơn giản nhất như sau:
1. Cái là thật thì thường hằng và không thể biến đổi;
2. Các đối tượng chúng ta trải nghiệm trong thế giới này đều
không thật vì:
- chúng biến đổi.
- không thể nào nói ở cấp độ nào chúng có thể là thật.
Nói cách khác, cái gì là thật: vải hay các sợi chỉ? đất sét hay
cái bình?
3. Bản ngã (cái tôi) không là thành phần của thế giới chúng ta
trải nghiệm, đúng hơn, nó hiển nhiên. Nó không thể nào giống với
thể xác ‘của tôi’, vì nó là cái ‘Tôi’ được hàm ý bằng ‘của tôi’;
4. Do đó, cái thật một cách tối hậu là Brahman/Atman — cái ‘bản
ngã’ ở bên trong mọi sự . Nó là Hữu thể Thuần túy và Ý thức
Thuần túy;
5. Cho dù về mặt qui ước, vạn vật được nói là hiện hữu, nhưng về
mặt tối hậu, mọi sự khác với Brahman/Atman đều chỉ giống như
giấc mộng.
2/ Phi nhị nguyên có phẩm tính:
Phân hóa của Vedanta đưa tới thuyết phi nhị nguyên thứ hai với
khái niệm về phẩm tính giống như của Saguna Brahman. Hệ phái
Visistadvaida-vedanta khẳng định thực tại khách quan của thế
giới vật chất (achit), của các linh hồn cá thể (chit) và của
Thượng đế (Isvara). Truyền thống thứ hai này kết hiệp một cách
đặc thù với Ramanya (1017-1137 SCN).
Duy trì quan điểm hữu thần về thực tại, Ramanya tập trung chú ý
vào mối liên hệ giữa Thượng đế và thế giới. Trong khi đối với
Shankara, Ðấng Tuyệt đối Brahman phi nhân cách, phi phẩm tính
còn đối với Ramanya, Ðấng Tuyệt đối Isvara có nhân cách, có phẩm
tính. Ông tuyên bố rằng
a. Thượng đế có thật và độc lập;
b. Linh hồn cá nhân có thật;
c. Thế giới có thật;
d. Chân thiện mỹ đều có thật;
đ. Linh hồn, thế giới, chân thiện mỹ không độc lập; chúng phải
dựa vào Thượng đế để hiện thực.
Như thế, các giá trị cá nhân đều phụ thuộc vào Thực tại vô ngã
tối hậu. Và thái độ hiến thân cho Thượng đế khiến cho con người
nhận ra bản thân mình là phần mảnh của ngài. Quan điểm ấy có
những nội hàm về bản tính của bản ngã. Ðối với Sankara, bản ngã
(atman) trong thực tế cũng chính là Brahman, và chính sự nhận
thức tính đồng nhất đó đưa tới giải thoát (moksa). Còn đối với
Ramanya, dù bản ngã có trở nên làm một với Thượng đế đi nữa, nó
không đồng hóa với ngài mà vẫn tồn tại sự phân biệt. Nếu không
có sự phân biệt ấy, bản ngã không có bản sắc của chính nó. Ðó là
lý do khiến cho ta còn có thể gọi lối tiếp cận của truyền thống
này là phi nhị nguyên hữu phân biệt.
Chứng nghiệm cái thật
Lối tiếp cận mang bản sắc Visistadvaita đề ra sự xét nghiệm rạch
ròi cái được đánh giá là thật. Nếu có cái nào đó được tri giác
theo hai cách mâu thuẫn nhau, thế thì chắc chắn có một trong hai
tri giác đó sai.
Như trong một thí dụ được nhiều người sử dụng nhất, trong khi
tôi nghĩ rằng bề dài của đoạn dây thừng kia trong thực tế là con
rắn, nhưng có ai đó thấy nó chỉ là đoạn dây thừng thôi, thế thì
phải có một trong hai tri giác ấy sai. Nói cách khác, nếu không
có ai tranh cãi về cái được tri giác thì ta không có lý do gì để
thắc mắc, và lúc đó, nên chấp nhận điều ấy là thật. Trên một qui
mô lớn, so với lối tiếp cận Advaita-vedanta, lối tiếp cận của
Ramanya ở đây dường như thích hợp hơn với cảm quan chung, thường
tri giác sự vật theo lẽ thường.
So với triết Tây:
Cũng như nội hàm của thuyết hữu thần (theism) Tây phương,
Ramanya cho rằng cuộc sáng thế là sự phô diễn nhân cách của
Thượng đế.
3/
Nhị nguyên luận Vedanta:
Dvaita-vedanta,
nhị nguyên luận Vedanta, là hệ phái thứ ba trong ba triết hệ
triển khai của Vedanta. Lối tiếp cận của truyền thống Dvaita
được qui cho triết gia Madhva (1199-1278), nó còn được gọi là
Madhvacarya hoặc Anandatirtha. Madhva đặt năm đối lập sau đây
làm nguyên lý:
1. Giữa Thượng đế và linh hồn cá nhân;
2. Giữa Thượng đế và vạn vật;
3. Giữa linh hồn cá nhân và vật chất;
4. Giữa những linh hồn cá nhân khác nhau;
5. Giữa những phần khác nhau của vật chất.
Ðối với Madhva, có ba thực thể tách biệt nhau: Thượng đế, linh
hồn, và thế giới. Tuy cả ba đều là thực tại và hằng cửu nhưng
linh hồn và thế giới phải tùy thuộc vào Thượng đế. Như thế, ta
thấy Madhva chấp nhận:
a. Một Thượng đế có nhân cách. Theo ông, đó là Visnu, thần tác
động và bảo tồn.
b. Sự hiện hữu có thật của các bản ngã hữu hạn.
c. Sự hiện hữu có thật của thế giới khách quan
d. Tận hiến cho Thượng đế là điều kiện thiết yếu để đạt giải
thoát.
Tuy giống lối tiếp cận của hệ phái Visistadvaita nhưng Madhva đi
xa hơn bằng cách đề ra chủ trương nhị nguyên tính căn bản giữa
Thượng đế — thực tại độc lập và duy nhất — với mọi sự khác phải
hoàn toàn tùy thuộc vào ngài. Do đó, các vật cá thể đều tách
biệt nhau (như thế, quan điểm này đối lập với lối tiếp cận phi
nhị nguyên), nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau (như
trong trường hợp của triết hệ Nyaya-Vaisesika) vì chúng đều tùy
thuộc, như nhau, vào Thượng đế.
Quả thật, Madhva tuyên bố rằng Thượng đế là nguyên nhân hiệu ứng
của vạn vật, nhưng ngài không là nguyên nhân chất liệu — vật
chất thì hằng cửu, các linh hồn cá thể cũng hằng cửu, nhưng tất
cả chỉ tiếp tục hiện hữu do bởi Thượng đế muốn chúng như thế.
Ðối với Madhva, Thượng đế không là nguyên nhân chất liệu của thế
giới vì tính tri giác và tính vô tri giác đều hoàn toàn khác hẳn
nhau, và cái này không thể chuyển đổi thành cái kia.
So với triết Tây:
Thuyết nhị nguyên của Madhva khá giống với truyền thống thần
luận chủ nghĩa (Deism) của Tây phương, trong đó Thượng đế được
coi là đấng khởi đầu và đấng kiểm soát ngoại tại của vũ trụ.
Nhưng trong thực tế, Dvaita-vedanta khá giống với phiếm thần chủ
nghĩa (panentheism) hơn, do bởi Thượng đế trong triết thuyết của
Madhva liên quan tới cuộc sinh tồn đang tiếp diễn của vạn vật
trong thế giới.
Nhị nguyên luận và giải thoát
So với chủ trương của các triết phái trước ông, Madhva giới
thiệu một quan điểm rất khác biệt về giải thoát của linh hồn.
Ông gợi ý rằng, xét theo giá trị nội tại, các linh hồn được xếp
vào ba phạm trù khác nhau:
1. Những linh hồn tối hậu sẽ đạt giải thoát;
2. Những linh hồn trụ vĩnh viễn trong luân hồi;
3. Những linh hồn ở lại trong trạng thái khổ não vĩnh viễn.
Ông chứng minh cho quan điểm đó bằng lập luận rằng dù quá trình
tiến hóa tới giải thoát tùy thuộc vào karma (nghiệp báo) nhưng
vì mỗi cá nhân có một tính khí nội tại đưa tới việc thể hiện các
hành động cá biệt khác nhau, nên mỗi cá nhân chịu đau khổ hoặc
hưởng phúc lợi, một cách cá biệt, từ các hệ quả của các hành
động của mình.
Sở dĩ có những linh hồn phải chịu đọa đày vĩnh viễn là vì chúng
nghĩ rằng chúng độc lập, trong khi những linh hồn được chấp nhận
cho giải thoát biết rằng chúng hoàn toàn lệ thuộc vào Thượng đế.
Madhva còn rướn thêm một bước nữa với lập luận rằng việc được
giải thoát hay bị đọa đày đều tùy thuộc vào ý muốn của Thượng đế
— và như thế, có thể cho rằng chính Thượng đế thiết lập tính khí
cố hữu của mỗi cá nhân, cái đưa tới nghiệp báo luân hồi hay đưa
tới giải thoát.
So với triết Tây:
Ở đây, lập trường của Madhva có nhiều điểm tương đồng với tư
tưởng qui thuận của Kitô giáo, và cách riêng với các ý tưởng về
sau mang tính Calvin chủ nghĩa về thuyết tiền định giải thoát.
Có rất nhiều người tin rằng Madhva đã chịu ảnh hưởng khi ông
tiếp xúc với các cộng đồng Kitô giáo ở miền nam nước Ấn.
Tổng kết vedanta
Lúc này, chúng ta đã thấy rõ ràng rằng Vedanta là một phạm vi
mênh mông của triết học Ấn Ðộ. Triết hệ ấy gồm vào bên trong nó
nhiều hệ phái, nhiều quan điểm khác nhau, cả những cụ thể lẫn
những huyền ảo, cả phi nhị nguyên lẫn nhất nguyên, cả những khái
niệm khác nhau về Thượng đế, thái độ đối với Thượng đế các biệt
và vai trò của tôn giáo.
Tuy thế, nói chung, chúng ta cần nhớ rằng triết hệ Vedanta biểu
hiệu sự triển khai muôn hình muôn vẻ các Upanishad, và rằng cùng
với việc chấp nhận thẩm quyền của kinh sách thiêng liêng, triết
hệ ấy còn chấp nhận cả tri giác lẫn sự suy ra, xem cả ba là
những nguồn có giá trị của tri thức.
5
Các trường phái triết học phi chính thống
Các trường phái triết học vừa được trình bày tổng quát ở trên
đều triển khai bên trong truyền thống chủ lưu của kinh Veda. Các
truyền thống khác — gồm cả Phật giáo và Kỳ Na giáo mà chúng ta
sẽ xem xét trong các chương sau — được triển khai tách biệt, có
liên hệ một cách đặc thù với khu vực đông bắc Ấn Ðộ, nơi thuở ấy
có địa danh là Magadha và ngày nay là Tây Bengal và Bihar.
Ngoài hai trường phái được gọi là phi chính thống vì không chấp
nhận thẩm quyền của kinh Veda ấy, còn có các trường phái phi
chính thống khác. Giáo sư Karel Werner, thuộc phân khoa Tôn
giáo, Ðại học London, Anh, đã trình bày những nét đại cương mà
đầy hấp dẫn của các trường phái ấy trong cuốn Encyclopedia
do nhà Routledge xuất bản năm 1997. Ông mô tả một khu vực
chịu sự cai trị của Viatyas, liên bang các bộ tộc Aryan.
Trường phái Vratya
Người ta tìm thấy trong trường phái Vratya nhiều luận cứ liên
quan tới kinh Atharva Veda: Nhương tai minh luận, và những tham
chiếu tản mác từ các nguồn khác. Ðây là một triết thuyết thần
bí, trong đó thuật ngữ Vratya được dùng để chỉ quyền năng sáng
tạo vũ trụ, được cá nhân hóa bằng danh xưng Ekavratya — cũng
được gọi là Mahadeva, đấng Thượng đế vĩ đại, một thuật ngữ được
dùng để chỉ thần Siva, đấng hủy diệt. Từ Thượng đế vĩ đại ấy
xuất hiện Brahmachari, đấng lang thang trong vũ trụ, kẻ kiến tạo
thế gian, gây cho nó thụ thai, và như thế, làm phát sinh tính
chất vô số trong thế giới kinh nghiệm của chúng ta.
Tam vị nhất thể — Vratya, Ekavratya và Thế gian — được tái diễn
xuất trong một nghi lễ phồn thực. Thực hiện nghi lễ ấy gồm một
tôn sư, môn sinh và một người nữ phụ tá, trong một cuộc giao
hoan tính dục có tính cách tế lễ, được gọi là mathuna.
Xét theo thuật ngữ tôn giáo, mục đích của nghi lễ ấy là đi ngược
trở lại quá trình kiến tạo để tái sở đắc siêu việt tính ở quá
bên kia tính chất vô số của thế giới kinh nghiệm của chúng ta.
Diễn tiến ấy đưa tới sự từ bỏ thế gian làm một brahmachari
độc thân, người trẻ tuổi tự nguyện khai tâm và điểm đạo, để đi
theo cuộc sống tôn giáo, rèn luyện tâm linh và tuyên đọc lời
khấn nguyện tu hành đầu tiên. Và khi đã đi trọn con đường dạo,
thiếu niên ấy được gọi là một ekavratya hoặc arhat (la hán).
Ở đây, chúng ta cần để ý sự tái diễn có tính nghi lễ quá trình
tạo dựng thế giới, với tính dục của con người phản chiếu cuộc
sáng tạo cơ bản trong vũ trụ. Lúc ấy, phản ứng lại quá trình đó,
có sự đảo ngược diễn tiến bằng thái độ từ khước thế giới để đi
tìm sự hiệp nhất đầy bí nhiệm và cao hơn.
Hình tượng tính dục ấy và việc sử dụng tính dục như một hành
động phô diễn sự sáng tạo cũng xuất hiện trong Mật Tông (xem
chương 7), dù người ta vẫn không biết chắc chắn rằng nó có nối
kết nào đó với triết thuyết Vratya hay không; tất cả chỉ đang
trong suy đoán.
Trường phái Carvaka
Triết học Carvaka còn gọi là Lokayata, mang tính duy vật
chủ nghĩa. Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong các sử
thi và cả trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng
chỉ có thể biết là hiện hữu những gì ta tri giác được. Không có
thế giới bên kia: chết là hết. Niềm tin vào những cái như thế bị
xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng chứng hợp lý luận cho
tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy ra
như một nguồn có giá trị của tri thức mới vì không thể chứng
minh nó một cách vô điều kiện.
Chỉ nên chấp nhận sự suy ra nếu kết quả của nó ít nhất, về mặt
nguyên tắc, có thể tri giác được. Nhưng như Werner vạch rõ, sự
giả định có tính duy vật chủ nghĩa cơ bản ấy — nghĩa là ‘cái gì
không thể thấy thì không thể hiện hữu’ — không thể tự chứng minh
nó là đúng hoặc sai. Do đó, nó vỏn vẹn chỉ là một yêu cầu siêu
hình, một chọn lựa cách thức thông giải kinh nghiệm của mỗi
người
Ðối với triết thuyết duy vật chủ nghĩa ấy, ý thức thì đơn giản
chỉ là kết quả của các thành tố hợp cùng nhau làm thành con
người, giống như ngây ngất say rượu là kết quả của quá trình lên
men trong một thức uống.
So với triết Tây:
Quan điểm này của Lokayata khá giống với dạng yếu của Lý thuyết
Xác minh (Verification Theory) được những người theo thuyết thực
chứng luận lý triển khai. Họ cho rằng khi nói cái gì đó là hiện
hữu, ta cần phải có khả năng nói tới loại chứng cớ nào có thể
được tính đến để chứng minh hoặc bác bỏ sự hiện hữu của nó.
Ý tưởng của Lokayata về bản ngã, nếu nói theo thuật ngữ Tây
phương, hẳn có thể gọi là phụ tượng chủ nghĩa
(epiphenomenalism), nghĩa là cho rằng tâm trí là một hiện tượng
phát sinh trên cơ sở thể xác vật lý.
Bản ngã theo Loyakata
Trong trường phái Loyakata, có nhiều quan điểm khác nhau về bản
ngã:
a. Một số đồng hóa bản ngã, một cách đơn giản, với các thành
phần vật chất được nuôi dưỡng bằng thực phẩm — rất giống lối
tiếp cận ‘Bạn chính là cái bạn ăn vào’;
b. Một số đồng hóa bản ngã với năng lực của trí giác giác quan;
c. Trường phái thứ ba đồng hóa bản ngã với sinh lực;
d. Còn có một trường phái nữa chấp nhận sự hiện hữu riêng biệt
của tâm trí dù chính tâm trí cũng bị họ xem là có khả năng bị
diệt vong.
Ðạo đức học Lokayata
Khởi đi từ niềm xác tín rằng bên kia cõi chết chẳng có gì sống
sót, đạo đức học Lokayata chủ trương rằng ta nên hưởng thụ khoái
lạc tới mức cao nhất có thể được, và cho rằng hạnh phúc cao cả
nhất là được phụ nữ xinh đẹp ôm ấp. Lokayata bảo rằng chuyện tế
lễ và việc học hỏi các kinh Veda chẳng đạt tới cái gì cả. Do đó,
tốt nhất nên để những cái đó cho những kẻ thiếu trí năng và
thiếu đàn ông tính.
Mặt khác, lời dạy của Lokayata quả quyết rằng việc theo đuổi
khoái lạc không nên gây đau khổ cho kẻ khác. Vì thế, người theo
Lokayata chống lại việc cúng tế súc vật và chiến tranh.
Cho tới nay, người ta vẫn chưa tìm thấy văn bản gốc nào của
Carvaka - Lokayata. Chúng ta chỉ biết tới triết thuyết này qua
những nỗ lực bác bẻ nó của các trường phái chính thống. Nó được
trình bày khá đầy đủ trong các khảo luận triết học của
Sankaracarya, có tên là Sarvasitdanta Sangraha, nghĩa là
‘Ðiểm qua tất cả các học thuyết’. Triết thuyết này bị các hiền
giả chỉ trích, nhưng rất khó có thể nghi ngờ rằng nó được đại
chúng ưa thích nhất.
Tuy thế, khi tới phần xem xét Phật giáo, chúng ta sẽ thấy giáo
thuyết ấy tự ngụ ý là Trung đạo. Có thể hiểu khái niệm đó bằng
nhiều cách, hoặc như một cân bằng giữa lối sống xa hoa phóng
đãng và chủ nghĩa khổ hạnh, hoặc giữa hằng cửu chủ nghĩa và hư
vô chủ nghĩa, nhưng dựa vào bối cảnh các nguồn gốc của nó, có lẽ
đó là một trong những cách có liên quan tới lập trường giữa chủ
nghĩa khổ hạnh chính thống Ấn giáo và chủ nghĩa khoái lạc duy
vật chất của Carvaka.
So với triết Tây:
Ở đây, Lokayata có điểm tương đồng hiển nhiên nhất với khoái lạc
chủ nghĩa (hedonism) của Epicurus. Ðó là chỗ nó chấp thuận khoái
lạc làm mục đích có giá trị cao cả trong cuộc sống. Thế nhưng
trong khuôn khổ những giới hạn được đặt ra trên con đường theo
đuổi sự sung sướng, thí dụ, không gây đau khổ cho kẻ khác,
Carvaka-Lokayata lại có những điểm tương đồng với đạo đức học
duy thiết thực chủ nghĩa (utilitarianist ethics) của Tây phương.
6
Cuộc sống: cứu cánh và đạo đức học
Kinh Veda mô tả trật tự tự nhiên của vạn vật là rta, một
khái niệm chẳng bao lâu sau bị thay bằng các ý tưởng về Brahman
và Dharma. Rta là lề luật, trật tự cố định, cũng được hiểu là
chân lý sống động bắt nguồn từ Thượng đế và tác động qua ngài.
Chân lý, trật tự thiêng liêng rta ấy đem phúc lợi và hạnh phúc
tới cho mọi người.
Rta và Dharma
Hết thảy các thần linh được mô tả muôn hình muôn vẻ trong kinh
Veda đều có mặt ở đó để duy trì rta. Và loài người có thể duy
trì rta qua các nghi lễ cúng tế và qua sự thể hiện các nghĩa vụ
của mình. Nếu thi hành những điều ấy, họ nhận được phúc lợi đi
kèm theo các rta của chúng.
Do đó, từ các kinh Veda, chúng ta có khái niệm đạo đức nền tảng:
đó là Dharma. Như đã trình bày, hiểu một cách khái quát,
Dharma là Pháp. Và có thể hiểu Dharma là hành động chân chính
hoặc thích đáng, hoặc nghĩa vụ — là cái duy trì xã hội, bảo đảm
cho con người và xã hội luôn luôn theo đúng trật tự tự nhiên của
vạn vật.
Về sau, trong Bhagavad Gita, khái niệm ấy được diễn tả bằng
svadharma, nghĩa là pháp cho bản thân hoặc luật tắc cho
riêng mỗi người. Nói cách khác, mỗi người có nhiệm vụ cá biệt
phải thể hiện, và svadharma của ta chính là dharma của ta khi áp
dụng đặc thù cho riêng bản thân ta. Svadharma là luật bên trong
cá nhân mỗi người và luật ấy phải hòa hợp với ý muốn của thần
linh.
Varnasramadharma
Rõ ràng, svadharma — luật tắc cho riêng mình — biến đổi theo với
người này và người nọ tùy vào hoàn cảnh cá biệt của mỗi người.
Dharma của ta thì tùy thuộc màu sắc (varna) của bản thân
ta và tùy vào từng giai đoạn nhất định (asrama) trong
cuộc đời ta.
Trong xã hội Ấn Ðộ, ngay từ thời cổ đại, đã có sự khác biệt đẳng
cấp thành bốn nhóm chính — hoặc varna — một từ ngữ có lẽ được
dùng để phân biệt người Aryan nhập cư nước da nhạt với cư dân
bản địa nước da sậm hơn, những kẻ bị họ xâm chiếm, với những kẻ
họ cộng sinh. Do đó, dharma của mỗi người tùy thuộc vị trí của
người đó trong hệ thống đẳng cấp của xã hội.
Có bốn đẳng cấp:
1. Ðẳng cấp Brahmin (Bà la môn, giới tư tế).
2. Ðẳng cấp Kshatriya (nhà cai trị hoặc chiến sĩ).
3. Ðẳng cấp Vaishya (thương buôn).
4. Ðẳng cấp Shudra (người lao động).
Các đẳng cấp có tính kế tục gia tộc nên còn được gọi là tập cấp.
Trong mỗi đẳng cấp lại chia thành rất nhiều hệ cấp. Ngoài bốn
đẳng cấp ấy là những người hạ đẳng (pariah), không được xếp vào
đẳng cấp nào. Hệ thống đẳng cấp đó đã có sẵn trong Purusa
Sukta của Rig-Veda, là bộ sớm sủa nhất trong các kinh Veda;
bộ ấy được soạn trong khoảng từ thế kỷ 12 tới thế kỷ 8 TCN.
Thứ bậc đẳng cấp được trình bày một cách sinh động bằng đồ biểu
dưới dạng phân chia con người nguyên thủy: Brahmin là cái đầu;
Kshatriya là cánh tay; Vaishya là bắp đùi; và Shudra là bàn
chân. Hình tượng ấy gợi cho thấy tính tương thuộc và hòa điệu
cho dẫu có những khác biệt tận gốc rễ về địa vị và chức năng tới
độ không làm thông gia với nhau.
Cùng với varna, còn có một thành tố có tính quyết định cho
dharma của mỗi người, đó là giai đoạn nhất định trong cuộc đời
mình, tức là asrama. Ðời của một người đàn ông có bốn
giai đoạn:
1/ Brahmacarya: giai đoạn tuổi trẻ, sống độc thân, được
khai tâm điểm đạo để lo tu học.
2/ Grhasta: giai đoạn lập gia đình, sống làm chủ hộ.
3/ Vanaprasta: giai đoạn sống ẩn dật trầm tư mặc tưởng.
4/ Sannyasa: giai đoạn từ bỏ thế tục, làm tu sĩ hành cước
khất thực.
Varnasramadharma,
bổn phận cá nhân, kết hợp của ba từ ngữ: varna, asrama
và dharma, nghĩa là pháp (lề luật sống) tùy vào đẳng cấp
và giai đoạn trong đời mỗi người. Mỗi giai đoạn trong đời có
những nghĩa vụ tương ứng. Nói cách khác, bổn phận được ấn định
theo từng đặc tính tuổi đời và theo ‘màu sắc’ của người ấy.
Ðặc điểm đạo đức học Ấn
Như thế, điểm đặc biệt và chủ yếu của đạo đức học Ấn Ðộ là sự
uyển chuyển thừa nhận rằng con người ta ở mỗi địa vị khác nhau
trong xã hội, vào mỗi giai đoạn khác nhau trong cuộc đời, sẽ có
những định chuẩn khác nhau về động thái — tác phong hạnh kiểm.
Lối tiếp cận như thế luôn luôn tạo lợi thế cho thực tiễn áp
dụng, không cần phải liên tục điều chỉnh các luật lệ đã tổng
quát hóa để thích nghi với các nhóm đặc thù.
Mặt khác, trong một hệ thống đẳng cấp với quá nhiều hệ cấp như
thế, thật khó phân biệt cái gì đúng cái gì sai theo bất cứ ý
nghĩa tuyệt đối nào, đồng thời khó đánh giá cái gì đơn thuần
phản ánh cấu trúc xã hội. Cũng thật khó không để cho xã hội định
chế hóa cái được xem là không công bằng, hiểu theo lối nói có
tính tuyệt đối chủ nghĩa. Do đó, khi phê phán hệ thống đẳng cấp
của Ấn giáo, người ta thường có thói quen đứng từ quan điểm nhân
bản chủ nghĩa Tây phương, phát xuất từ một xã hội được giả định
rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng.
Sống với bốn mục đích
Trong kinh Veda, có một tập hợp các sutra liên quan một cách đặc
thù tới sự phô diễn Dharma, trong đó cái quan trọng nhất là
Munudharma Sastra (hay Munusmrti). Kinh này có trước
các triết hệ. Nó là tác phẩm đầu tiên và quan trọng nhất, được
dùng làm cơ sở cho xã hội Ấn Ðộ.
Kinh ấy không chỉ quan tâm tới luật lệ (Dharma) mà còn chú trọng
tới nhiều mặt của xã hội Ấn Ðộ ngày xưa. Ban đầu, kinh có tất cả
10.000 câu thơ, chia thành 24 chương. Nay chỉ còn 2685 câu thôi.
Manudharma Sastra đề ra bốn mục đích cho cuộc sống:
1. Dharma. Bổn phận và nghĩa vụ. Ðức hạnh, hạnh kiểm
đúng. Công bằng, chính đáng, ngay thẳng, đạo đức.
2. Artha. Của cải. Sở hữu tài sản. Khát vọng chiếm hữu
vật chất này không bị lên án trong chừng mực sự tìm kiếm nó
không vi phạm những yêu cầu đạo đức được qui định trong Dharma.
3. Kama. Khoái lạc nhục cảm, khát vọng, thèm muốn tính
dục. Trong Rig-Veda, dục vọng được trình bày như ý nguyện biểu
hiệu nguyên sơ của cái Tuyệt đối: ‘Dục vọng nảy sinh trong cái
Tuyệt đối, căn nguyên của ý thức, được các thánh nhân phát hiện
từ đáy lòng mình do những tìm kiếm sự hiệp nhất Thực tại tuyệt
đối với thế giới các hiện tượng’.
4. Moksa. Giải thoát. Thoát khỏi mọi hệ lụy trần thế,
vượt ra ngoài nghiệp báo và chu kỳ sinh tử luân hồi nhờ kết hiệp
với Thượng đế và hiệp nhất với Thực tại tối hậu.
Ở phần trước trong chương này, chúng ta đã xem xét mục đích thứ
tư, là giảøi thoát, vì đó là mục đích cao cả nhất, lớn lao nhất
và là đặc điểm quan trọng nhất trong các triết hệ cổ điển. Hai
mục đích thứ hai và thứ ba thừa nhận vai trò của khoái lạc tính
dục và các khoái lạc khác, cùng với sở đắc của cải như thuộc
phần giá trị của cuộc sống, với điều kiện chúng không đi ngược
lại Dharma mà làm thiệt hại cho kẻ khác.
Rõ ràng bốn mục đích ấy tương ứng với bốn giai đoạn trong cuộc
sống. Lúc thanh xuân, lo tu tập rèn luyện Dharma. Còn Artha và
Kama đặc biệt thích đáng cho giai đoạn lập gia đình và làm chủ
hộ, là lúc người ấy được kỳ vọng tích cực về mặt sinh hoạt kinh
tế và tính dục. Tới giai đoạn sau cùng là nhắm tới moksa.
Những phương cách giải thoát
Giống hệt Dharma là nguyên tắc tiềm ẩn trong cả bốn mục đích của
cuộc sống, giải thoát (moksa) cũng thế. Moksa là mục đích tối
hậu. Nó bàng bạc khắp các triết thuyết cổ điển của Ấn Ðộ. Có ba
con đường (marga) khác nhau dẫn tới giải thoát; hành giả
đi trên mỗi đường ấy với mục đích duy nhất là tinh tiến tâm linh
trong hiệp nhất với Thượng đế.
1/ Ðường thứ nhất: Karma marga
Theo truyền thống, có hai cách khác nhau trong thể hiện động
thái dẫn tới giải thoát.
Cách thứ nhất là đi theo con đường từ bỏ trần tục, kể cả gia
đình, làm người tu sĩ lang thang khất thực sannyasa, rút
lui khỏi cuộc thế xa hết sức có thể và sống như một nhà khổ
hạnh. Cách thứ hai là vẫn ở lại với nhân quần xã hội nhưng sống
với tác phong khiêm nhu, và theo một cách nào đó, phản ánh
svadharma, luật tắc của riêng mình.
Cả hai con đường ấy hiệp cùng nhau làm thành khái niệm karma
marga. Ðây là con đường được cổ vũ trong Bhagavad Gita, và
nó là ‘hành động nhưng không bị ràng buộc với kết quả của
hành động’. Nói cách khác, cả hai đều có chung ý nghĩa từ bỏ
theo nghĩa không mưu tìm sở đắc riêng tư, và như thế, ta có thể
tiến hành sự từ bỏ ấy trong khi vẫn can dự vào các hoạt động
trần thế.
Lập trường ấy dĩ nhiên được phản ánh trong những lời giảng dạy
sớm sủa nhất về Dharma, nhắm tới hành động cho cái thiện của xã
hội và đồng thời cũng phù hợp với bản ngã nội tâm của mỗi người.
Con đường hành động ấy bao gồm các giới phải giữ (yama)
và các đức hạnh phải trau dồi (niyama).
Các giới phải giữ gồm 5 cái:
1. Ahimsa. Bất tổn sinh, thường được diễn tả theo thể
mạnh là đừng sát sinh;
2. Satya. Nói thật, thường được bảo là đừng nói dối;
3. Asteya. Không trộm cắp;
4. Brahmacarya. Tiết chế tính dục, thường được bảo là
không tà dâm;
5. Aparigraha. Không tham lam, tránh hám lợi.
Các đức hạnh phải trau dồi gồm 5 cái:
1. Tinh sạch cả bên trong lẫn bên ngoài;
2. Hài hòa thanh thản;
3. Tự nguyện nghiêm khắc với bản thân.
4. Học tập với người khác;
5. Tận hiến cho Thượng đế.
2/ Con đường thứ hai: Jnana marga
Chúng ta đã thấy triết học đóng vai trò rộng lớn trong truyền
thống Ấn Ðộ. Jnana là tri thức, am hiểu. Con đường tri thức,
jnana marga, như chúng ta từng đề cập ở phần nói tới triết
hệ Vedanta, liên hệ tới sự thừa nhận tính đồng nhất của Atman
với Brahman; tri giác ấy được Sankara đánh giá là dẫn tới giải
thoát.
Ta cũng nên ghi nhận rằng học tập là đức hạnh thứ tư, cần phải
trau dồi trên con đường hành động.
3/ Con đường thứ ba: Bhakti marga
Con đường tận hiến. Trong khi khảo sát sự phát triển của triết
hệ Vedanta, chúng ta đã thấy làm thế nào cuối thiên niên kỷ thứ
nhất SCN, truyền thống Bhakti đã ra sức gây ảnh hưởng mạnh mẽ
lên toàn bộ truyền thống triết học Ấn Ðộ.
Nguyên ngữ, Bhakti nghĩa là yêu thương: yêu thương Thượng đế,
trung thành phục vụ tôn sư của mình (guru), và vị thần đã chọn
(istadevata). Như thế, con đường thứ ba này có những dạng khác
nhau và những mức độ khác nhau, tùy vào đối tượng nào của Bhakti
trong ba đối tượng ấy, hoặc cả ba.
Có thể truy tầm ngược trở lại dấu vết của con đường tận hiến do
bởi yêu thương này tới tận sử thi Bhagavad Gita, trong đó sự tận
hiến được xem như một phương cách thành tựu giải thoát. Lòng yêu
thương cao nhất đối với Thượng đế với tâm niệm chẳng có gì ở
ngoài Thượng đế và ngoài ý thức hiệp nhất với ngài. Từ đó, ta có
tình yêu không những xuất thần đối với Thượng đế, mà còn xuất
thần cực kỳ mạnh mẽ.
Dĩ nhiên toàn bộ truyền thống Bhakti hàm ý sự hiện hữu của một
đấng thần linh tối cao có nhân cách, và vì thế, truyền thống này
không là đối tượng chọn lựa của những người theo triết học phi
hữu thần chủ nghĩa (non-theistic philosophy).
Ahimsa: bất tổn sinh
Chúng ta đã thấy giới đầu tiên phải giữ trong năm giới là đừng
sát sinh. Trong tư tưởng Ấn Ðộ, ahimsa không chỉ đơn giản
là kiêng cử chớ sát sinh; nó còn liên quan tới việc phát triển
một thái độ tích cực đối với hết thảy những gì đang sống — mọi
sinh linh.
Nguyên ngữ, ahimsa là không dính líu tới bạo lực, không làm tổn
hại tới sự sống. Ý nghĩ, lời nói, hành động tuyệt đối tôn trọng
thể chất của mọi sinh linh. Mahatma Gandhi lấy nguyên tắc
ahimsa, bất bạo động, làm nền tảng cho toàn bộ phong trào giải
phóng Ấn Ðộ khỏi sự thống trị của người Anh.
Ahimsa là cốt tủy dưới dạng nhân sinh quan tổng thể của Ấn Ðộ.
Nó liên quan tới ý tưởng về nghiệp quả lẫn khái niệm chủ yếu
rằng mọi hữu thể đều có luật tắc của chính nó (svadharma): làm
điều bạo động đối với kẻ khác tức là phủ nhận việc người khác có
quyền sống theo cách thích đáng với họ. Ahimsa còn là thừa nhận
mối tương liên của toàn bộ sự sống.
Cần ghi nhận rằng ahimsa cũng là đặc điểm cốt tủy của hai triết
thuyết phi chính thống, sẽ được chúng ta xem xét riêng từng cái:
Phật giáo và Kỳ Na giáo. Ahimsa cực kỳ ăn sâu vào toàn bộ tư duy
xã hội và triết lý của Ấn độ.
So với triết Tây:
Trong chương đầu tiên này, chúng ta đã quan tâm tới các chủ đề
căn bản hình thành tư tưởng Ấn Ðộ, và vì dòng chảy của chủ đề
cũng như giới hạn của từng phần, chúng ta không có cơ hội dừng
lại để khảo sát các nhà tư tưởng cá biệt và hiện đại, tương ứng
với từng tiểu đề.
Họ từng theo học các đại học phương Tây. Công trình của họ được
trình bày bằng tiếng Anh, là một trong hai ngôn ngữ chính của Ấn
Ðộ, thích hợp với lối nhìn của con người thời nay, nhất là với
những độc giả quen với lối phân tích của triết học Tây phương.
Chúng tôi sẽ đề cập khai quát tới họ trong phần đọc thêm. Gồm
có: Swami Vivekenada; Mahatma Gandhi; Sri Aurobino; Radhakishna,
v.v.
Ngươi không phải là một tạo sinh, mà là sự biểu hiện |
|