Lincoln
chiến tranh và hòa giải dân tộc
Từ
một cuốn phim:
Steven Spielberg, người đạo diễn tài hoa của nước Mỹ vừa mới cho
ra mắt cuốn phim
“Lincoln“
cuối năm 2012, nói về bi kịch của cuộc nội chiến Nam Bắc
ở Hoa Kỳ từ năm 1861 đến 1865. Đầu năm 2013,
phim “Lincoln“
đã đoạt được hai giải thưởng rất
quan trọng là Quả Cầu Vàng (Golden Globe Awards) và giải
thưởng Oscar thứ 85, cả hai đều
về nam diễn viên đóng hay nhất Daniel Day-Lewis.
Đạo diễn Steven Spielberg sinh năm 1946 ở Ohio trong một gia
đình gốc Do Thái. Tên ông không xa lạ với mọi người, nhất là đối
với dân mê coi phim, ông đã nổi danh từ những
cuốn phim ăn khách như:
Jaws (1975), E.T.
the Extra-Terrestrial (1982),
Indiana Jones and the Temple of Doom (1984),
Jurassic Park (1993),
Schindler's List (1993),
Men
in Black
(1997),
Saving Private Ryan (1998),… .
Sự thành công trong quá khứ
đã tạo cho ông có một tên tuổi uy tín trong ngành điện ảnh của
thế giới.
Ngay từ
những năm cuối cùng của thập
niên 90, ông đã ấp ủ một
hoài bão là làm cho được
một cuốn phim có tầm vóc xứng đáng về
vị tổng thống thứ 16 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Steven
Spielberg tự thú ông vẫn bị ám ảnh bởi những huyền thoại về một
con người có tầm vóc vĩ đại của dân tộc Mỹ. Năm 1999 ông giao
cho nhà văn nữ Doris Kearns viết một cuốn tiểu sử về Abraham
Lincoln để dựa vào đó tạo dựng kịch bản.
Doris Kearns hoàn tất cuốn sách lấy tên “Team
of Rivals: The Political Genius of Abraham Lincoln“
năm 2005. Tác phẩm mô tả quá trình của vị tổng thống Lincoln
trong công cuộc cách mạng xóa bỏ nô lệ ở Mỹ, thống
nhất đất nước
và những nỗ
lực
hòa giải dân tộc trong suốt
cuộc nội chiến Nam Bắc. Về kịch bản do Tony
Kushner
soạn, một người viết kịch nổi tiếng, nhưng cũng
phải sửa đi sửa lại nhiều lần
theo ý của nhà đạo diễn khó tính này. Steven
Spielberg
không muốn cuốn phim ông bị sa lầy vào những chi tiết vụn vặt để
trở thành nhàm chán, nên ông chỉ chọn những thời
điểm đáng ghi đáng nhớ. Đó là những tháng cuối cùng cuộc đời của
Tổng thống Abrahem Lincoln, khi mà cuộc nội chiến đã đi vào giai
đoạn ác liệt, ở chiến trường đang cần những nỗ lực lớn lao để
chấm dứt đổ máu và ở quốc hội những cố gắng vô tận để vận động
bỏ phiếu hủy bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ. Trong phim có một điều cần
nhắc đến, Steven Spielberg đã không đề cập đến đoạn lúc Tổng
thống Lincoln bị ám sát, có lẽ trong thâm tâm, ông muốn gìn giữ
mãi mãi hình ảnh đẹp đẽ người anh hùng của mình.
Mãi đến đầu năm 2011, ông mới chọn được Daniel Day Lewis đóng
vai Lincoln. Lewis là một nam diễn viên nặng ký đã hai lần đoạt
giải Oscar và mới đây trong năm 2013 thêm một Oscar nữa, tổng
cộng là 3. Lewis đã bỏ gần trọn một năm trời để sửa soạn vai trò
của mình, nghiên cứu tất cả các tài liệu và các bài thuyết trình
của Abraham Lincoln để được sống thật sự trong nhân vật của mình
đóng.
Qua bao nhiêu khó khăn, cuối cùng cuốn phim “Lincoln” đã được
trình chiếu vào cuốn năm 2012 ở Mỹ. Như thế tổng cộng từ khi bắt
đầu xây dựng truyện phim cho đến ngày chiếu phim cho mọi người
xem đã mất 12 năm trời.
Tổng thống Abraham Lincoln, người anh hùng giải phóng nô lệ:
Abraham Lincoln sinh ra đời
ngày 12 tháng 2
năm
1809
trong một gia đình nông dân nghèo khó ở
Kentucky.
Có lẽ bởi vậy, ông có một khuôn mặt thường đăm chiêu khắc khổ.
Thuở trẻ, ông không được đi học đến nơi đến chốn, nên những kiến
thức ông thu đạt được, phần đông nhờ tính say mê tự tìm tòi tự
học hỏi mà ra. Cũng do ông tự học, tự đọc sách lấy, ông có được
bằng hành nghề luật sư nông thôn năm 1837. Chẳng bao lâu nhờ tài
năng và sự cần cù làm việc, ông đã trở thành một luật sư nổi
tiếng ở vùng
Illinois.
Dù là một luật sư rất thành công trong nghề nghiệp, nhưng ông
chủ trương sống là phải chân thật. Ông nói: ”nếu chúng ta
không thể trở thành một luật sư trung thực, thì hãy ráng sống
trung thực mà không cần làm luật sư”.
Năm 1842, ông kết hôn với bà Mary Todd. Hai ông bà không có một
cuộc sống hạnh phúc, có lẽ vì hai người thuộc hai tầng lớp xã
hội khác nhau. Ông đi từ tầng lớp nông dân ngèo khó chân lấm tay
bùn, còn bà thì thuộc thành phần quý tộc giầu sang. Bà thường to
tiếng phê bình dáng điệu quê mùa vụng về của ông. Hai ông bà có
4 người con, tuy nhiên chỉ có một người con duy nhất còn sống
quá tuổi trưởng thành. Sau này phần vì 3 người con bị mất lúc
còn trẻ và rồi ông bị ám sát chết, bà đâm ra mắc bệnh hoang
tưởng và phải đưa vào viện tâm thần.
Ngay từ khi còn thanh niên, ông đã định hướng con đường chính
trị của mình. Năm 1834 đến năm 1842 ông là nghị viên của
Illinois.
Năm 1847, ông được đắc cử một nhiệm kỳ ở Viện Dân Biểu Hoa Kỳ.
Năm 1856, ông gia nhập đảng Cộng Hòa. Ông chủ trương giải phóng
nô lệ và tích cực vận động để hủy bỏ chế độ nô lệ. Ông xác định
quan điểm về dân chủ của mình:
“Tôi không muốn là nô
lệ, nhưng cũng không muốn là chủ của nô lệ. Đó là quan điểm của
tôi về dân chủ. Ngoài ra tất cả cái gì đi ngược lại điều đó đều
không phải dân chủ”.
Năm 1860, Abraham Lincoln đắc cử trong cuộc bầu Tổng thống Hoa
Kỳ thứ 16. Lập tức 11 tiểu bang ở miền Nam còn giữ chế độ nô lệ
tuyên bố ly khai và lập lên “Liên
minh các tiểu bang Mỹ” (Confederate States of America)
và cử
Jefferson
Davis
làm Tổng thống của miền nam. Ở
miền Bắc, 25 tiểu bang còn lại ủng hộ chính phủ Liên bang (Union)
do Tổng thống Abraham Lincoln lãnh đạo. Cuộc nội chiến Nam Bắc
coi như không thể cứu vãn, mặc dù ông đã cố công tìm cách hàn
gắn. Tiếng súng đầu tiên bắt đầu nổ
vào ngày 12 tháng 4 năm 1861,
khi quân miền Nam tấn công vào đồn
Sumter ở Nam
Carolina
do quân miền Bắc trấn giữ. Năm 1862, ông ra bản “Tuyên Ngôn Giải
phóng Nô Lệ”. Một tuyên ngôn rất quan trọng để xác định xóa bỏ
chế độ nô lệ là một mục tiêu chiến đấu của quân đội miền Bắc.
Năm 1863, quân miền Nam bị đại bại ở Gettysburg. Đây là một trận
đánh khốc liệt nhất trong lịch sử nội chiến của Mỹ, tổng cộng
thương vong của hai bên khoảng gần 50.000 binh sĩ. Nhưng cũng là
một khúc quanh lịch sử để chấm dứt chiến tranh và sau này đưa
đến sự đầu hàng của quân miền Nam. Tổng thống Lincoln đã đọc ở
đây một bài diễn văn chỉ gồm có 272 chữ và kéo dài chưa quá 3
phút, nhưng là một bài diễn văn nổi tiếng nhất của ông. Trong
diễn văn Gettysburg, có nhắc đến những nguyên tắc về bình đẳng
trong bản Tuyên ngôn Độc
Lập Hoa Kỳ và khẳng định rằng cuộc nội chiến này là cuộc đấu
tranh để dành tự do, dân chủ và nó sẽ mang
đến
cho mọi công dân sự bình đẳng thật sự. Cái độc đáo ở
đây, ông đã không nhắc đến những danh từ Nam Bắc, Nô Lệ, Giải
phóng, ta và thù. Ông không phân loại người chết, ông chỉ vinh
danh tất cả những người lính đã
hiến dâng mạng sống mình để tổ quốc được sống.
Năm 1864, Lincoln được bầu lại làm Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai.
Đầu năm 1865, quân miền Nam đã bị đánh bại ở Petersburg. Ngày 4
tháng 4 năm 1865, Lincoln đến thị sát Richmond, thủ phủ của miền
Nam mới bị quân miền Bắc chiếm được.
Ngày 9 tháng 4 năm 1865, tướng của miền Nam
Robert E. Lee
bị vây chặt không còn đường lui, đã phải ký giấy đầu hàng tướng
miền
Bắc Ulysses
Simpson
Grant
tại làng
Appomattox.
Đến đây, cuộc
nội chiến Nam Bắc kéo dài 4 năm trời coi như chấm dứt với gần
một triệu người bị tử thương, trong đó có khoảng 620.000 binh
sĩ.
Tổng
thống Lincoln
đã làm tròn lời hứa của ông đối với nhân dân Mỹ là giải phóng nô
lệ và thống nhất đất nước. Chủ trương hòa giải dân tộc của ông
đề ra đã nẩy mầm trên đất nước Mỹ. Sau chiến tranh, dân miền Bắc
và miền Nam đã cùng nhau chung lưng chung sức để xây dựng đất
nước. Nhờ thế, sau này Mỹ trở thành một cường quốc. Chỉ có điều
đáng tiếc, ông mất quá sớm để có thể nhìn thấy thành quả của
mình.
Ngày 14 tháng 4 năm 1865, Tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát
chết trong khi đang coi
kịch tại Nhà hát Ford
ở Thủ đô Washington
D.C.
Vị Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ và là người anh hùng giải phóng
nô lệ đã gục xuống vì viên đạn bắn ra từ một diễn viên đóng
kịch, nghĩa là đúng 6 ngày sau khi chiến tranh chấm
dứt.
Chiến tranh và hòa giải dân tộc:
Năm 1865, trong lúc binh sĩ của miền Nam đang bị vây khốn ở làng
Appomattox, nhiều người đã khuyên tướng Lee nên chia quân ra để
tiếp tục đánh bằng du kích thay vì đầu hàng. Nhưng tướng Lee đã
từ chối, ông không muốn
cuộc
chiến này kéo dài một cách vô ích và chỉ đưa đến
thêm đổ
máu, chết chóc và hận thù. Ông quyết định chấm dứt
chiến tranh
và ra đầu
hàng tướng Grand của quân đội miền Bắc. Trong buổi
lễ ký giấy đầu hàng
tại Appomattox Court House, tướng Grant đã ra nghiêm
lệnh cấm binh sĩ miền Bắc không được reo hò vui mừng chiến thắng
và phải lập một hàng quân danh dự đứng nghiêm chào tướng Lee và
đoàn tùy tùng đi tới. Tướng Grant giải thích là “Chiến tranh
đã kết thúc, bây giờ họ là đồng bào của chúng ta. Điều cả nước
đáng ăn mừng không phải chúng ta chiến thắng họ, mà là họ đã trở
về lại với chúng ta, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ”.
Tướng Grant chấp nhận 3 điều kiện mà tướng Lee đưa ra:
- binh sĩ miền Nam được ra về tự do không bị trả thù hay bắt bớ,
để họ được yên ổn xây dựng lại đất nước,
- được mang lừa và ngựa theo để làm mùa màng,
- được mang theo vũ khí ngắn cá nhân để tự bảo vệ mình.
Ngoài ra tướng Grant còn cung cấp lương thực cho một số binh
đoàn miền Nam để họ đủ sức trở về lại quê quán.
Tổng thống Lincoln thường cho mọi người biết là ông mong muốn
cuộc chiến kết thúc trong sự khoan dung độ lượng. Bởi vì kinh
nghiệm cho ông biết là với tấm lòng nhân ái, sẽ mang lại cho ông
nhiều kết quả hơn là cách hành xử quá cứng rắn. Nên khi tướng
Grant hỏi Tổng Thống Lincoln làm gì với binh sĩ miền Nam đầu
hàng, ông không do dự trả lời “Hãy để họ được tự do ra về”.
Ở Mỹ có một nghĩa trang nổi tiếng là
Nghĩa trang quốc gia
Arlington (Arlington
National Cemetery) ở Arlington/Virginia. Một trong những nghĩa
trang quân đội lớn nhất nước Mỹ. Nơi yên nghỉ của Tổng thống
Kennedy, của hơn 290.000 sĩ quan, binh sĩ đã hy sinh cho tổ quốc
Mỹ. Trong đó có những mộ phần của hàng ngàn người lính vô danh
cả Nam lẫn Bắc chết trong cuộc nội chiến Nam Bắc năm 1861-1865.
Cố nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đi qua đây đã xúc động và làm một
bài hát “Trên đồi Arlington”:
Về đây, cùng tới đây, chia nhau nghĩa trang này
không lời hờn oán đắng cay
Bắc Nam cùng mạch sống!
Thắng thua đều anh hùng!
(Trên đồi Arlington, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang)
Thắng thua đều anh hùng, tướng Lee mặc dù là tướng đầu hàng,
nhưng lạ thay dân Mỹ lại coi ông như một vị anh hùng. Họ dựng
tượng ông, đặt tên ông cho những con đường ở Mỹ. Trong chiến
tranh ông chiến đấu rất anh dũng, sau chiến tranh ông đã đóng
góp rất nhiều vào công cuộc hòa giải giữa Nam và Bắc, kêu gọi
mọi người buông súng và ủng hộ chính sách xây dựng lại nước Mỹ
của chính phủ Liên Bang. Người ta tự hỏi, nếu giả sử như tướng
Grant đối sử với tướng Lee và binh sĩ của ông như những kẻ thua
trận, thì nước Mỹ ngày nay sẽ đi về đâu?
Nhìn vào lịch sử cuộc nội chiến Nam Bắc ở Mỹ ta học được những
gì?
Chiến tranh nào cũng là khốc liệt, là căm thù, là giết chóc, là
dành phần sống cho mình. Nhưng sau khi tiếng súng đã tắt trên
chiến trường, khi khí giới đã buông xuống, thì kẻ thắng người
thua trong cuộc chiến “cốt nhục tương tàn” nhìn nhau bỗng chợt
nhận ra đâu đây là những khuôn mặt đã quen, đã biết và hình như
họ là anh em, là ruột thịt, là bạn bè, là đồng bào với mình. Mà
trước đây, mình đã lăn xả vào chém giết họ. Nên nếu nói đến
chiến thắng, đó chỉ là sự thắng đối với dân tộc mình và kẻ bại
trận cũng là dân tộc mình. Bên sau những vòng hoa của chiến
thắng, những huy chương bóng loáng là cửa nhà tan nát, là máu
thịt của hàng triệu người đổ xuống, là lạc hậu, là u mê, là cả
một dân tộc lầm than đói khổ, là cả một nền kinh tế quốc gia đi
giật lùi trở lại, là mở cửa cho ngoại bang lợi dụng bước vào. Và
rồi thêm nữa, phải cần bao nhiêu năm mới hàn gắn lại vết thương
lòng đã rỉ máu đó, bao nhiêu năm mới xây dựng lại xong những
ngôi nhà đã bị đổ nát vì chiến tranh. Có điều chắc chắn là cả
người thắng lẫn người thua, họ sẽ phải có chung một tương lai để
xây dựng, chung một xứ sở để gìn giữ, dù muốn hay không. Bởi thế
nên, sau mỗi cuộc nội chiến, sự hòa giải dân tộc là một điều cần
thiết để cùng nhau chung sức chung lòng xây dựng lại tổ quốc.
Muốn được như vậy, ngoài lòng thành thật tôn trọng lẫn nhau,
phải bỏ đi được cái cao ngạo “chiến thắng” để hóa giải được hận
thù. Đó là con đường duy nhất đưa tới hòa giải dân tộc, mặc dù
không phải là dễ dàng, vì nó đòi hỏi rất nhiều sự sáng suốt,
dũng cảm và lòng nhân ái. Nhưng con đường đó sẽ đưa đất nước đến
cường thịnh. Tổng thống Lincoln vẫn thường trích một câu trong
Tân Ước để làm châm ngôn cho cuộc đời chính trị của ông:
"A
house divided against itself cannot stand” (Tạm
dịch “Một căn nhà bị phân
hóa với chính nó thì không đứng vững được”).
Gần 150 năm sau, cựu Tổng Thống Nam Phi Nelson Mandela, người đã
bị 27 năm tù vì tranh đấu nhân quyền cho dân da đen, nói: “Người
ta không thể xây dựng một quốc gia trên hận thù và bạo lực”.
Trên đường đi đến hòa giải, Nelson Mandela đã mời
cựu tổng thống Nam Phi gốc da trắng
Frederik
Willem de Klerk
làm phó tổng thống cho ông và những tướng lãnh, công chức cao
cấp của chế độ cũ đã từng bỏ tù ông, ông đã kéo ghế mời họ ngồi.
Rồi đến nước Đức, thống nhất hai nước làm một mà không đổ máu,
không bắn một viên đạn. Đây là
những thí dụ cho thấy là người ta có thể hòa giải, nếu thật tâm.
Cố nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang nhớ đến thân phận quê hương mình,
chợt thấy bâng khuâng:
Đã bảo vết thương không nhắc nữa
Mà sao thấy sẹo cứ bâng khuâng
(Trên đồi Arlington, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang)
Đầu năm 2013 |