Chuyện dài "Mùa xuân Bắc Kinh:
Người về từ Thiên An Môn
Cả thế giới đã nhìn
thấy cô gái hai mươi hai tuổi, tay cầm loa, tuyên bố, hô hào sanh
viên trên Quảng Trường Thiên An Môn.
Sài Linh là một trong những người còn sống sót qua cuộc thảm sát
trong đêm kinh hoàng 3 rạng 4 tháng Sáu, khi Quân Đội Nhơn Dân cùng
với chiến xa tiến vào "dẹp loạn". Vẫn còn khiếp đảm, cô đã ghi âm
bằng chứng sống thật của mình, sau đó gởi chui qua Hương Cảng vào
ngày 8 tháng Sáu. Đích thân Sài Linh cũng đào thoát được ra khỏi
Trung Quốc và sinh sống ở Úc Đại Lợi.
* * *
Nhà
bất đồng chánh kiến Sài Linh, một lãnh tụ phong trào đòi dân chủ
nổi tiếng hồi 1989 tại quảng trường Thiên An Môn, đang đứng
trước bức tranh lừng danh của một người ngăn chận chiến xa Trung
Quốc, trong trận thư hùng ở Thiên An Môn, trong căn hộ của bà ở
Cambridge, Mass. |
Tôi tên Sài Linh, người trách nhiệm ban bảo vệ trên Quảng Trường
Thiên An Môn. Tôi vẫn còn sống sót. Đã có được một vị trí đặc biệt
để có thể phê phán những biến cố xảy ra từ ngày 2 đến 4 tháng Sáu,
tôi cảm thấy có bổn phận tường trình sự thật cho tất cả mọi người
Trung Quốc, nông dân cũng như người thành thị.
Ngay ngày 2 tháng Sáu, vào lúc mười giờ đêm, chuyện rắc rối đầu tiên
đã xảy ra. Một chiếc xe công an đụng bốn người vô can, làm thiệt
mạng ba người. Sau đó, những người lính trên đoàn quân xa, từ trên
xe ném võ khí và quân phục xuống cho dân thường và sanh viên đứng
ngăn chặn đoàn xe. Trước hành động kỳ lạ đó của quân lính, chúng tôi
thấy cần phải đề cao cảnh giác hơn nữa. Vì vậy cho nên, chúng tôi
gom góp tất cả những thứ đó đem nộp cho công an, và họ có cấp cho
chúng tôi biên nhận đàng hoàng.
Biến cố thứ ba xảy ra vào xế chiều ngày 3 tháng Sáu. Khoảng hai giờ
chiều nhiều đơn vị quân đội và công an xuất phát đồng thời từ
Liuboukou và Xinhuamen. Họ kéo đến đánh đập chúng tôi cùng với những
người khác có mặt trên Quảng Trường. Nhiều bạn bè tôi leo lên một
chiếc xe tải và dùng loa nói với quân lính và công an: "Công an nhơn
dân yêu mến nhơn dân! Công an nhơn dân không đánh đập nhơn dân!" Một
người lính tiến tới gần một người bạn của tôi, đá một phát vào bụng
anh ta rồi nói: "Đồ bẻm mép! Ai mà yêu thương mày!", xong đập vào đầu
làm cho anh ấy té xuống.
Đến khoảng từ tám giờ đến mười giờ đêm, tình hình càng trở nên trầm
trọng thêm. Có tin là khoảng một chục người chết. Khoảng bảy tám giờ
tối, chúng tôi mở phiên họp báo tại ủy ban để thông báo cho ký giả
Tàu và ngoại quốc biết rõ diễn tiến thật sự của tình hình. Tổ chức
của chúng tôi đưa ra lời tuyên bố chủ yếu là: "Đả đảo chế độ bất hợp
pháp của Lý Bằng!"
Đến chín giờ tối, toàn thể các đồng chí trên Quảng Trường đều đứng
lên, tay mặt đưa cao, tuyên thệ: "Tôi xin thề góp phần đẩy mạnh tiến
trình dân chủ hóa, đem lại thạnh vượng và mức tăng trưởng của tổ
quốc vĩ đại, để bảo đảm và bảo vệ đất nước chống lại hành động hủy
diệt của một nhóm người mưu phản. Chúng tôi bảo vệ cho hàng tỷ người
khỏi bị chết oan uổng và tôi xin đem tuổi thanh niên của mình ra bảo
vệ Thiên An Môn và nền Cộng Hòa này. Dẫu cho thây rơi, máu chảy,
cũng đừng để mất vị thế của Nhơn Dân. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến
giọt máu cuối cùng, đến người sanh viên cuối cùng."
Đến mười giờ đêm, Đại Học Dân Chủ đã được hình thành. Hiệu trưởng là
Trương Đức Lễ, người trách nhiệm hàng đầu của tổ chức. Các đại diện
của những tổ chức trên Quảng Trường đều đồng lòng ủng hộ đại học
này. Ban lãnh đạo phong trào nhận được nhiều lời kêu cứu vì tình
hình vô cùng nguy ngập. Trên Quảng Trường có tiếng vỗ tay vang vậy
để chào đón sự hình thành trường Đại Học Dân Chủ, được đặt bên cạnh
tượng Nữ Thần Dân Chủ.
Nhưng bên phía Đông Quảng Trường và trên đại lộ Trường An, máu đã đổ
vì những tên đồ tể - quân lính của đạo quân 27 – đã đem chiến xa,
súng máy, lưỡi lê, lựu đạn cay mắt ra sử dụng, nhưng cũng bị tràn
ngập. Quân lính nổ súng bắn bừa bải, chỉ vì một tiếng nói, vì một
hòn đá ném đi. Những thân người nằm dài trên đại lộ Trường An đều
đẫm máu. Bạn bè tôi từ đó trở về ai cũng đầy máu trên hai tay, trên
ngực áo và trên hai bắp đùi vì đã khiêng xác bạn bè bị bắn chết.
Lúc mười một giờ đêm, ban lãnh đạo phong trào ra lịnh chấm dứt mọi
bạo động. Vì sao? Bởi lẽ phong trào yêu nước và đấu tranh đòi dân
chủ, ra đời hồi tháng Tư, chủ yếu trong nội bộ sanh viên, từ tháng
Năm đã biến thành phong trào quần chúng rồi. Nguyên tắc và mục tiêu
của chúng tôi là phải đạt được nguyện vọng trong vòng bất bạo động.
Nhiều sanh viên, công nhơn và người dân thủ đô đến yêu cầu chúng tôi
phải võ trang vì tình hình đã biến chuyển rồi. Nhiều bạn trai của
chúng tôi rất hăng hái. Tuy nhiên, chúng tôi đã giải thích cho mọi
người biết rằng, bằng mọi giá, chúng ta muốn đạt được mục đích mà
không có bạo động, và sự hy sanh cá nhơn là thái độ cao quý nhứt của
nguyên tắc hiếu hòa của chúng tôi. Nối vòng tay lớn, siết chặt bên
nhau, chúng tôi bước ra khỏi lều vải, miệng hát vang "Quốc Tế Ca".
Chúng tôi tụ họp lại quanh Đài Kỷ Niệm Anh Hùng Dân Tộc và chúng tôi
ngồi yên chờ lưỡi dao của bọn đồ tể.
Chúng tôi biết rằng đây là trận giặc giữa tình thương và hận thù,
chớ chẳng phải giữa hai lực lượng võ trang. Vì vậy cho nên nỗi buồn
rầu to lớn nhứt của chúng tôi là có một số bạn bè, giận quá mất
khôn, lấy gậy gộc và chai thủy tinh - những võ khí rất thô sơ – đánh
lại quân lính hung bạo, trang bị súng máy và chiến xa. Phần chúng
tôi thì cứ an tâm ngồi yên chịu hy sinh.
Trong lều vải của chúng tôi, có những Micro nối liền với loa phát ra
bên ngoài. Chúng tôi cho bài "Con Cháu Của Rồng" vào máy, hát vang
lên. Chúng tôi cùng nhau hợp xướng, nước mắt lưng tròng, cùng nhau
ấp ủ và tay trong tay, vì chúng tôi biết rằng giờ phút cuối cùng của
chúng tôi đã đến, giờ phút mà chúng tôi phải hy sinh vì nền dân chủ.
Vương Lực, một học sanh trung học mười lăm tuổi đời có viết một bức
thơ tuyệt mạng. Tôi không nhớ hết nguyên văn, nhưng tôi còn mang
máng nội dung của một đoạn em ấy đọc cho tôi nghe. Đại khái thì điều
kỳ lạ là em có trông thấy một con gián nằm dưới đất, muốn giết đi.
Nhưng khi em bắt đầu ra tay thì con gián không nhúc nhích nữa. Vương
Lực chỉ mới mười lăm tuổi đầu mà đã biết suy nghĩ chuyện chết sống!
Đất nước ơi, xin đừng quên những đứa trẻ, đầu xanh đã phải tranh đấu
vì người!
Lúc một giờ sáng, với tinh thần của người trách nhiệm trong phong
trào, bao gồm cả Quảng Trường, một vài người bạn nữa và tôi đi vòng
quanh Đài Kỷ Niệm để nhận định tình hình và cổ võ các bạn tôi một
lần nữa. Tất cả chúng tôi đều ngồi xuống, không có lấy một lời nói,
những người quyết tâm nhứt ngồi hàng đầu. Phía sau chúng tôi, các
bạn bình tỉnh nhứt quyết là nếu những người phía trước bị giết hay
bị giải tán bằng võ lực thì họ cứ ngồi yên, không cử động mà cũng
chẳng giết ai hết.
Tôi kể lại ngắn gọn một câu chuyện xưa cũ mà ai cũng biết, câu
chuyện một ổ kiến, trong đó sinh sống hàng trăm tỷ con. Một hôm, lửa
bốc cháy trên đồi. Muốn thoát nạn, bầy kiến phải cấp tốc chạy xuống
chưn đồi. Làm sao mà di tản kịp tất cả ngần ấy đây? Túng thì phải
tính, cả ổ kiến họp lại bám vào nhau thành một khối tròn, rồi toàn
bộ lăn xuống chưn đồi. Một vài con kiến bị cháy, nhưng cả ổ còn lại
được thoát hiểm.
Hỡi các đồng chí! Tất cả chúng ta trên Quảng Trường này là lớp vỏ
bọc ngoài của nhơn dân. Và chúng ta đã ý thức được rằng chúng ta
phải hy sanh mới mong cứu vãn được nền Cộng Hòa. Bốn đứa chúng tôi,
trong đó có Hậu Đức Giám, Lưu Tiểu Ba và Chu Đạc, cuối cùng đành
chịu thua: "Đâu được, không thể hy sinh như vậy!" Nhưng các bạn tôi
cứ quả quyết. Vậy là, chúng tôi đi tìm những cấp chỉ huy để điều
đình với họ. Các bạn tôi nói với người chịu trách nhiệm phía bên
kia: "Chúng tôi sẵn sàng rời Quảng Trường, với điều kiện là các đồng
chí phải bảo đảm an ninh cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ giải tỏa Quảng
Trường trong yên lặng."
Thế
rồi ban chỉ huy hỏi ý kiến các sanh viên muốn ra về hay tiếp tục
chiếm cứ Quảng Trường. Chúng tôi đồng ý quyết định là nên rút đi.
Ngay trong lúc chúng tôi sắp sửa rút đi thì một toán lính, mũ sắt,
súng máy, lại phản bội lời cam kết chuyển sang tấn công gần Đài Kỷ
Niệm. Không để cho chúng tôi có thì giờ ra đi êm thấm, như chúng tôi
đã quyết định, họ ngăn cản không cho chúng tôi báo cho tất cả những
người tại Đài Kỷ Niệm, bằng cách phá hỏng các loa phóng thanh rồi
nổi lửa tại Đài Kỷ Niệm. Phần đông những bạn bè ở Đài Kỷ Niệm đều
xuống kịp và chúng tôi kéo đi, nước mắt ràn rụa. Để đáp lại những ai
khuyên chúng tôi đừng khóc, chúng tôi cho họ biết rằng: "Rồi đây
chúng tôi sẽ trở lại vì đây là quảng trường của nhơn dân!"
Sau trận đó, chúng tôi được biết rằng một số bạn bè chúng tôi còn kỳ
vọng ở chánh phủ, và ngay cả với quân đội. Họ nghĩ rẳng quân đội chỉ
đuổi đi rồi thôi. Mệt lả người, họ nằm dài trong những căn lều.
Chiến xa thẳng thừng cán lên người họ. Sau đó, người ta cho biết là
có trên hai trăm người bị tăng đè nát như vậy. Mặt khác, người ta
còn cho biết là trên bốn ngàn người chết.
Ngay bây giờ, tôi cũng không biết được con số chính xác nạn nhơn.
Những người chiến đấu ở đằng đầu Quảng Trường thuộc Nghiệp Đoàn công
nhơn độc lập. Họ chiến đấu đến người cuối cùng và tất cả đều hy
sinh, cũng phải từ hai mươi đến ba mươi người.
Khi chúng tôi ra đi rồi, chiến xa đã tưới xăng lên lều vải cùng quần
áo và thiêu hết những xác của bạn bè tôi. Rồi họ xịt nước rửa sạch
Quảng Trường, không còn dấu vết gì hết. Họ cũng phá hủy hoàn toàn
Tượng Nữ Thần Dân Chủ, biểu tượng của phong trào chúng tôi.
Tay trong tay, chúng tôi ra ngả phía Nam của Quảng Trường để đi qua
phía Tây và qua ngang lăng Mao Chủ Tịch. Chúng tôi bắt gặp khoảng
mười ngàn quân lính có mũ sắt đang tập trung ở phía Nam của lăng.
Chúng tôi la lên:"Đồ đểu giả! Quân phát xít!" Trong khi tiếp tục đi
về hướng Tây, chúng tôi thấy khoảng mười ngàn quân lính, hàng hàng
lớp lớp chạy tới Quảng Trường. Tức giận điên người, dân chúng và
sanh viên ở đó la ó:"Quân phát xít! Đồ đểu cáng! Quân thô bạo!"
Chẳng cần để ý gì đến chúng tôi, quân lính tiếp tục chạy đến Quảng
Trường.
Trong cuộc rút lui, khi đi ngang qua Liuboukou, tất cả các thành
viên trong ban lãnh đạo phong trào đều ở tuyến đầu. Tại nơi đó, vào
xế chiều ngày 3 tháng Sáu, cuộc chạm tráng đẫm máu đầu tiên đã nổ
ra. Đường phố ngập đầy rác rưởi, thùng rác bể nát và bốc cháy.
Khi đến đại lộ Trường An, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng não
lòng! Con đường đầy nghẹt xe bị đốt, gạch đá ngổn ngang. Chắc hẳn
phải có choảng nhau rất nặng nề ở đây, nhưng không thấy có xác chết
nào hết. Sau này, chúng tôi được biết một lũ phát xít đã lấy súng
máy ồ ạt bắn người rồi một bọn khác chồng chất xác người lên xe buýt
và trên xe thồ. Một vài người còn sống, rốt cuộc rồi cũng bị chết
ngộp!
Dẫu cho bọn phát xít đó thi hành tội ác giữa ban ngày, nhưng lại
khéo thu dọn chiến trường, không để lại dấu vết nào. Trước những
hành vi tàn tệ của bọn phát xít khát máu, chúng tôi đâm ra ngỡ
ngàng, định kéo nhau trở lại Quảng Trường. Thà chết còn hơn! Một vài
người lính còn chút nhơn từ, khuyên chúng tôi:"Này các em, súng máy
đặt đầy trên đó. Đừng liều mạng hy sinh nữa!"
Chẳng biết làm gì hơn, chúng tôi rời khu Xidan, tìm cách lánh nạn ở
khu phía Tây thành phố. Trên đường đi, chúng tôi gặp một bà mẹ, nước
mắt, nước mũi lòng thòng, lòng đau đứt đoạn, vì đứa con của bà đã bị
bắn chết. Chúng tôi cũng gặp nhiều xác chết dân thường nằm la liệt
ngoài đường phố.
Chúng tôi đi về ngả trường đại học ở phía Bắc. Ai chúng tôi gặp cũng
thấy lệ ứa quanh tròng. Một người đàn ông phân bua với tôi:"Tôi có
mua tín dụng của nhà nước. Thật đau lòng khi nghĩ rằng họ đem tiền
đó ra để mua súng đạn giết dân thường và trẻ con vô tội!" Bạn bè và
những người dân thường còn cho tôi biết những chuyện đau lòng là
những tên đồ tể dã man đó cứ vung tay chém giết. Bọn nó bắn hỏa tiễn
vào mấy tòa nhà hai bên đại lộ Trường An, giết chết trẻ con và các
ông già bà cả. Những người đó có làm gì quấy đâu? Họ chẳng hô hào
một khẩu hiệu nào hết!
Một người bạn đã cản đường chiến xa vào lúc hai giờ sáng trên đại lộ
Trường An có kể cho tôi một chuyện chính mắt anh trông thấy. Một cô
bé đứng trước mũi xe tăng, tay mặt vẫy chào anh lính lái tăng. Vậy
mà chiếc xe tăng đành đoạn lờ đi, cán qua người em bé. Bạn tôi đến
giúp đỡ một người bạn bị thương, suýt nữa bị chiến xa nghiền nát.
Một bà mẹ thất tha thất thểu đi tìm con, mất hồn mất vía gọi tên nó
rồi hỏi bâng quơ:"Hôm qua mày còn đó, bữa nay mày ở đâu?" Những bà
vợ đi tìm chồng, những ông giáo đi tìm học trò, những đứa em đi tìm
anh,... Nhiều biểu ngữ dán trên tường công sở tán dương "quyết định
sáng suốt" của Ủy Ban Trung Ương Đảng. Giận điên người lên, chúng
tôi lột xé các biểu ngữ và cho vào lửa đốt tiêu. Truyền hình nhà
nước xác nhận là Quân Đội Nhơn Dân đã vào thủ đô Bắc Kinh để trấn áp
bọn xách động khuấy nhiễu.
Tôi nghĩ là tôi có được một vị thế tuyệt đối tốt để nhơn danh tất cả
các sanh viên, xác nhận rằng chúng tôi không phải là bọn xách động
khuấy nhiễu. Tôi xin tất cả các người Hoa chân chính hãy thật tâm tự
hỏi lòng mình xem những thanh niên thiếu nữ, tay trong tay, ngồi ôn
hòa dưới chưn Đài Kỷ Niệm để chờ lưỡi dao của bọn đồ tể, có phải là
những người gây rối không? Nếu quả thật như vậy thì tại sao họ lại
bình tĩnh và yên lặng như thế?
Chủ nghĩa phát xít đã thẩm thấu vào bọn chúng! Chúng chẳng chút đắn
đo mà lớn tiếng ăn gian nói dối một cách trơ trẽn nhứt và bỉ ổi dễ
sợ! Nếu như chúng ta cho những tên lính giết người vô tội là đồ bần
tiện và hèn hạ thì những ai loan truyền láo lếu trên khắp thế giới
bằng máy chiếu phim và bằng hình ảnh thì phải gọi là gì đây?
Sau khi rời Quảng Trường, khi chúng tôi đi đến đại lộ Trường An, một
chiếc tăng nhào tới chúng tôi để ném lựu đạn cay vào chúng tôi, rồi
đụng nhiều người bạn nữa sau đó nghiền nát luôn. Nhiều xác không còn
nhận ra được nữa. Những người bạn đi trước cứ tiếp tục đi. Chúng tôi
phải lấy khăn bịt miệng lại, không để cho hơi cay làm rát cổ. Chúng
tôi chẳng còn cách nào làm cho những người bạn đã hy sinh sống trở
lại được nữa!
Chúng tôi chia ra làm nhiều tốp nhỏ đi lên phía Bắc, trở về đại học
Bắc Kinh. Có chỗ tạm trú cho những sanh viên từ xa tới. Với một nỗi
buồn mênh mang vô tận, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi còn sống đây
nhưng còn biết bao nhiêu người bạn khác, đông đảo hơn chúng tôi
nhiều, phải nằm lại trên Quảng Trường và trên đại lộ Trường An và
không bao giờ trở lại.
Tôi viết bài này để tự nhắc mình và để kính dâng hương hồn những
người đã vĩnh viễn ra đi, đời đời viên miễn.
Cố Nhân
(Viết theo bài "Moi, Chai Ling, survivante de Tienanmen...",
đăng trên Nouvel Observateur ngày 13 tháng 7 năm 1989.) |