Lá thư gửi
người bạn trẻ trong đạo :
Đôi lời tâm sự về Văn
hóa
và Phật giáo Việt Nam hải ngoại
Lời
tác giả:
Nhân dịp đức Đạt Lai Lạt Ma công du tại Gia Nã Đại và cho hai buổi
nói chuyện với công chúng tại Ottawa và Toronto, tác giả đại diện
cho một tờ báo Phật giáo tại San José, California, đi đến tham dự và
viết bài tường thuật đăng trên một diễn đàn của Nhóm Mật tông vùng
Đông Hoa Kỳ. Khi một người bạn đạo trẻ đọc bài tường thuật này, nói
về những tranh đấu của đức Đạt Lai Lạt Ma cho nhân quyền thế giới,
anh bạn trẻ viết lá điện thư hỏi tác giả về từ ngữ tranh đấu và bất
bạo động có gì trái ngược không.
Vì thấy tầm vóc của câu hỏi có liên quan nhiều đến vấn đề văn hoá và
dịch thuật, nhất là dịch thuật Phật pháp, cũng như trước những phong
trào bài bác các từ ngữ Hán Việt cũng như bài bác các thuật ngữ chư
Tổ đã đề xướng ra trong truyền thống Phật giáo Việt nam đã có từ
hằng ngàn năm nay, biện luận là các thuật ngữ Phật giáo gốc Hán Việt
đó quá khó hiểu, tác giả bài viết này chỉ muốn thảo lá thư tâm sự,
trình bày cái vốn văn hoá vô cùng quý báu đã có từ hơn 4000 năm của
dân tộc Việt, kết hợp với văn hoá Phật giáo và làm thành một kho
tàng văn hoá vô giá của dân tộc Việt nam.
Với hoài vọng thật đơn sơ: Mong cho các thế hệ trẻ hơn mình biết rõ
nguồn gốc văn hoá của dân tộc và yêu thương bảo tồn nền văn hoá vô
giá đó.
Chú H. thân mến,
Kể từ khi
chúng ta gặp nhau lần trước khoảng tháng 10 năm ngoái, cho đến nay
chúng ta vẫn chưa có dịp gặp nhau và hàn huyên cho thỏa chí như
chuyến đi lần trước qua thăm các anh chị em bạn đạo trong nhóm và
tham dự dịch thuật cho buổi nói chuyện với công chúng của thầy J.
Chú vẫn khoẻ chứ ? Trong lòng của tôi vẫn luôn nhớ tới các bạn cũng
như là nhớ nhiều đến chú, một người bạn đạo trẻ đầy sinh lực, năng
động và đầy tấm lòng hoạt động cho cộng đồng. Tôi vẫn nhớ như in
buổi tối hôm đó, trên đường chú lái xe chở tôi về nhà để ăn cơm và
đàm đạo cùng với một số các bạn đạo, để trao đổi những kinh nghiệm
tu tập. Con đường đi vòng quanh chân núi, ngang qua khu rừng thật
đẹp. Cho dù màn đêm có che phủ phần nào vẻ thiên nhiên hùng vĩ, tôi
vẫn cảm nhận sâu sắc và phải thốt lên là cảnh rừng thật là đẹp.
Điều này đã làm cho chú ngạc nhiên, và hỏi tôi rằng có phải tâm hồn
thi sĩ trong tôi đã làm cho tôi cảm thấy cảnh đẹp cho dù trong màn
đêm khó thấy? Tôi nhớ là có hứa sẽ gửi cho chú cuốn thơ tôi đã xuất
bản … mười năm về trước … Để rồi công việc lu bu, tôi đã quên đi và
cho đến giờ vẫn chưa gửi cho chú cuốn thơ…
Như là lời tạ lỗi,
tôi viết bài này gửi đến chú. Chia xẻ niềm khắc khoải trong đạo. Ăn
cơm có canh… tu hành có bạn phải không chú …Vậy, không chia sẻ cho
chú được thì còn chia sẻ cho ai được phải không? Cho chú cũng chính
là cho tất cả các bạn mà thôi. Vì các khắc khoải, đâu phải chỉ riêng
mình chúng ta có, phải không chú. Mình và người cũng như một mạch
tim huyết mà thôi chú ạ….
Mãi đến gần đây, khi tôi tham dự buổi nói chuyện công chúng của vị
đại đạo sư đương thời mà các phật tử Trung Hoa vẫn xưng tụng là vị
“Hoạt Phật”,
hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm đến từ cung điện Phổ Đà Lạc Giạ của
xứ tuyết… Ngài đã nói lên những lời tâm huyết cho thế giới, vận động
giải thể quân đội và chấm dứt chiến tranh… Ngài đã lên tiếng kêu gọi
và tranh đấu cho hòa bình thế giới… Và Ngài đã nhấn mạnh “ Muốn
Giải Thể Quân Đội và Chấm dứt chiến tranh trên thế giới thì chúng ta
phải Giải Thể Lòng Sân Hận trong Nội Tâm của mỗi một chúng ta”.
Tâm từ phải được gieo trồng mọc rễ sâu trong mỗi người thì Giải Thể
Quân Đội mới thành công. Tôi thầm nghĩ, chắc hẳn chúng ta, ai cũng
biết đến Ngài, vị Đạt Lai Lạt Ma tôn kính của chúng ta.
Nhưng mà
điều tôi muốn viết chia sẻ cho chú thực ra lại là một khắc khoải khá
riêng tư với chúng ta, với cộng đồng phật giáo Việt
Nam
tại hải ngoại. Chú nhớ không, vì trong bài viết tường trình cho các
đạo hữu, tôi đã dùng một từ ngữ tương đối cũ xưa, khi trong bài
tường thuật, tôi đã viết là “Ngài tranh đấu và vận động cho hòa
bình và cho lý tưởng bất bạo động, tranh đấu cho nhân quyền không bị
chà đạp…”
Dĩ nhiên khi tôi viết, tôi không thể tránh khỏi những thói quen và
từ ngữ tôi thường dùng trong khoảng thời gian mà tôi còn được theo
học trong trường lúc còn ở Việt
Nam,
thời gian khá xa xưa của nền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa trước khi
tôi rời khỏi Việt
Nam
đi du học. Còn chú dĩ nhiên là chú trưởng thành sau thời gian đó và
qua ngoại quốc lúc còn rất trẻ sau 1975, cho nên mặc dù chú rất tinh
thông tiếng Việt, nhưng không ít nhiều gi chú vẫn cảm thấy bỡ ngỡ
trước những từ ngữ cũ xưa đó…
Chú viết thư sau hỏi thăm tôi khi đọc bài tường thuật của tôi trên
mạng :
“ Hello anh L.,
Tại vì H. qua Mỹ sau 75 nên thấy chữ
"tranh đấu" dùng để nói đến Ngài hơi ngộ nghĩnh. Nhân đây
hỏi anh L. là trong tinh thần Phật Giáo về đề tài non-violence, thì
"tranh đấu" như thế nào mới đạt được
non-violence. Theo H. nghĩ, thay Thich Quảng Đức tự thiêu vì đạo
pháp, cũng là tranh đấu, nhưng cái violence này xảy ra chính trên
bản thân Ngài. Những người có đạo khác cho rằng đây là tội phản đạo
vì tự tử, Như vậy có phải mọi sự "tranh đấu" đều mang một màu sắc
violence không, ít hoặc nhiều.”
Chú còn viết thêm :
“À quên, sau 1975, hầu như trong mọi literature của chế độ mới, lúc
nào mình cũng thấy dùng những từ “tranh đấu” và “cách mạng”, cho nên
H. đã bị PT disorder”
Đọc thư chú, tôi không khỏi mỉm cười. Đây là một điểm khá “tiêu
biểu” về cách hành văn của chú. Đó là chú hay thêm những từ ngữ
chuyên môn bằng tiếng Anh vào câu để diễn tả cho chính xác một vấn
đề gì khi mà chú không rõ từ ngữ Việt phải dùng ra sao. Tôi để ý sau
này, những bạn văn trẻ của chúng ta cũng hay đan những bài viết chêm
thêm Anh ngữ, làm thành một phong trào mới, một sắc thái mới trong
nền văn hóa hải ngoại. Tôi phải công nhận là đọc những bài đó cũng
thấy ngộ nghĩnh, có chút duyên ngầm, tựa như một cô gái lai hai
giòng máu. Thế nhưng bản thân tôi vẫn không quen viết như vậy. Có
khi tôi bắt buộc phải chú thêm tiếng Anh trong các bài viết của tôi.
Phải nói là tôi chú thêm chứ không chêm vào. Sự khác
biệt là tôi luôn luôn viết đầy đủ từ ngữ việt rồi mở ngoặc để chú
thêm bằng Anh ngữ cho dễ hiểu, vì tôi cũng biết là các từ ngữ của
tôi dùng hơi cổ xưa cho nên phải làm như thế.
Nhân vì câu hỏi
của chú là một câu hỏi có tính cách rộng lớn và tiêu biểu, liên quan
đến những vấn đề khá tế nhị của các thế hệ già, trẻ của chúng ta tại
hải ngoại. Xa hơn nữa, liên quan đến những vấn đề Phật pháp và kinh
điển cũng như là vấn đề dịch thuật của nền Phật giáo hải ngoại. Tôi
cũng biết là ở hải ngoại, chúng ta có đầy đủ những điều kiện thuận
tiện và dễ dàng cho bất cứ sự học hỏi nào, ngay cả học hỏi về Phật
pháp. Vì ở đây, mọi tài liệu và máy móc tân tiến giúp chúng ta khi
thích thì có thể học hỏi, đào sâu và phát huy nền học hỏi của mình
đến mức tối đa. Nói theo Phật pháp, tại hải ngoại, chúng ta có nhiều
thuận duyên, có Thầy, có chùa, có sách vở và mạng lưới tin học cực
kỳ nhanh chóng và dễ dàng cho trí tò mò học hỏi phát triển. Cho nên
hiện giờ ít nhất là tại Bắc Mỹ (nếu không nói là cả Âu Châu và thế
giới nữa), cộng đồng người Việt của chúng ta có một hiện tượng chưa
từng thấy: Đó là hiện tượng tạm gọi là “lạm phát về văn hóa”, tôi
muốn nói đến số lượng báo chí, sách vở, văn thơ, dịch thuật, trong
đó có cả các sách dịch về Phật giáo được in ra mỗi năm. Chúng ta
thấy là các tác giả về sách thơ Việt, cũng như là kinh sách sáng tác
hay dịch thuật của Phật giáo phát huy thật vô số kể. Còn báo phát
không tại chợ thì quá nhiều, đếm không kể xiết. Đây là một điều đáng
mừng, vì tự do phát triển văn hóa thì sẽ phát huy nhiều tài năng
mới. Nhưng phải nói thêm là đôi khi cũng thấy đáng lo. Lo là vì khi
tôi nhặt một tờ báo lên và đọc hàng chữ lớn của một tựa nào đó viết
để than phiền một cái gì …rồi kèm theo câu … hết thuốc chửa…Vị
tác giả nào đó đã muốn than rằng : Hết thuốc chữa mà thành ra hết
thuốc (ngừa) đẻ … hay hết thuốc (làm) cho đẻ !!! Rồi lớp thiếu nhi
lớn lên và ảnh hưởng đến lối hành văn đầy sai lạc trong những tờ báo
đó … Tôi không lo sao được hả chú….
Có thể những chuyện đó thì chỉ làm cho anh em mình cười vui vì dùng
những từ sai lệch một cách hóm hỉnh ấy. Nhưng có những chuyện nghiêm
chỉnh hơn. Như là khi bài viết lẫn lộn, không phân biệt được từ ngữ
“tình dục” và “tính dục” khác nhau thế nào. Rồi họ
viết lung tung … khi thì xâm phạm “tính dục”
khi thì họ viết “đồng tình luyến ái”.
Than ôi, cái thiên chức thiêng liêng của nhà báo là nâng cao, phát
triển dân trí chẳng còn thấy đâu.
Nhưng đó cũng vẫn còn là chuyện nhỏ chú ạ. Có những điều lo lớn hơn.
Vì tuy việc phát triển dịch thuật và trước tác rộng rãi kinh sách
Phật là điều đáng mừng cho Cộng Đồng Phật giáo Việt
Nam
hải ngoại. Nhưng cũng có điều làm cho mình phải suy nghĩ lắm. Vì quá
nhiều sách được in, và do đó, những người sơ cơ đứng ngoài không
biết đâu mà tìm đọc, không biết đâu là gốc, đâu là ngọn .... như đi
lạc vào một rừng cây… không tìm thấy lối ra …chưa kể đến các bản
dịch và các sách… vàng thau lẫn lộn, và dịch giả thời mới bây giờ
thường không chịu bỏ công tìm đọc những tác phẩm và kinh sách của
chư tổ, chư tôn đức đi trước mình để học hỏi và rút tỉa kinh nghiệm
dịch thuật. Mạnh ai nấy tự ý dịch theo các cách hành văn của mình,
tự ý phát minh ra những từ ngữ lạ hoắc lạ huơ, đôi khi lại rất tối
nghĩa vì nó không nói lên được ý nghĩa thực sự của bản kinh qua
những từ quá sức mới mẻ ấy, hơn thế nữa, khi đọc lên không còn thấy
được gốc gác Phật giáo Việt nam của mình ở đâu, và nhất là không
liên hệ gì được đến nền Phật giáo Việt Nam đã có truyền thống từ
hằng ngàn năm nay, truyền thống do chư Tổ Sư đã dày công ghi chép
lại thành những hệ kinh điển của Việt nam. Đúng ra trước khi làm
công tác dịch thuật, chúng ta nên bỏ vài ba năm (có lẽ là còn chưa
đủ) để trì tụng những bộ kinh có tầm vóc, ít nhất là những kinh ngắn
như là Bát Nhã tâm kinh hay lớn hơn như là kinh Pháp Hoa. Như thế để
mình thấm nhuần cách hành văn, cách đặt câu cú trong kinh điển cũng
như là cách chuyển thành lối thi kệ bốn chữ hay năm chữ thuờng sử
dụng trong hệ kinh điển Việt nam và nhất là thanh tịnh hóa thân tâm
mình và được linh cảm hộ trì từ dòng chư Tổ sư. Và cũng vì lối hành
văn và đặt thi kệ (gọi là chuyển cú) đặc biệt của Phật giáo dân tộc
mình rất là dễ thấm vào lòng hành giả trì tụng. Vài ba năm trì tụng
còn chưa biết đủ thiếu ra sao, thế mà có một số vị lại viết và giải
nghĩa những loại pháp môn chuyên biệt (như của Mật Tông) mà có lẽ
chính mình chưa hề tu tập hành trì pháp môn ấy. Một số dịch giả sau
này còn cổ võ một phong trào bài trừ tiếng Hán Việt khi dịch thuật,
thay thế bằng những từ ngữ mới mà không theo quy luật văn phạm cú
ngữ Việt nam. Thí dụ như là chế ra một từ kép mới gồm hai âm, một âm
thuần Việt, còn âm kia thì lại là gốc hán việt, và thành ra một từ
kép pha tạp lai căng, vì không hiểu rõ luật về cú ngữ là các từ kép
không cho phép dùng trộn lộn một âm hán và một âm việt. Tôi thí dụ
cho dễ hiểu nhé, như dùng chữ Bụt để tả đức Phật thì được, nhưng
không thể dùng chữ Bụt pháp để chỉ đến giáo lý thay cho chữ Phật
pháp. Còn vài những vị khác thì cổ vũ dùng thuần chữ Việt cho dễ
hiểu, từ đó cố ép và sản xuất ra những từ ngữ kỳ quái như là ban
lành để chỉ đến việc Phật tử xin ban chú nguyện hộ trì hay là
xin cầu an. Ngay cả từ ngữ ban phép lành (blessings) cũng có màu sắc
đặc biệt của công giáo vì người âu mỹ chỉ dịch theo sự hiểu biết
công giáo của họ, từ ngữ ban phép lành chỉ mang ý nghĩa ơn trên ban
xuống cho người xin mà thôi, chứ không như sự chú nguyện hộ trì mang
ý nghĩa cảm ứng đạo giao nan tư nghì của phật giáo. (Thôi
chết tôi lại dùng từ Hán Việt gây rắc rối cho chú nữa rồi). Không
biết chú có thấy lo không, chứ tôi mỗi lần nhìn thấy những chuyện
như vậy, trong tâm lại có cái gì buồn buồn.
Dài dòng lan man quá chú nhỉ, hay là chú lại cười tôi là lo …. con
bò trắng răng rồi. Thôi để tôi quay về với cụm từ “tranh đấu” nhé.
Xét về mặt ngôn ngữ học,
chúng ta cũng biết là dân tộc Việt nam có một nền văn hóa đúc kết từ
tinh hoa của 4000 năm. Cái hay của dân tộc Việt là ngoài những đặc
điểm riêng của dân tộc mình, chúng ta còn biết thâu nhận cái hay của
người làm của mình, biết thâu nhận những từ ngữ rất là tinh hoa
của Trung Quốc để chuyển hóa nó, tiêu hóa các từ ngữ đó trở thành
một nguồn từ ngữ rất là độc đáo và hấp thụ tinh hoa của người làm
trở thành tinh hoa của dân tộc. Do đó kho tàng ngôn ngữ Việt bao
gồm những từ ngữ vô cùng phong phú và đa dạng, trong đó phải kể đến
tinh hoa phong phú và đa dạng nhất là nguồn từ ngữ Hán Việt.
Do đó cụm từ “tranh đấu” có một nguồn gốc Hán Việt. Tại sao phải nói
dài dòng như thế: Đó là vì khi chúng ta tìm hiểu một sự kiện gì,
chúng ta phải tra cứu về gốc (chứ không phải chỉ xét về
ngọn). Vì gốc từ “tranh đấu” bắt nguồn từ Hán Việt, chúng ta phải
tra lại xem ý nghĩa của nó như thế nào. Khi tra từ điển chữ Hán thì
chữ tranh (爭)
nghĩa là dùng lời nói để luận đúng sai. Còn chữ đấu (鬬)
nghĩa là dùng sức để định hơn thua.
Như thế về mặt ngôn ngữ thì cụm từ “tranh đấu” bao gồm nghĩa đen là
luận hơn thua qua các lời nói phân giải, luận bày hoặc sức yếu mạnh.
Nghĩa rộng thì cụm từ “tranh đấu” có ý nghĩa là cố gắng phát huy sức
lực (tâm lý hay vật lý) để truyền bá một điều gì mình muốn cổ võ.
Vì thế, chúng ta nói :
-
Tranh đấu cho tù nhân chính trị, nghĩa là vận động (campaign) để
mang lại tự do cho tù nhân chính trị.
-
Tranh
đấu
cho hòa bình. Tranh đấu cho lý tưởng của nhân loại bao gồm tự do,
công bình và bác ái (Liberté, Egalité, Fraternité: ba điều đề
xướng ra bởi Maximilien de Robespierre trong thời kỳ phát triển
nền Cộng Hòa Pháp quốc).
-
Tranh đấu chống kỳ thị …hoặc là tranh đấu bất bạo động của thánh
Gandhi v.v…
Thế thì tranh đấu nghĩa rộng rãi là vận động cho một lý tưởng gì đó
(working for a noble cause). Cụm từ “tranh đấu” không có ý nghĩa là
phải bạo động, nếu là tranh đấu có bạo động thì chúng ta nói:
Cuộc tranh đấu trở thành bạo động… hoặc, ngay từ đầu đã là
tranh đấu bạo động đánh đuổi thực dân Pháp dành quyền tự do cho dân
tộc Việt Nam v.v…
Có khi chúng ta nói là phải “phấn đấu tu tập” có nghĩa là tranh đấu
với chính bản thân mình để tu tập, vượt lên cao hơn, như là trường
hợp của thiền Nhật bản – Zen – mà Anh ngữ dịch là “transcendental
meditation”.
Trở lại về cái điểm hay độc đáo của kho tàng từ ngữ Hán Việt là các
từ ngữ đó rất súc tích, cô đọng (concise). Khi đọc cụm từ “tranh
đấu”, người Việt nam chúng ta liên tưởng ngay đến sự cực khổ, hết
lòng hết sức làm một cuộc vận động cho lý tưởng nào đó. Chúng ta
không nói: tranh đấu cho sự ngu dân, hoặc tranh đấu cho thực dân
Pháp. Vì chữ tranh đấu rất là cao cả, bao hàm ý nghĩa cao thượng
và lý tưởng.
Xét
về mặt văn học,
chắc chú cũng biết là như khi chúng ta đọc một bài thơ: chỉ cần có
một từ ngữ súc tích cô đọng và bao hàm một điều gì thật đẹp, hay là
một phong cảnh thật hữu tình, là lòng mình lại khởi lên tất cả những
cảm xúc dâng trào. Thí dụ như câu thơ nổi tiếng trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du mà ai đọc cũng đều cảm động:
Rừng phong thu đã nhuốm
màu quan san.
Nguyên cả câu này, khi ta đọc năm chữ đầu Rừng phong thu đã nhuốm
(che ba chữ màu quan san đi), thì ta chưa có cảm xúc
gì cả, nhưng khi đọc thêm ba chữ cuối thì mới thấy mở ra cả một trời
thu xuất hiện. Từ ngữ “quan san” làm ta thấy ngay lập
tức cả bầu trời thu đó, rồi lại thấy theo bầu trời thu nguyên cả sự
sầu muộn của nơi chốn địa đầu núi non “quan san” xa xôi cách trở, ly
biệt, buồn bã, se sắt, hiu quạnh…, thấy nguyên cả mầu sắc của rừng
thu rực rỡ màu lá đỏ, lá vàng thắm ... Và câu thơ nổi bật ở chỗ
màu quan san. Cái hay, cái đẹp của từ Hán Việt là sự súc
tích, cô đọng, lôi cuốn theo cả một trời tình cảm đi theo sau. Và
người đọc suýt xoa khen câu thơ trên là câu thơ tuyệt tác.
Làm sao
mà chúng ta có thể diễn tả cảm xúc của màu quan san mà không dùng từ
Hán Việt? Nếu chúng ta bỏ qua kho tàng văn hóa tữ ngữ này mà viết
theo kiểu thuần Việt thì chẳng lẽ chúng ta làm câu thơ thành ra:
Rừng phong thu đã nhuốm màu ly biệt của miền núi non xa xôi cách trở
và màu của sự buồn bà chia ly mùa thu...
Câu thơ sẽ chẳng còn ra sao và mất cả vần điệu. Người đọc cũng thấy
gượng ép, nhạt nhẽo, chẳng còn thấy hứng thú gì khi tác giả phải nói
toạc ra mọi ý nghĩ cùa mình... .
Chính là nhờ lòng cảm xúc khi đọc những từ ngữ truyền cảm đó mà
chúng ta thưởng thức thơ văn, thấy hay và đẹp... Để cho niềm cảm xúc
dâng trào...
Cũng thế, khi ta đọc bài kinh, bài kệ, nhờ những từ ngữ súc tích của
Phật giáo Hán Việt mà bài kinh mang lại cho chúng ta bao nhiêu niềm
cảm xúc dâng trào, cảm ứng đạo giao với chư Tổ trong dòng
truyền thừa đã dày công tâm huyết viết ra những bài đó. Chúng ta
không quên công ơn của chư vị.
Lấy thí dụ,
khi nói đến bài học đầu tiên của đức Phật Thích Ca giảng cho năm anh
em nhà Kiều Trần Như về Tứ Diệu Đế. Nếu chúng ta mắc kẹt và từ chối
không dùng tiếng Hán Việt thì làm sao mà chúng ta có thể nghe giảng
và hiểu nghĩa ngắn gọn của bài học? Chỉ nói đến tựa của bài giáo lý
này, nếu muốn viết sang thuần Việt sẽ phải viết dài dòng: Bốn chân
lý cao siêu mầu nhiệm , mà dù vậy vẫn phải dùng từ Hán Việt như chân
lý v.v...Mà khi đọc thì ý nghĩa không thể thấm bằng ba từ ngữ thật
hay và cô đọng: Tứ Diệu Đế, đọc lên là tất cả đều thấy rõ ràng.
Cho nên mình cũng thấy là chẳng thể nào viết tiếng Việt mà không
dùng từ Hán Việt, vì nếu cố làm như thế thì chẳng những mình bỏ quên
nguồn gốc văn hóa của mình mà các câu văn sẽ rất tối nghĩa khó hiểu
và què quặt khôi hài.
Đó là cái hay của kho tàng từ ngữ Hán Việt. Kho tàng này chính là
văn hóa Việt nam, chính là văn hóa Phật giáo Việt nam. Qua các kho
tàng kinh điển Phật giáo, chúng ta muốn hiểu được, cảm nhận được,
phát huy cảm ứng đạo giao thì chúng ta phải phát tâm cố gắng tìm
hiểu học hỏi không ngừng kho tàng văn hóa Việt nam và cũng là kho
tàng Phật giáo Việt nam. Chúng ta không nên tìm đến sự dễ dãi quá,
đơn giản quá vì không muốn học hỏi khó khăn, và đòi hỏi tất cả phải
viết ra dài dòng thành thuần Việt. Vả lại sự học hỏi càng dễ dãi thì
càng mau quên và không sâu.
Về điều này, đức Phật và chư Tổ cũng thường sử dụng, chư vị đôi khi
không nói thẳng tuột điểm tâm huyết của giáo lý ra mà dùng các ẩn dụ
muốn chúng ta phải tự mình bỏ công tìm tòi học hỏi ra. Vì có như
vậy, sự học hỏi mới sâu sắc và thấm thía.
Sự cảm xúc
khi xảy ra trên bình diện tu tập hành trì đạo thì chúng ta gọi là
cảm ứng đạo giao.
Cảm úng đạo giao rất là quan trọng và cần thiết trên con đường tu vì
nó ban cho chúng ta sức mạnh hành trì tinh tấn. Chú có nhớ những bài
tụng rất là cảm động mà khi chúng ta đốt ngọn hương trầm lên, ngước
lên chiêm ngưỡng dung nhan Phật và quán tưởng đến 32 tướng tốt, đức
từ phụ nhìn xuống từ bi... Lòng chúng ta rộn rã niềm vui sướng và
xướng câu kệ Nguyện hương:
Năng lễ sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.......
Khi cảm ứng mạnh quá và liên tục, thì một ngày nào đó, chúng ta sẽ
chứng quả Bất thối chuyển.
Khi ấy, lòng chúng ta an vui biết là bao...
Chú H. thân mến, chú thấy không ? Cái cảm xúc từ một từ ngữ súc tích
đó có thể nâng cao, hướng thượng và chuyển hóa thành cảm ứng đạo
giao. Cho nên mình đừng ngại tiếng Hán Việt. Một âm súc tích,
cô đọng, chính xác và chuẩn đích sẽ khơi cho chúng ta nguồn cảm xúc,
xa hơn nữa, nguồn đạo cảm ứng không thể nghĩ bàn...
Vậy mình đừng ngại các từ ngữ đó, nó là phương tiện giúp chúng ta tu
đạo. Và nếu có khó khăn chút đỉnh, chúng ta hãy nghĩ đến công ơn chư
Tổ trong truyền thừa Việt nam mình mà bỏ chút công học hỏi. Không
khó đâu, chỉ cần chút thời gian, tiếng Việt mình đã quá quen thuộc
với các từ Hán Việt rồi. Nhất là thế hệ trẻ Việt nam bây giờ vô cùng
lanh lẹ và thông minh, học thành tài bao nhiêu thứ khó khăn huống hồ
học những từ ngữ Hán Việt quá quen thuộc trong tiếng mẹ đẻ phải
không chú. Bây giờ chú thử tưởng tượng, nếu hoàn toàn không dùng từ
Hán Việt, mình có thể nói và viết tiếng Việt được không? Chẳng hạn
như câu mình rất thường nói là:
Mùa đông năm nay lạnh quá, nhiệt độ thường xuống thấp dưới mười
độ âm...
Xét trong một câu ấy, chúng ta đã tìm ra khoảng 5 từ Hán Việt (đông,
nhiệt độ, thường, âm v.v...). Nếu chúng ta bài bác từ Hán Việt,
không dùng các chữ đó, thì chú thấy sẽ khó khăn đến thế nào để diễn
tả câu đơn giản ấy.
Huống chi, Phật pháp vốn dĩ cao siêu, mầu nhiệm, ngôn từ đầy đủ cũng
còn chưa diễn tả nổi.
Nếu chúng ta cứ ngại học thêm những từ ấy mà tránh né thì chẳng biết
chúng ta sẽ đi về đâu?
Cảm xúc văn hóa, hay cảm ứng đạo giao không cách xa nhau lắm dâu.
Chỉ cần nhắm mắt lại, vỗ tay đốp một cái như khi chư tăng Mật tông
Tây tạng vẫn làm khi tụng bài Tâm Kinh, thì cảm ứng tánh không hiện
tiền...Như khi một hành giả trì câu chú (bắt đầu với chủng tự Om)
liên tu, lâu ngày, chày tháng, câu chú nhập tâm, ăn ngủ đều âm thầm
tụng câu chú. Rồi trình độ trì chú đã cao và thuần thục, khi đó hành
giả chỉ cần khởi trong tâm chủng tự
Om..m..m..m
âm vang trong tâm thức là toàn bộ câu chú hiện tiền, chiếm trọn tâm
thức chẳng còn mảy may vọng tưởng. Sự súc tích cô đọng đã đến trình
độ cao tột. Và tương đương với trình độ đó là sự cảm ứng đạo giao...
Nhưng tôi cũng đồng ý với chú là dĩ nhiên, mình đừng lạm dụng quá
đáng các từ ngữ Hán Việt làm cho những bài viết trở thành nặng nề.
Chúng ta nên khéo léo phối hợp các cách dùng từ ngữ của chư Tổ Việt
nam để bài viết của chúng ta tương đối dễ hiểu và súc tích. Nhưng dù
vậy, sự kiện đó cũng đòi hỏi người đọc có một trình độ tối thiểu và
nhất là lòng hăng say tìm học để mang lại những chiều sâu về sự hiểu
biết.
Xét về mặt giáo lý
thì tâm của chúng ta thường hay mắc vào các sự chấp trước. Đức Phật
Thích Ca đã thuyết giảng là tất cả những gì của thế gian đều thuộc
về tục đế. Tục đế là những quy ước (frame, convention) của thế gian
đặt ra để giúp chúng ta hiểu một điều gì cho dễ dàng. Nhưng bù lại,
chúng ta không nên chấp chặt vào đó để làm cho những quy ước ấy trở
thành ông chủ của chúng ta, hay nói cách khác, chúng ta trở thành nô
lệ của những quy ước ấy mà không phân biệt được những trường hợp cá
biệt đặc thù. Tóm lại, chúng ta không nên chấp chặt vào thế gian đế
hay là tục đế. Mà ngôn ngữ thì thuộc về thế gian, tức tục đế, ngôn
ngữ có tính cách giới hạn và tương đối. Do đó đức Phật luôn từ bi
khuyên bảo chúng ta đứng chấp vào ngôn từ, hình danh, sắc tướng.
Ngôn từ chỉ là phương tiện. Như ngón tay chỉ mặt trăng. Cần nương
ngón tay để thấy mặt trăng chứ nếu chỉ chăm chăm nhìn vào ngón tay
thì mặt trăng sẽ không bao giờ hiển hiện được.
Ngày xưa có câu "ý tại ngôn ngoại" nói rằng ý nghĩa nằm ngoài
ngôn từ cũng không khác cái nghĩa đó. Để giúp chúng ta đừng chấp,
đức Phật đã tuyên bố hùng hồn trong kinh Kim Cang:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”.
nghĩa là: nếu do sắc thấy ta, do âm thanh mà tìm ta, kẻ đó hành tà
đạo, chẳng thể thấy Như Lai...
Đức Phật đã đả phá tất cả những gì thuộc về tâm chấp trước, kẹt vào
hình danh sắc tướng, vì những thứ đó chẳng phải là rốt ráo. Ngay cả
đức Phật cũng phải bát Niết Bàn và từ bỏ thân bao gồm 32 tướng quý
của mình khi duyên đã hết. Do đó chấp vào hình danh sắc tướng thì
chẳng phải là đường tu hành chân chính.
Chấp hình sắc hay chấp vào ngôn tự cũng như nhau. Khi ta chấp vào
ngôn tự thì cái ý thật nghĩa ở đằng sau chẳng thể nào hiển hiện.
Do đó khi đọc cụm từ "tranh đấu" viết về đức Đạt Lai Lạt Ma, chẳng
nên dính vào cái nghĩa đen đằng sau, mà chúng ta chỉ nên thấy được
một vị đại đạo sư đã từ bi đi khắp muôn phương hành hóa phát triển
những lợi lạc cho nhân quyền thế giới. Thế cho nên người người đều
đến nghe đức Đạt Lai Lạt Ma dạy dỗ khuyên bảo, chẳng phân biệt gốc
gác từ đạo nào, chẳng phân biệt màu da chủng tộc. Tất cả đều hoan hỷ
đón nhận những lời khuyên bảo chân tình của Ngài trong những buổi
nói chuyện với công chúng.
Ngay cả trên đường tu đạo, chúng ta cũng chẳng nên kẹt trong ngôn từ
huống hồ là ngoài đời khi đọc một bài viết hay một từ ngữ như tranh
đấu. Thế nào là chấp trong ngôn từ. Chúng ta hãy nhớ lại lời chư Tổ
dạy:
“Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan,
Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”.
nghĩa là chấp chặt nơi văn tự mà giải nghĩa, thì oan cho ba đời chư
Phật, mà rời bỏ kinh điển thì lại lạc vào những tà thuyết của ma ".
Vì lời nói của chư Phật chỉ là phương tiện tạm thời, tất cả đều tùy
theo trường hợp, nghĩa là tùy bệnh cho thuốc. Thuốc trị bệnh của
Phật là thuốc phá chấp, nếu chiếu theo văn tự để giải nghĩa, khi
Phật nói Có thì mình chấp cái Có đó là thật, khi Phật nói Không thì
lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho chư Phật. Đó là do cái
tâm của mình thấy mọi pháp qua cái lăng kính của kinh nghiệm nội tâm
riêng biệt, như từ tranh đấu nó vốn tự nó không có nghĩa bạo
động mà vì tâm hành của mình, nhìn sự việc qua kinh nghiệm cá nhân
khi sống với cộng sản sau năm 1975 (cũng là nghiệp của mình) và liên
kết ý nghĩa của từ tranh đấu với bạo động (duy thức học gọi là
tâm biến kế6).
Còn nếu "Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết": lìa kinh thì
chẳng thể giác ngộ được, vì kinh chính là lời Phật dạy để tu hành
đạt giác ngộ cho nên không theo kinh điển là tà ma, không thể giải
thoát được.
Do đó khi đọc tụng kinh, chúng ta chẳng lìa văn tự cũng chẳng chấp
văn tự, nương theo ý kinh mà thấy thật nghĩa y như vậy, cũng như đọc
một bài viết, ngắm một bông hoa, chẳng khởi tâm biến kế, chẳng động
đến Mạt Na. Cho dù Mạt Na sinh khởi, mình sẽ mỉm cười và nói: à
há, ta đã thấy mặt mũi của ngươi rồi.
Để khi đọc từ ngữ tranh đấu, ta cũng chỉ nhớ đến công ơn của đức Đạt
Lai Lạt Ma, một đời làm việc cho hòa bình bất bạo động, cho nhân
quyền và cho hạnh phúc nhân lọai. Chúng ta không còn chấp vào cái
tâm thức giới hạn của mình, trải rộng cái nhìn lên trên tâm thức,
đọc cái nghĩa đằng sau cả câu viết và thấy được hành trạng của Ngài
qua những cố gắng không ngừng nghỉ để hoàn thành tâm nguyện cao cả
của Ngài.
Và sau cùng, xét thêm sâu hơn về mặt duy thức học
thì Mạt Na thức (là thức thứ bẩy trong Bát thức) chính là nguyên
nhân của sự chấp trước này. Như đã nói, khi ta có một kinh nghiệm
quá khứ nào vế chuyện gì đó, thì chúng ta có khuynh hướng chấp chặt
vào cái đó. Thí dụ như khi chú có kinh nghiệm không tốt về cộng sản
khi sống sau 1975, và nghe những tuyên truyền về tranh đấu vũ trang
thì cũng dễ hiểu là khi nghe lại từ tranh đấu, chú không có mấy cảm
giác tốt đẹp. Như vậy, chúng ta hay bị cái quá khứ làm chúng ta mất
chánh niệm và lan man liên tưởng đến tranh đấu là sẽ có bạo động,
đến sự tàn ác giết người, v.v….Mà thực sự thì cụm từ tranh đấu chỉ
có nghĩa là làm việc khó nhọc cho một lý tưởng cao cả nào đó của
mình.
Người tu theo đạo Phật thường cố gắng giữ chánh niệm không để cho
Mạt na thức dẫn dắt tâm mình chuyển thành tâm biến kế sở chấp
và gán ghép một cái nhãn hiệu gì đó trên sự vật. làm cho méo mó sự
vật đó để mình không còn thấy được bản thể thực của sự vật
(real nature of phenomena). Do đó mới có câu nhìn bông hoa đẹp mà
thấy là bông hoa đẹp (chứ không thấy là hoa đẹp, xong rồi muốn khởi
tâm ngắt bông hoa mang về chưng trong nhà mình).
Cũng như khi đọc cụm từ “tranh đấu” không để cho Mạt na thức của
mình khởi lên (vì do các nghiệp quá khứ của mình hiện hành) và cho
rằng “tranh đấu” là phải có bạo động (violence). Như thế thì
"tranh đấu" với lòng từ bi như là đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn
thường thuyết và làm chính là bất bạo động "non-violence".
Và nói thế có nghĩa là mọi tranh đấu phải được đặt trên nền tảng của
nguyện từ bi (altruistic motivation)mang lại an lành cho mọi chúng
sinh.
Với những chúng sinh bình thường như chúng ta thì mọi cái nhìn đều
nhuốm ảnh hưởng của Mạt Na thức và bản ngã của mình. Có một câu thơ
rất hay để diễn tả cái sự bao trùm của chủng tử trong Mạt na thức
hiện hành trên mọi nhận thức của mình, tôi cũng chỉ nhớ mại mại thôi
và tạm viết ra đây để chúng ta cùng chiêm nghiệm nhé chú:
Bởi vì mắt thấy trời xanh
Cho nên mắt cũng long lanh mầu trời
Bởi vì mắt thấy biển khơi
Cho nên mắt cũng xa vời đại dương….
Trụ Vũ
Còn về chuyện Ngài Quảng Đức,
tôi nghĩ là câu chú hỏi vậy thôi chứ chắc chú cũng dư hiểu là tự
thiêu vì đạo pháp, cũng là tranh đấu, nhưng đúng hơn tranh đấu với
lòng đại bi của chư Phật. Cho nên nên tôi cũng muốn bắt chước
như nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp viết trong bài Đi Chùa Hương “Bài
thơ này em nhớ, nên chả chép vào đây …”, chú có thấy tôi mỉm
cười không…
Nhưng thôi, tôi cũng chỉ muốn cùng chú nhắc lại truyện của đức Thích
Ca về sự tích có một hôm, một con chim bù cắt đuổi bắt con chim sẻ
định ăn thịt. Chim sẻ bay đến trốn sau lưng Ngài. Đức Phật bèn giấu
chim sẻ sau lưng để cứu mạng nó. Chim bù cắt bay đến nơi và thưa với
đức Phật, Ngài che chở cho chim sẻ thì e rằng con phải chết đói, vì
sự sống của con trong thiên nhiên là phải săn bắt chim sẻ ăn thôi.
Đức Phật liền cắt bắp vế mình ra để ban cho chim bù cắt ăn… thế có
phải là bạo động không chú nhỉ …
Hẹn chú ngày gặp lại sớm, anh em mình tha hồ hàn huyên cho thoả ….
Đầu đông, tháng 11 năm 2007.
Quan (關)
= Cửa ải.
San, sơn (山)
= núi.
|