Thư ngỏ của
Chủ tịch Hội luật gia Việt Nam tại Clifornia
kính gửi Luật sư Nguyễn Đăng Trừng,
Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tp. HCM
Dưới
đây là lá Thư Ngỏ của Thẩm phán Phan Quang Tuệ, viết với tư cách là
Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam California, gửi Luật sư Nguyễn Đăng
Trừng, Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư TP-HCM.
Sở dĩ có lá Thư Ngỏ này là vì – theo tác giả – «quyết định thu hồi
chứng chỉ hành nghề luật sư của ông Lê Công Định ngày 29 tháng 6,
2009 của Ban Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư TP-HCM đã khai tử ngành biện hộ
vừa chớm nở, tự tạo thêm những khó khăn cho chính giới luật sư».
Tôi
viết lá thư ngỏ này đến Luật Sư Chủ Nhiệm với tư cách là Chủ tịch
Hội Luật gia Việt Nam California. Hội Luật Gia Việt Nam California
là một hội ái hữu mà đa số hội viên là những thẩm phán đã từng phục
vụ trong các ngành xử án, công tố, và các luật sư thuộc Luật sư đoàn
Toà Thượng Thẩm Sài gòn, Huế trước năm 1975. Đa số nay đã về hưu,
nhưng vẫn hằng hướng về quê nhà và đặc biệt rất quan tâm đến tình
hình tư pháp cũng như sinh hoạt của ngành biện hộ trong nước.
Thử so sánh chế độ luật pháp hai miền trước năm 1975
Miền Nam Việt Nam đã trải qua hai chế độ Cộng Hoà từ năm 1955 đến
năm 1975. Trong 20 năm ngắn ngủi, giữa chiến tranh và xáo trộn triền
miên, và trong những điều kiện hết sức khó khăn, miền Nam Việt Nam
đã thiết lập được những định chế lập pháp, hành pháp, tư pháp, đặt
nền móng căn bản cho những sinh hoạt trật tự cần phải có của một tân
quốc gia. Trong lãnh vực Tư Pháp đã có Tối Cao Pháp Viện, Toà Thượng
Thẩm Sài Gòn và Huế, các Toà Sơ Thẩm tại các tỉnh. Tại Sài Gòn cũng
như Huế đều có Luật Sư Đoàn với các Luật Sư Thủ Lãnh có uy tín.
Miền Bắc lúc bấy giờ vẫn không có một hệ thống tư pháp ngoài Toà Án
Nhân Dân Đặc Biệt thành lập theo Nghị Định ngày 2 tháng Ba, 1953
theo chánh sách cải cách ruộng đất, phân chia giai cấp Trí, Phú,
Địa, Hào. Tiếp theo là Nghị quyết số 49 ngày 20 tháng Sáu, 1961
thành lập các Trung Tâm Cải Tạo. Hậu thân của Nghị Quyết này là Nghị
Quyết số 76 ngày 25 tháng Ba, 1977 hợp thức hoá việc áp dụng các
Trung Tâm Cải Tạo vào miền Nam Việt Nam.
Biến cố tháng Tư, 1975 đã kéo theo sự sụp đổ của chế độ Cộng Hoà
Miền Nam Việt Nam. Tất cả những thành quả thực hiện trong lãnh vực
tư pháp tại miền Nam Việt Nam đã tan ra mây khói.
Ngành biện hộ trong chế độ luật pháp xã hội chủ nghĩa hiện nay
Theo dõi đời sống luật pháp tại Việt Nam hiện nay phải khách quan mà
nhận thấy nền tư pháp nước nhà vẫn còn ở trong tình trạng sơ khai
mặc dù chiến tranh đã chấm dứt gần 35 năm.
Tôi có theo dõi những diễn biến trong nước, đặc biệt là các sinh
hoạt trong lãnh vực biện hộ. Tôi muốn đề cập đến Đại hội Nhiệm kỳ
VIII của Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội ngày 27 và 28 tháng 9, 2008.
Và kế đó là Đại hội Đại biểu Luật sư Đoàn Toàn Quốc ngày 11 tháng
Năm, 2009 tại Hà Nội.
Theo báo cáo đọc tại Đại hội Đoàn Luật Sư Hà Nội [ĐLSHN] thì Hà Nội
đứng hàng thứ hai [sau Đoàn Luật sư TP HCM], có 1,128 luật sư hoạt
động tại 265 văn phòng luật sư, 81 công ty luật. Cũng theo báo cáo
này, ĐLSHN có hơn 40 tiến sĩ Luật và hơn 60 Thạc sĩ Luật. Báo cáo
tại Đại hội cho biết:
1/. 99% luật sư không được cấp giấy chứng nhận bào chữa trong vòng 3
ngày theo luật định. Tìm hiểu thêm thì thấy người luật sư trong nước
phải rất vất vả để có được mọi thứ giấy tờ trước khi được cấp giấy
chứng nhận bào chữa.
2/. Trong nhiệm kỳ qua, Đoàn Luật sư Hà Nội đã xoá tên ba luật sư
Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân và Lê Quốc Quân vì “đã có những bài
viết, phát biểu đi ngược lại đường lối, chánh sách của Đảng, Nhà
Nước, vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư”.
Chiều ngày 27 tháng Chín, 2008 Đoàn Luật sư Hà Nội đã bầu ban Chủ
nhiệm mới, đứng đầu là luật sư Nguyễn Trọng Ty, sinh năm 1929 tức là
80 tuổi.
Vào ngày 19 tháng Giêng, 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết
định số 76 phê duyệt đề án thành lập Tổ chức Luật sư Toàn quốc lấy
tên là Liên Đoàn Luật sư Việt Nam, trụ sở đặt tại Hà Nội. Theo quyết
định thành lập, Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam là thành viên của Mặt
Trận Tổ Quốc Việt Nam, phải tuân theo điều lệ của Mặt Trận Tổ Quốc.
Đại hội Đại biểu Luật sư đoàn Toàn Quốc nhóm họp ngày 11 tháng Năm,
2009 tại Hà Nội. Tại Đại hội này người ta được biết hiện nay cả nước
có 5,334 luật sư và 2,000 luật sư tập sự. Đọc diễn văn tại Đại hội,
Chủ tịch Nhà nước Nguyễn Minh Triết tuyên bố: Luật sư phải độc lập.
Chỉ hơn một tháng sau, ngày 12 tháng Sáu, 2009, luật sư Lê Công Định
bị bắt. Ngày 18 tháng Sáu, công an công bố video clip hình luật sư
Lê Công Định đọc bản nhận tội và xin Nhà Nước khoan hồng. Ngày 29
tháng Sáu, 2009, Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP HCM ra quyết định xoá
tên luật sư Lê Công Định khỏi danh sách của Đoàn Luật sư TP HCM vì
“đã có hành vi vi phạm pháp luật, đã bị cơ quan an ninh điều tra của
Bộ Công an khởi tố và bắt tạm giam, đã vi phạm luật luật sư và Quy
tắc đạo đức nghề nghiệp”. Ngày 30 tháng Sáu, đại diện Bộ Tư Pháp
(??) đã tới nơi tạm giam ông Lê Công Định để tống đạt quyết định thu
hồi giấy phép hành nghề của luật sư Lê Công Định.
Quyết định nói trên của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP HCM là lý do
dẫn đến lá thư ngõ này. Lá thư tuyệt đối không nhằm mục đích chính
trị, đả kích chế độ hay “tuyên truyền, nói xấu nhà nước”. Mục đích
thư ngõ này cũng chẳng phải để biện hộ cho luật sư Lê Công Định vì
tôi tin rằng nhà nước rồi ra sẽ phải trả tự do cho ông ấy.
Điểm duy nhất tôi muốn đề cập trong lá thư ngõ này là quyết định thu
hồi chứng chỉ hành nghề luật sư của ông Lê Công Định ngày 29 tháng
6, 2009 của Ban Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư TP-HCM. Với quyết định này,
mà theo tôi, không cần phải có, Ban Chủ Nhiệm đã khai tử ngành biện
hộ vừa chớm nở, tự tạo thêm những khó khăn cho chính giới luật sư.
Khi rút giấy phép hành nghề của đồng nghiệp Lê Công Định, vô tình
quý vị đã tự thu hẹp lãnh vực hành nghề của tất cả các luật sư Việt
Nam vốn đã vất vả trong đời sống nghề nghiệp hàng ngày dưới chế độ
luật pháp hiện nay trong nước.
Phần kế tiếp của thư này sẽ có những đoạn trích dẫn bằng Anh Ngữ.
Tôi xin mạn phép để nguyên văn không phiên dịch.
Từ luật hình thức...
Tổ chức chuyên nghiệp được công nhận là lớn nhất của Hoa Kỳ và của
thế giới là American Bar Association [ABA]. ABA được thành lập năm
1878 tại New York, có hơn 400,000 luật sư hội viên, với trụ sở chính
đặt tại Chicago, và văn phòng liên lạc tại Hoa Thịnh Đốn.
Phần mục đích (Goals) hay sứ mạng (Mission) của Luật sư đoàn Hoa Kỳ
rất ngắn như sau:
“To serve equally our members, our profession and the public by
defending liberty and delivering justice…”
Và phần mục tiêu (Objectives) thì có những đoạn ghi như sau:
“Hold governments accountable under law.
….work for just law, including human rights, and a fair legal
process.
…. Preserve the independence of the legal profession and the
juridiary.”
Nhưng điều mà tôi muốn đề cập ở đây là điều khoản quy định về việc
chấm dứt tư cách hội viên. Điều 3.3 (b) của Điều lệ và Nội quy của
ABA nói như sau:
“…. A member who, by a final order or judgment (1) is convicted of a
felony or (2) is disbarred or suspended…. ceases to be a member of
the Association… For other good cause, after a hearing at which the
member is given reasonable opportunity to be present with counsel
and be heard in his or her own defense, a member may be censured,
suspended, or dropped from membership by the Board of Governor.”
Hẳn nhiên đây là một điều khoản của một Bản Điều Lệ của một tổ chức
Mỹ. Nhưng ABA là một tổ chức đã hiện diện trên 130 năm. Điều lệ và
nội quy sinh hoạt của tố chức này đã được thử thách qua thời gian.
Và thực ra hầu như tất cả các tổ chức trên thế giới ngày nay đều
theo những nguyên tắc tương tự khi quy định về vấn đề chấm dứt tư
cách hội viên. Đó là khi hội viên bị tuyên án phạm một trọng tội, và
bản án là án chung thẩm. Trong tất cả mọi trường hợp khác, hội viên
bị đơn phải có cơ hội được biện hộ bởi luật sư trước khi bị kỷ luật.
Quyền được biện hộ, hay bào chữa là một thành tố của quyền được xét
xử công khai và công bằng. Tại Pháp quyền này có từ thời Bộ Luật Nã
Phá Luân năm 1808 (Napoléon Code of Criminal Instruction), tại Anh
từ năm 1836 (Prisoner’s Counsel Act), tại Hoa Kỳ từ năm 1791 với Tu
chính án thứ VI trong 10 Tu chính án được biết đến như là Đạo luật
Công Dân Quyền (Bill of Rights).
Những nguyên tắc nói trên nằm trong phạm vi lãnh vực luật hình thức,
một yếu tố không có không được (sine qua non) của Quy Trình Pháp
Luật (Due Process of Law), phân biệt với luật nội dung. Nguyên tắc
giải thích, và từ đó để áp dụng luật pháp, là luật hình thức phải
được áp dụng một cách chặt chẽ, khác với luật nội dung trong đó nhà
áp dụng luật phải dựa vào án lệ, thông luật và sau cùng truy tìm ý
định của nhà lập pháp khi lời hành văn của điều luật tối nghĩa.
Dựa theo những nguyên tắc trên, quyết định thu hồi chứng chỉ hành
nghề của luật sư Lê Công Định bởi Ban Chủ nhiện Đoàn Luật sư TP HCM
là một quyết định bất hợp pháp, và vì thế, vô hiệu. Luật sư Lê Công
Định, cho đến nay, không bị tuyên án phạm tội bởi một bản án chung
thẩm nào. Điều gọi là lời thú tội, trong khi bị can còn bị giam giữ,
là môt lời thú tội bị xem như là ép buộc (confession by coercion,
under duress) cho đến khi bản thú tội được kiểm chứng qua một cuộc
đối chứng trong một phiên toà công khai. Những người thu âm và thu
hình bản thú tội phải bị truyền ra toà, lý lịch (ngày sanh tháng đẻ,
nghề nghiệp, hồ sơ hình sự) phải được kiểm chứng bởi luật sư biện
hộ. Hai vị tướng công an phải ra toà để khai về lý do cuộc họp báo
ngày 18 tháng Sáu.
Và vì không hề, cho đến nay, bị tuyên án phạm tội bởi một bản án
chung thẩm, luật sư Lê Công Định không thể bị rút quyền hành nghề mà
không được bào chữa trong một phiên xử trong đó ông được quyền có
một thời gian vừa phải để chuẩn bị. Thi hành việc tống đạt quyết
định thu hồi giấy phép hành nghề trong khi bị can còn bị quản thúc,
với hạn 15 ngày để trả lời, cho một quyết định hiệu lực kể từ ngày
ký (trước ngay cả ngày tống đạt), thì cả quyết định, lẫn “trình tự”
đưa ra, thông qua (nếu có), và tống đạt đều vô hiệu.
Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP-HCM phải tự động (sua sponte) thu hồi
cả quyết định lẫn lệnh tống đạt. Chờ cho đến khi hoặc có bản án
chung thẩm, hoặc nếu không, khởi sự lại từ đầu thủ tục tống đạt. Kết
luận, ông Lê Công Định vẫn giữ toàn quyền hành nghề luật sư theo
luật lệ hiện hành tại Việt Nam.
… đến luật nội dung
Theo hai cuộc họp báo của Công an vào ngày 13 và 18 tháng Sáu, 2009
thì luật sư Lê Công Định ‘‘đã âm mưu lật đổ nhà nước bằng phương
pháp bất bạo động và lợi dụng việc biện hộ của thân chủ để nói xấu
Nhà Nước’’.
Điều 88 thuộc trong 15 điều khoản trong Chương XI quy định về các
«tội xâm phạm An ninh Quốc gia’’ của Bộ Luật Hình Sự. «An ninh Quốc
gia” là nhóm danh từ được các chế độ cộng sản sử dụng như là một tấm
chắn che chở và bảo vệ chế độ. Nhận xét này là sự thật đã được lịch
sử cận đại chứng minh, không phải là tuyên truyền nói xấu chế độ.
Luật pháp cộng sản, hay xã hội chủ nghĩa dưới thời Stalin ở Nga sô,
Honecker ở Đông Đức, Jaruzelski ở Ba Lan, Fidel Castro ở Cuba,
Daniel Ortega ở Nicaragua, Milos Jakes ở Czecholovakia, Nicolae
Ceaucescu ở Romania, Mao Trạch Đông ở Trung quốc, và Hồ Chí Minh và
những người kế vị hiện nay ở Việt Nam đều rập khuôn như nhau. Tuyệt
đại đa số các chế độ trên đã sụp đổ, những điều khoản tương tự như
điều 88 đã lỗi thời, ngoại trừ trường hợp thiểu số rất nhỏ trong đó
có Việt Nam.
Điều 88 có phải là một điều khoản luật pháp hay không?
Tục ngữ luật pháp La Tinh có câu ‘‘Nulla Poena Sine Lege’’. Luật sư
chủ nhiệm đã từng theo học tại Đại Học Luật Khoa Saigon trước đây
chắc còn nhớ nguyên tắc hình luật căn bản này.
‘‘Pas de peine sans lois.’’. Không có luật pháp thì không có tội.
Vấn đề của điều 88 là tính cách quá mơ hồ của điều khoản này. Thế
nào là tuyên truyền chống Nhà Nước? Thế nào là tuyên truyền phỉ
báng? Thế nào là tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý gây
hoang mang trong nhân dân? Hình luật là một lãnh vực mà hình phạt là
lấy đi tự do và cả đời sống của con người, không thể được điển chế
một cách tổng quát, mơ hồ và xử dụng như một màng lưới để Nhà Nước
tùy tiện xử dụng nhằm bịt miệng người dân.
Trong lãnh vực luật quốc tế về nhân quyền, có hai quyền được công
nhận, đó là quyền tự do lập hội và quyền tham dự vào các hoạt động
của nhà nước.
Điều 20 (1) của Tuyên Ngôn Quốc Tế và Nhân Quyền (The Universal
Declaration of Human Rights) nói như sau: ‘‘Everyone has the right
to peaceful assembly and association.’’ Điều 21 (1): ‘‘Everyone has
the right to take part in the government of his country….’’ Điều 21
(3): ‘‘The will of the people shall be the basis of the authority of
government.’’
Điều 25 của Công Ước Quốc Tế về những quyền dân sự và chính trị
(International Covenant on Civil and Political Rights) nói như sau:
‘‘Every citizen shall have the right and opportunity… without any
unreasonable restrictions… to take part in the conduct of public
affairs, directly or through freely chosen representatives…, to vote
and to be elected at genuine periodic elections which shall be
universal and equal suffrage and shall be held by secret ballot,
guaranteeing the free expression of the will of the elector.’’
Điều 11 của Hiệp Định Paris ngày 27 tháng Giêng, 1973, viết như sau:
‘‘Immediately after the cease-fire, the two parties will achieve
national reconciliation and concord, end hatred and emmity, prohibit
all acts of reprisal and discrimintion against individual or
organization that have collaborated with one side or the other ;
ensure the democratic liberties of the people: personal freedom,
freedom of speech, freedom of the press, freedom of meeting, freedom
of political activìties, freedom of residence, freedom of work,
right to property ownership and right to free enterprise. »
Theo những tiêu chuẩn trên thì điều 88 một mặt qúa mơ hồ, tối nghĩa,
mặt khác đi ngược lại với luật và thoả ước quốc tế mà Nhà Nước hiện
nay đã là hội viên ký kết. Do đó điều 88 không phải là một điều
khoản mang tính cách luật mặc dầu được khoác lên chiếc áo như là một
điều luật.
Trong chương XI của Bộ Luật Hình Sự nói về các tội xâm phạm an ninh
quốc gia thực ra chỉ có một điều khoản là được viết khá rõ ràng. Đó
là điều 81 quy định tội xâm phạm an ninh lãnh thổ. Điều này phạt tù
từ mười hai năm đến hai mươi năm, hoặc tù chung thân «những người
nào xâm nhập lãnh thổ, có hành động làm sai lệch đường biên giới
quốc gia, hoặc có hành động khác nhằm gây phương hại cho an ninh
lãnh thổ...’’. Đường biên giới quốc gia đã bị làm sai lệch, lãnh
thổ, lãnh hải đang bị xâm nhập mà sao không thấy những giới chức có
trách nhiệm bị truy tố, lại truy tố những kẻ muốn hành xử quyền phát
biểu ý kiến những vấn đề trọng đại chung của đất nước?
Mối Liên Hệ đặc biệt giữa Luật Sư và Thân Chủ
(Attorney-Client Privilege)
Những bằng chứng dùng để bắt giam và buộc tội Luật Sư Lê Công Định
còn có việc Luật Sư Định bị tố cáo đã ‘‘lợi dụng việc biện hộ cho
các thân chủ để nói xấu Nhà Nước’’!
Tuy đã phục vụ 5 năm trong Ngành Tư Pháp trong nước trước 1975, và
làm việc trong ngành công tố và xử án tại Hoa Kỳ hơn 30 năm, tôi
chưa từng đọc thấy một lời tố cáo lạ kỳ như vậy. Nhiệm vụ của luật
sư là biện hộ cho thân chủ. Để hoàn thành trọng trách này thì theo
tập quán và luật lệ ở các quốc gia văn minh, những tin tức từ những
tham khảo, trao đổi, phỏng vấn, kể cả khế ước giữa luật sư và thân
chủ đều được bảo vệ bởi điều được gọi là attorney-client privilege.
Về phần biện hộ thì giữa phiên toà công khai, vị thẩm phán chủ tọa
phiên xử là người điều khiển phiên tòa. Lời khai nhân chứng, chứng
từ, tài liệu xuất trình, tranh luận giữa luật sư nguyên đơn và bị
đơn nếu là vụ án dân sự, công tố và biện hộ nếu là hình sự, biện hộ
kết thúc (closing arguments), đều dưới quyền của vị thẩm phán ngồi
xét xử, dựa theo luật lệ, và thủ tục tập quán địa phương (statutes,
regulations, local rules and procedures). Ông ta có thể tạm ngưng
phiên xử, truyền luật sư đôi bên vào phòng nghị án. Ông ta cũng có
thể tạm ngưng phiên xử công khai, chuyển qua thành phiên xử kín vì
lý do an ninh, hay vì quyền lợi công cộng (public interest). Ông ta
có thể, trong một ít trường hợp, khuyến cáo hay khiển trách luật sư
đôi bên. Tất cả những diễn biến này đều được ghi lại bằng tốc ký
(ngày xưa), máy thu âm (ngày nay cũng đã lỗi thời, được thay thế
bằng hệ thống Digital Audio Recording, DAR) hay Video (cả thu hình
lẫn thu âm).
Xem như thế, không thể nào buộc tội một luật sư đã: ‘‘lợi dụng việc
biện hộ để nói xấu Nhà Nước’’ được. Vì nếu như vậy thì bỏ luôn vai
trò biện hộ cho xong. Nếu chấp nhận lời tố cáo của công an là luật
sư Lê Công Định vi phạm điều 88 vì ‘‘đã lợi dụng biện hộ cho thân
chủ để tuyên truyền nói xấu Nhà Nước’’ thì quý vị đã biến công an
thành công tố, biến công tố thành xử án, và tự hủy vai trò biện hộ
của tất cả luật sư trong nước từ Nam chí Bắc.
Trong một bài diễn văn đọc trước Luật Sư Đoàn Hoa Kỳ ngày 12 tháng
2, 1984, Thấm Phán Tối Cao Pháp Viện Warren E. Burger, Chủ Tịch TCPV
lúc bấy giờ đã nói như sau: ‘‘Doctors…still
retain a high degree of public confidence because they are perceived
as healers. Should lawyers not be healers? Healers, not warriors?
Healers, not procurers? Healers, not hired guns?’’
Cách đây một năm thế giới đã chứng kiến hàng ngàn luật sư tại Hồi
Quốc xuống đường phản đối chính phủ Hồi đã lạm quyền cách chức vị
Chủ Tịch TCPV của Hồi Quốc. Hình ảnh các luật sư bị đánh đập, văn
phòng làm việc bị đập phá được chiếu trên màn ảnh truyền hình khắp
nơi trên thế giới. Nhưng họ đã nhất quyết đoàn kết và giữ vững lập
trường. Và sau cùng vị chủ tịch TCPV đã được trở lại nhậm chức,
ngành tư pháp của Hồi Quốc, Luật Sư Đoàn Hồi Quốc vẫn duy trì được
tư thế độc lập của mình. Trong suốt thời kỳ tranh đấu, Luật Sư Đoàn
Hồi Quốc đã bị áp lực rất nhiều nhưng không có ai bị thu hồi giấy
phép hành nghề!
Đoàn Luật Sư TP-HCM cần thu hồi ngay quyết định rút giấy hành nghề
của Luật Sư Lê Công Định.
Phan Quang Tuệ
Nguồn: Viettribuneonline.com
http://www.viettribune.com/vt/index.php?id=3555
------------------------------
(*) Tại Việt Nam trước 1975, sau khi tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa
Sài gòn, ông Phan Quang Tuệ lần lượt phục vụ trong các chức vụ
Chuyên viên Ngân Hàng Quốc gia, Sĩ Quan Quân Pháp, Công Cán Ủy Viên
Văn Phòng Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện.
Tại Hoa Kỳ, sau khi tốt nghiệp Drake University School of Law, trở
lại ngành luật từ năm 1984. Lần lượt giữ các chức vụ Thẩm Phán Hành
Chánh, Tùy Viên Công Tố (Assistant Attorney General) tại Des Moines,
Iowa; Trial Attorney cho INS từ 1988 đến 1993, Thẩm phán Hành Chánh
tại Sacramento từ 1993-1995. Nhậm chức Thẩm Phán Toà Án Di Trú San
Francisco từ 1995 đến nay. Hiện là Chủ Tịch Hội Luật Gia California
nhiệm kỳ 2007-09. |