Cõi chết không
buồn
(Chuyện này được trích từ sách
"Những Chuyện Huyền Bí Có Thật" cuốn 1 của Nguyên Hà)
Lời tác giả: Xin thưa ngay cùng các bạn, tôi là một người
đàn ông có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc, từ lúc thiếu thời
cho đến khi kể cho các bạn nghe câu tự chuyện có vẻ huyền bí
này. Nhưng thực sự, tất cả đã xảy ra mà diễn tiến đúng như những
gì tôi sắp kể, không hề có ý thêm bớt, đặt điều.
Các bạn tin hay không tin, cũng không phải là điều thật sự cần
thiết, vì ý của tôi là chỉ muốn được có cơ hội nói ra tất cả
những cảm giác khác thường của một người đã chết đi sống lại
trong một khoảng thời gian khá dài ngay tại xứ sở được tiếng là
văn minh tiến bộ nhất này, mà đối với lý luận khoa học, chưa bao
giờ có sự thừa nhận chính thức, cho dù chính mắt họ là những
người đã có mặt bên cạnh tôi từ khi tôi được đưa vào bệnh viện
cho đến khi tôi được các bác sĩ khám nghiệm chứng nhận đã sống
lại và đã trở về sinh hoạt như bao nhiêu người bình thường...
Chưa hết, còn chính mắt bè bạn, thân nhân vợ con tôi là những
nhân chứng sống nữa cơ mà. Tất cả, họ đã chứng kiến tận mắt và
vẫn đang hiện diện nơi đây. Tôi chắc họ cũng chẳng ngại ngùng gì
để sẵn sàng làm chứng cho điều tôi tự thuật về "một lần ra đi và
một lần trở lại" của một xác chết hồi sinh, trở lại sống kiếp
người bình thường...
Sáng
hôm ấy là ngày sinh nhật thằng con út của tôi. Mẹ nó và con chị,
cùng với cả các bác các anh chị cô chú trong gia đình nội ngoại
của chúng tôi ở đây, từ cả tháng trước đã sắp đặt một chương
trình vui chơi cho nó. Xem vậy mà tôi chỉ là một nhân vật phụ
trong những dịp tổ chức như thế này trong gia đình cho nên tôi
chỉ cần thi hành đầy đủ những gì mà vợ con tôi đề nghị. Quan
trọng nhất là việc làm tài xế lái xe cho mẹ nó và hai cháu. Muốn
đi đâu họ cứ việc nói, tôi chở đi ngay, còn bao nhiêu chuyện
khác, mọi người đã sắp đặt toan tính đâu vào đó cả.
Nhiệm vụ "then chốt" của tôi chỉ có vậy, cho nên, cá nhân tôi,
tự nhiên được nhờ ơn vợ con họ hàng, các anh các chị thương yêu
"kẻ sĩ", đâm ra sung sướng, chẳng phải quán xuyến chuyện gì. Mỗi
khi có hội hè đình đám trong gia tộc là tôi cứ lè phè, không bị
mệt đầu óc tính toán này kia. Muốn đi đâu làm gì tùy ý với cái
máy gọi (pager) phải luôn luôn mở (turn-on). Và như thế, bổn
phận tài xế của tôi, nhất thiết, không thể lơ là. Lý do cũng dễ
hiểu vì các con còn bé, vợ tôi thì suốt gần 20 năm làm bạn với
màn ảnh computer ở sở cũng như ở nhà nên đôi mắt nàng có đẹp và
quyến rũ thật nhưng lại bị cận thị quá nặng nề nên thời tiết và
ban đêm mà bảo nàng lái xe đi đâu, kể như ... xúi trẻ con đi ăn
cướp nhà băng ở đất Mỹ.
Lễ sinh nhật của thằng con tôi được mẹ nó, các bác các cô, các
anh chị nó ấn định vào cuối tuần để cho mọi người trong nhà có
thời giờ đến tham dự vui chơi ăn uống, đánh bài "mà chược", "xì
phé", ca hát "karaôkê". Buổi sáng thứ bảy đó, giống như bao
nhiêu vụ hội hè đình đám gia tộc chúng tôi đã làm như một thói
quen không bao giờ thiếu ở xứ Mỹ này, điện thoại trong nhà gọi
đi order thức ăn ở nơi chuyên làm thức ăn đãi tiệc, có lúc
chuông reo inh ỏi của các chị em bạn gái trong nhà gọi đến từ
những vùng lân cận, chẳng có lúc nào ngưng, đường dây cứ thế mà
bận liên tục...
Dù tôi không có nhiệm vụ phải dậy sớm cũng không thể nào ngủ
nướng thêm được với một buổi sáng rộn rịp như thế này, đành phải
ra khỏi cái giường êm ấm. Định gọi một anh bạn thân, xuống cái
quán quen ở khu Bolsa uống cà phê tán láo, cũng không thể xen
vào "đường dây điện thoại đỏ" đang được vợ tôi và các cô em xử
dụng liên hồi.
Tôi chẳng lấy thế làm phiền não về chuyện này giống như tôi đã
từng không phiền não trước hàng trăm thứ chuyện xảy ra hàng ngày
trên đất Mỹ, bèn ra phòng ăn cầm ly cà phê sữa còn ấm vợ tôi đã
pha sẵn, rồi tôi lững thững với gói thuốc lá bước ra sân sau,
chỗ cái bàn bằng nhựa trắng ngồi uống cà phê một mình, ngắm
khung cảnh ẩn hiện qua làn sương mai ở dưới cuối chân đồi đang
được ánh nắng đầu ngày điểm cho một màu vàng trác tuyệt.
Trước khi tới cái bàn nhựa kê ở góc sân, tôi đảo bước chân theo
thói quen dọc theo con suối nhân tạo mà tôi đã mất nhiều tốn kém
và công phu thuê mấy người "Landscaper" (thợ làm cây cảnh cho tư
gia) đến xây dựng cho, từ ngay khi chúng tôi mua căn nhà giá cả
khá cao nằm trên đỉnh đồi này, nên trong khuôn viên sau căn nhà
chúng tôi có một khung cảnh tương đối sang trọng nên thơ và đẹp
mắt với một hòn non bộ đầy màu sắc, các loại cây cảnh Trung Quốc
xỏa tàng lá đó đây bên dòng suối quanh co nước chảy róc rách với
lũ cá cảnh xanh trắng đỏ vàng, chung quanh khu vườn đầy hoa tươi
rực rỡ.
Tôi bước trên những phiến đá gập ghềnh còn đọng ướt, trơn trợt
sương đêm. Bỗng nhiên bàn chân trái của tôi vô ý bước lọt vào
giữa hai cục đá, ly cà phê bên tay trái, gói thuốc lá và cái bật
lửa bên tay phải của tôi bất ngờ bị hất tung lên trời, cả người
tôi mất thăng bằng ngã ngang trên con suối nhỏ mà bờ suối không
quá rộng, ở bên kia cũng có những cục đá xếp lô nhô lên như chờ
đợi đón lấy các đầu của tôi sẽ đập xuống một cách vô tình chưa
đầy một phút đồng hồ.
Tôi nghe một tiếng rầm thật to, thật vang động trong đầu tôi rồi
không còn biết gì ở thực tại mà tôi vừa hiện diện nữa.
Hồn lìa thân xác lẩn quẩn bên vợ con
Người tôi ngay sau phút ấy không còn trọng lực nữa, tôi nghe nhẹ
hẩng trong không gian, việc xê dịch, đi đứng khoan thai thật
thảnh thơi dễ dàng, không còn chút trở ngại nặng nề cùng với một
cảm giác lâng lâng hạnh phúc. Từ một khoảng 180 độ đằng trước
mặt, tôi có thể nhìn rõ tất cả những gì hiện ra trước mắt.
Nhưng 180 độ phía sau lưng, mỗi khi ngoái đầu nhìn lại, tôi chỉ
thấy một vùng sương trắng dầy đặc, không có bất cứ vật thể gì.
Tôi còn nghe được rõ ràng mọi người đang nói chuyện với nhau lao
nhao láo nháo hết sức ồn ào. Vợ tôi đang cuống cuồng trả lời
những gì các ông bà Mỹ đến lập thủ tục, điều tra. Thường nhật
nàng vốn là một phụ nữ có đầy nghị lực, không khóc lóc dễ dàng,
nhưng giọng nói và tia mắt lúc này thì quá đỗi phiền muộn, trông
thật là tội nghiệp. Hai đứa con của tôi thì vô cùng thê thảm,
chúng quấn quít bên cạnh cái xác của tôi giống như lúc thường có
tôi nằm ngủ và chúng thì lẩn quẩn ở bên hoặc xem video con nít,
hoặc xoay quanh những món đồ chơi điện tử trong nhà. Giờ đây
chúng im lìm không nói gì cả. Chúng cứ dán mắt vào thân thể nằm
thẳng đơ của tôi đặt nằm trên một chiếc băng ca, sắp sửa được
chuyển ra chiếc xe cấp cứu đang cùng đậu chung với xe cứu hỏa,
xe cảnh xát, đèn chớp loang loáng trước sân nhà.
Tôi được chuyển vào một bệnh viện lớn, qui mô nhất ở gần nhà một
cách khẩn cấp sau khi vợ tôi ký tên trên những văn kiện hành
chánh theo đúng thủ tục bình thường. Rồi bốn năm vị bác sĩ nam
nữ người Mỹ cùng với một nữ bác sĩ giải phẫu người Việt Nam bu
lại chung quanh xác tôi. Tùy theo phương vị của từng người, họ
đang làm những thủ tục khảo nghiệm.. Sau cùng, trên tờ báo cáo y
khoa sơ khởi, họ giải thích cho vợ con cùng các anh chị họ hàng
trong thân quyến tôi nghe:
- Ông ta bị té đập mạnh đầu vào một viên đá nhọn. Tình trạng hôn
mê tê liệt nặng nề nhưng chưa chết vì thân nhiệt vẫn còn, cho
nên chúng tôi sẽ cho áp dụng những phương pháp cấp cứu hiện đại
nhất để hy vọng giữ được mạng sống của ông ta.
Một hai ngày sau, hồn của tôi cũng chẳng cần ngó ngàng gì tới
thân xác cũ của tôi vẫn còn nằm cứng đơ trong phòng hồi sinh với
cả chục y sĩ, y tá suốt ngày đêm khám nghiệm, theo dõi, hết sức
lo lắng, tận tình. Nhìn thấy vợ con tôi hằng ngày buồn phiền ủ
rũ sa sút bên cạnh xác tôi, tôi cảm thấy ái ngại và thương xót
họ tận cùng nhưng không thể làm hay nói gì hơn được.
Đã mấy lần tôi đến đứng trước mặt vợ và ôm lấy hai đứa con đầy
yêu dấu của tôi để nói với nàng rằng tôi không có sao cả, tôi
lúc nào cũng ở cạnh họ và có lẽ chỉ ít hôm nữa là tôi có thể trở
về, nhưng thật là oái oăm, họ không hề nghe được những gì tôi đã
nói, cảm được những gì tôi đã làm như là tôi đã ôm từng đứa con,
xoa đầu, nắm tay và hôn chúng, giúp cho vợ tôi tránh suýt đi
đụng phải một cái cột đèn trong khu parking lot của bệnh viện và
giúp mở khóa phòng ngủ cho họ lúc trở về đến nhà. Có lẽ vì quá
xúc động và còn đang bị ám ảnh về tai nạn chết chóc của tôi nên
họ không hề để ý. Thậm chí, hai đứa nhỏ nhà tôi, khi vắng tôi
trong những đêm đi ngủ, chúng cứ trằn trọc lăn qua xoay lại trên
giường và không ngủ được, tôi đã ôm lấy chúng thì thầm với chúng
bên tai như thường lệ thì dường như chúng chỉ cảm được ở trong
lòng mà không hề biết tại sao mình đang được an ủi vỗ về, chừng
đó mới chịu nằm im rồi chìm dần vào giấc ngủ cho đến sáng hôm
sau, nhỏm dậy ngó quanh quất trong phòng, câu đầu tiên chúng hỏi
mẹ là:
- Bố đâu?
Mẹ nó, lệ ướt lưng tròng trên đôi mắt mất ngủ, sưng vù và đỏ hoe
vì thầm khóc đã mấy đêm, chỉ nhỏ nhẹ nói:
- Các con dậy sửa soạn tắm rửa ăn uống rồi vào với bố ở nhà
thương, nhanh lên, mẹ đã hẹn với bác sĩ ở đó rồi!
Hai đứa con tôi lầm lũi rủ nhau đi vào phòng tắm. Thằng út còn
bé, không thể với tay lấy được cái bàn chải đánh răng riêng biệt
mẹ nó để ở trên cao nên đang cố gắng nhón gót lên lấy, nhưng bàn
tay bé nhỏ của nó vẫn không thể nào với tới được. Cố nhưng lấy
không được, cu cậu tức quá cằn nhằn. Tôi đứng nhìn nó mà phát
phì cười, vội lấy cái bàn chải đưa dùm cho nó, nhưng hỡi ôi! Bàn
tay tôi chỉ đặt vào không mà thôi, chiếc bàn chải bé nhỏ lọt qua
bàn tay tôi như lọt vào khoảng không vô ảnh, tôi cũng chẳng giúp
gì được cho con trai tôi dù chỉ là một việc hết sức bình thường
như vậy.
Tuy thật gần gũi vợ con cùng tất cả mọi người thân thiết, chia
xẻ với họ tất cả mọi điều, nhưng tôi không có cách nào tham dự
và làm cho họ nghe, họ thấy được ý mình muốn gì. Tôi nản chí rời
khỏi họ và bắt đầu một mình đi phiêu bạt khắp nơi với ý nghĩ tại
sao hồn tôi không lợi dụng hoàn cảnh này để chu du mọi nơi, mọi
chốn mà lúc sinh thời, mình từng mong ước được đặt chân đến hoặc
trở lại những vùng đất cố hương mà đã gần 20 năm qua, vì lưu lạc
và sinh kế, tôi đã chưa thể trở về thăm viếng lại. Nhất là cái
làng Cồn Tròn hiền hòa bé nhỏ nằm cạnh ven biển thuộc Tỉnh Nam
Định miền Bắc nước Việt Nam, nơi mà cho đến bây giờ bao nhiêu
hình ảnh cùng kỷ niệm thời thơ ấu thần tiên vẫn còn in dấu trong
tâm khảm của tôi.
Những kỷ niệm đẹp đẽ và êm đềm đến độ xót xa mỗi khi tôi hồi
tưởng lại hoặc tiếc thầm cho quãng đời thơ dại của các con, các
cháu của tôi ở nơi xứ lạ quê người, chúng đã đánh mất hẳn đi
nhiều cơ hội được sống và trải qua những ngày tháng bé thơ,
những hình ảnh thiên nhiên chân chất vẹn toàn, không hề vương
vấn chút gì về những tiến bộ văn minh cơ khí, cho dù so với thời
đại của tôi, đời sống vật chất của chúng tôi đầy đủ hơn rất
nhiều. Nghĩ xong là tôi quyết định làm theo ước muốn.
Đi vào cõi chết
Nhưng tôi quên chưa kể cho các bạn nghe về những giây phút đầu
tiên khi hồn tôi rời khỏi thân xác. Nó thật là hữu ích và mang
tính chất khác thường. Hữu ích, theo ý tôi suy luận, là để cho
chính tôi hoặc các bạn, sau này nếu có một lần nào đó, trong giờ
phút lâm chung hồn phải lìa khỏi xác, thì mình đã biết trước để
không bị bỡ ngỡ và làm theo một số qui cách, hoặc chuẩn bị cho
một chuyến đi vĩnh cửu, không vướng những phiền bận sau này về
một chuyển nghiệp tái sinh.
Như đã kể cho các bạn nghe ở phần mở đầu câu chuyện có vẻ huyển
hoặc này. Tôi bị mất trọng lực một cách tự nhiên, rồi gần như
không còn cảm thấy bất cứ điều gì nữa. Nhưng thực sự không hẳn
là như vậy.. Có nghĩa là tôi vẫn còn có riêng ý thức của tôi,
vẫn còn biết thật rõ rệt tôi là một thực thể đang bị một sức hút
vô hình cuốn đi thật nhanh và thật mạnh, mạnh đến đỗi tôi tưởng
không có gì có thể cản lại được. Trong tia nhìn mọi người mọi
vật, tôi có thể thấy thấu suốt tất cả mọi thứ được che dấu bằng
gỗ, bằng xi măng hay bằng các loại vải vóc y phục trên thân thể
mọi người.
Ngay lúc bấy giờ, có khoảng 5 vùng hào quang màu sắc khác nhau
với các luồng ánh sáng từ sáu cõi cùng phóng hiện ra ở quanh tôi
và dường như vùng ánh sáng nào cũng có một sức hút riêng rẽ, như
sẵn sàng để hút lấy tôi và cuốn vào, sau đó sẽ ra sao thì tôi
không được biết. Tôi tự hỏi: "đây là những vùng hào quang và ánh
sáng gì? Có nên hòa nhập vào nó?" Mãi về sau khi được sống lại,
tìm đọc các loại sách thông thiên huyền bí, tôi mới có cơ hội
hiểu được ý nghĩa của các hào quang và ánh sáng đó như sau:
- Luồng ánh sáng mờ là của Chư Thiên.
- Luồng ánh sáng màu lục mờ là của A-Tu-La.
- Luồng ánh sáng màu vàng mờ là của loài người.
- Luồng ánh sáng xanh mờ là của loài xúc sanh.
- Luồng ánh sáng đỏ mờ là của loài quỷ.
- Luồng ánh sáng xám mờ khói là của địa ngục.
Riêng tôi lại bay bổng, lửng lơ và thoát đi bằng một tốc độ siêu
phàm, trôi ra một không gian biệt lập, chỉ có một bên là bóng
tối mênh mông và một bên là dày đặc sương mù, cũng mênh mông
không kém. Tôi chới với trong cõi không vô tận. Tuy không cảm
thấy gì đáng lo sợ, nhưng cũng có hơi chút quản ngại về những
giây phút sắp tới của mình.
Bất đồ, tôi như được một sức mạnh đẩy tới vòng bên ngoài chung
quanh các vị Trì minh với vô số các nhóm Không Tiến Nữ (tiên
giới). Nào là các vị Không Tiến Nữ của tám chỗ hỏa táng, Không
Tiến Nữ của bốn giai cấp ta bà, Không Tiến Nữ của 3 nơi tạm trú,
Không Tiến Nữ của 30 vị chí thánh cùng của 80 chỗ hành hương,
rồi đến các vị anh hùng, nữ anh hùng, các thiên tướng, các thiên
thần bảo vệ đức tin nam nữ, mỗi vị được trang sức với sáu món
mang trên người: một tấm phướn to lớn hình như làm bằng da
người, tàn che và cờ hiệu cũng làm bằng da người. Những vị này
vừa đốt mỡ người cho khói bay lên vi vút, vừa mang vô số nhạc cụ
và làm cho vang động thiên giới bằng cách khua, đập hay rung các
loại nhạc cụ ấy cho chúng phát ra những âm thanh huyên náo, mạnh
mẽ đến nhức óc đinh tai. Các vị này cũng nhảy múa theo các nhịp
điệu khác nhau. Họ xuất hiện, dường như để nghênh đón những
người vừa mới lìa đời, hiền lương hoặc tội lỗi.
Tôi nhìn thấy vô số con người đã có mặt ở nơi tụ hội này. Họ
tuần tự đến đây trước tôi, sau tôi liên tục thật đông đảo, đủ
mọi màu da sắc tộc, đủ cả giai cấp lớn bé già trẻ giống như một
ngày hội cực kỳ lớn ở trên dương trần. Lần lượt, tất cả mọi
người được các vị Thiên tướng nêu trên đón và đưa vào hai ngõ
chính: cuốn hút lên không gian chín tầng hoặc lao sâu xuống 7
tầng địa ngục, để rồi sau đó sẽ như thế nào thì tôi không có cơ
hội được biết.
Các luồng hào quang, ánh sáng vẫn liên tục chiếu sáng, nhã nhạc,
âm thanh vang động cùng khắp cõi trời. Từng làn gió mát mẻ quyện
theo hương thơm ngào ngạt tỏa rộng cùng khắp mọi nơi. Tôi đứng
nhìn mãi, chẳng thấy ai ngó ngàng chi đến mình, cũng không hề bị
cuốn hút vào các luồng ánh sáng ngũ sắc để đi sâu xuống hoặc đi
lên một cõi nào đó của tầng trời, tôi đang ở cõi an nhiên tự tại
vô cùng, bèn lang thang bồng bềnh xoay chuyển tâm thức về miền
tục giới.
Bạn không thể nào tin được hiện tượng hết sức lạ lùng xảy đến
cho tôi trong tâm thức như thế này. Đó là, mỗi khi tôi nghĩ đến
bất cứ nơi nào, người nào dù còn sống hay đã chết, ở trần gian
hay âm giới với ước muốn chân thành tôi muốn được giáp mặt hoặc
được hiện diện nơi đó, thì chỉ trong vòng một "séc-na" ngắn ngủi
là tôi đã được toại nguyện tức thì, có nghĩa là, nghĩ đến ai,
nơi nào hoặc những ao ước về cảm xúc, ngay lập tức, tôi cảm nhận
được liền một cách rõ ràng đầy đủ và trọn vẹn hơn cả lúc thường.
Như tôi đã kể cùng các bạn rằng lúc còn bình thường ở dương
trần, tôi vẫn nuôi một ước vọng là được trở về thăm lại làng Cồn
Tròn của tôi ở tận Bắc Việt, nơi chôn rau cắt rốn cùng những kỷ
niệm đẹp đẽ của tuổi ấu thơ. Tôi cũng đã được về, chỉ trong
khoảnh khắc. Nhưng tôi đã thất vọng não nề vì làng cũ còn, nhưng
cảnh làng sau hơn bốn mươi năm dâu biển, chẳng còn chút gì là
dấu tích năm xưa. Tôi đã cố gắng vận dụng tất cả tiềm thức để cố
tìm lại một vài di tích, địa thế trong làng thì tôi đã làm được
điều đó. Như con sông nhỏ chảy quanh trong làng ra một cái lạch
lớn thì đã bị lấp bằng từ thuở nào.
Bên cạnh con sông nhỏ về hướng tây bắc, có cây đa gốc bự cả chục
người ôm là cơ ngơi gia phả của cha mẹ tôi hồi trước với một
ngôi nhà chính năm gian, có bàn thờ Thiên Chúa ngự trị trang
trọng ở giữa nhà, hai bên là những phòng ngủ có cửa sổ nhìn ra
cái sân lót gạch màu đỏ khang trang, gồm một cái bể lớn chứa
nước mưa mát lịm dùng để ăn uống cho cả nhà quanh năm không bao
giờ cạn, có những cây cau già cao ngất ngưởng, cạnh đó, là một
dãy nhà ngang nối liền nhà trên với nhà dưới gồm có bếp, nhà
kho, nhà cho các anh chị gia đinh cư trú, ở trong nhà và bên
ngoài khu vực đó là chuồng nuôi heo thành giống như một cái hình
chữ U. Sau dãy nhà bếp là một vườn cây xum xuê hoa trái quanh
năm với một hàng rào tre trúc ngập lá vàng.
Chính ở hàng rào tre trúc này là thiên đường thơ ấu của anh chị
em chúng tôi suốt thời kỳ thơ ấu với những giấc ngủ trưa hè êm
đềm thơ mộng hoặc là chỗ trốn bắt chơi đùa, nghịch ngợm. Cũng là
lối đi riêng biệt kín đáo để chốn tránh cha mẹ, do anh chị em
chúng tôi tự làm lấy để có chỗ đi về nhà mỗi khi phạm lỗi, chúng
tôi bị la mắng, có khi ôn bài học hay cùng ăn và ngủ chung nhau
cũng chính ở nơi đây, dưới gốc cây sung thật sai trái năm nào.
Phía sau nhà là cái ao mênh mông của cha tôi nuôi và dụ bắt cá
vào ao trong những mùa nước lũ hàng năm từ một cánh đồng ngay đó
chảy vào. Đến thời kỳ di cư vội vã, cha tôi đã thả xuống ao biết
bao nhiêu lư đỉnh thau đồng mâm bạc quí giá, là những tài sản mồ
hôi nước mắt của gia đình và tài kinh thương của ông thì nay
cũng chẳng còn, giờ chỉ là bình địa với một nhà máy chế tạo muối
từ nguồn nước biển ở cạnh trong làng mọc lên.
Thậm chí đến ngôi giáo đường cổ kính với tháp cao, ngạo nghễ
giữa bầu trời, nơi anh em chúng tôi và lũ trẻ trong làng leo lên
đó đánh đáo bắt chim, nghe tiếng sáo diều, nay cũng đã thay đổi.
Gác chuông đã bị sập từ năm nào và giáo đường thì tiêu điều
hoang phế. Dân trong làng, cố nhiên, tôi không thể nào biết được
một ai, thành ra xa lạ hết, chẳng bù với bốn chục năm xưa, niềm
thân ái với tất cả mọi người trong làng đã trở thành một sợi dây
thân tình gắn bó, không chuyện gì vui buồn sướng khổ xảy ra mà ở
nhà này mà nhà kia không biết, để chia xẻ, ủi an.. Bờ biển năm
xưa bằng phẳng với những hàng thông chạy dài trên bãi cát trắng
phau trải ngập lá thông khô sù sì, giờ bỗng mọc lên những cây
cầu tân lập chạy xa ra ngoài biển dùng để tiếp nhận và chuyên
chở hải sản...
Hồn về thăm Sài Gòn
Ngao ngán trong lòng với giấc mộng về thăm quê cũ, tôi bèn nghĩ
đến một quê hương thứ hai "Sài Gòn" thì ngay lập tức tôi đã đứng
giữa bùng binh của chợ Sài Gòn có công trường Quách Thị Trang.
Tượng Quách Thị Trang cũ nay không còn, thay vào đó là một cái
"kiosque" với đầy khẩu hiệu mang những ý nghĩ kỳ cục ở chung
quanh. Không khí bụi bậm, ồn ào và ngộp thở giữa ánh nắng chói
chang của mùa hạ với những cơn mưa bóng mây ào xuống bất chợt...
Đường phố nhà cửa cũ kỹ tiêu điều với phần lớn là xe đạp, xe gắn
máy dầu, xe hơi chen chúc nhau bò qua lấn lại, nhớp nhúa ghê
hồn.
Ngắm làm gì cái phố xá hỗn tạp và nghèo nàn tả tơi này. Tôi nghĩ
đến con đường Trương Minh Giản khi xưa. Tìm mãi mà cũng không
thấy tên đường nào như vậy, dù chính đây là cây cầu bắt ngang
con lạch nước đen ao tù, nối liền Trương Minh Giản với đường
Trương Minh Ký về hướng nhà thờ thánh Thomas, nhà thờ Tân Sa
Châu, Lăng Gia Cả rồi đến khu phi trường. Tôi không thể nào lầm
lẫn hay quên những địa điểm này được. Nhưng tên các con đường
nay đã được đổi thành tên các chiến sĩ anh hùng của chế độ mới.
Chính vậy mà tôi ngỡ đã bị lầm.
Căn nhà lầu của gia đình tôi xưa kia nay vẫn còn đó, nhưng kiểu
cách, màu sơn căn nhà cũ nay đã thay đổi hoàn toàn. Nơi đây, cha
mẹ tôi đã, cách nhau khoảng 3-4 năm thở hơi cuối cùng với một
nguyện vọng được trông thấy mặt tôi lần cuối, nhưng tôi đã không
về trong giờ các cụ lâm chung. Cha mẹ tôi, dù đã được ơn chết
lành giống như người say ngủ theo như thư từ hình ảnh mà các em
tôi gởi sang Mỹ cho tôi trước đây, dù sao, lúc về trời, các cụ
cũng không khỏi ngậm ngùi vì không được thấy mặt tôi lần cuối,
đứa con trai mà hai cụ thương yêu và đặt nhiều kỳ vọng nhất
trong gia đình.
Ngay tức khắc, tôi đảo mắt đi tìm hình bóng hai cụ trong âm
giới, nhưng nào thấy đâu. Tôi định bụng sẽ đi kiếm vị phán quan
giữ sổ thiên tào để tìm ra cha mẹ sau khi thăm viếng gia đình
các em các cháu của tôi.
Tôi liên tưởng ngay đến phía trong căn nhà thì thấy cô em gái
của tôi, nay đã là một bà già thật sự với số tuổi trên 40 một
vài năm gì đó, đang ngồi trên võng với một đứa trẻ còn phải ẵm
trên tay. Tôi biết đứa trẻ này là cháu nội của Thư, cô em gái
ngang ngược của chúng tôi ngày nào...
Cô Thư với đứa cháu nội, con của thằng cháu Thăng (con trai
trưởng vợ chồng Thư) kháu khỉnh và đẹp như thiên thần đang đong
đưa à ơi trên võng. Còn chồng của Thư, chú Thịnh thì đang mải
miết với cái tiệm làm xe đạp ở gần khu Lữ Gia Phú Thọ. Chú
Thịnh, lúc này trông cũng tươi tốt với cái hàm râu quai nón,
đang "điều binh khiển tướng" trong phân xưởng chế tạo của mình.
Thằng cháu Thăng thì giờ đây đã là một ông kỹ sư chuyên môn về
trồng trọt. Vợ nó, một cô gái tuổi ngoài hai mươi cũng khá xinh
đẹp và trẻ trung, cũng đang tíu tít bận rộn trong một ngân hàng.
Còn chú Khoa, em trai kế của tôi, có vợ đã sang Mỹ với tôi, đi
cùng tàu với hai đứa cháu trai là con chung của Khoa, nhưng nay
vợ Khoa đã bỏ nó đi lấy chồng khác người Hawaii, bỏ Khoa ở lại
Việt Nam. Khoa cũng đã lấy một cô gái trẻ đẹp từ Hànội vào Nam.
Hai vợ chồng Khoa xem ra cũng hạnh phúc, công việc làm ăn có vẻ
là một anh nhà giàu với hai ba cửa hàng bán đồ điện tử, máy hát.
Tôi nhìn thấy vợ chồng chú ấy, nhưng cả hai lại rất vô tình,
không đếm xỉa gì đến tôi lúc đó với tâm trạng thật nôn nao khó
tả vì được gặp lại những người thân yêu.
Tôi liên tưởng đến người bạn thân, anh Nguyễn Đình Kính nhà ở số
- đường Hai Bà Trưng - Tân Định. Giờ đây Kính đã nghiễm nhiên là
một ông trung niên râu tóc bạc phơ um tùm, trông y như một ông
tây mũi tẹt, anh đã lấy lại phong độ của một ông công tử khi xưa
với cửa hàng gia truyền chuyên làm nệm da ghế cho xe hơi các
loại.
Tôi nhớ lại tất cả kỷ niệm năm xưa với gia đình người bạn chí
cốt này cùng hai cô em gái tên Hồng và Hạnh. Hồng thì đã đi tu
ngay từ năm học xong đại học. Còn Hạnh thì nay cũng đã hết giận
tôi, nàng vẫn giữ nguyên nhân dáng của một cô chủ nhà, tiểu thư
và đài các, trên đôi mắt long lanh ngấn lệ thuở nào nay còn
vương in nỗi buồn vạn cổ, thân thể của Hạnh chỉ hơi đẫy đà và
vết sẹo trên lưng vì đạn pháo kích hồi Tết Mậu Thân nay chỉ còn
lại một vết mờ trên tấm lưng tròn trịa, trắng mềm như tuyết,
khiến tôi không dám để mãi tầm mắt âm lực có thể trông thấy thấu
suốt mọi loại y phục che thân của con người trên thân thể lồ lộ
của Hạnh.
Tôi nhìn Hạnh mà nghe tâm tư xao động với những kỷ niệm tình ái
hiện về. Thôi, Hạnh ạ! Âu cũng là duyên mệnh phù du. Dạo ấy, tôi
vừa mới ra trường quân sự, người ngợm đen như hòn than, đầu tóc
nhẵn thín như vị sư, hướng đời chưa biết dọc ngang may rủi bởi
chiến tranh sẽ như thế nào. Chỉ vì tội nghiệp Hạnh nên tôi làm
tuồng, giả vờ cứng cỏi, từ chối hôn nhân với nàng theo lời đề
nghị của cha mẹ tôi và gia đình của Hạnh. Nàng giận tôi, buồn
riêng suốt nhiều năm tháng cho đến lúc tôi đến được Mỹ đã gần
bốn năm. Kính báo tin cho tôi biết Hạnh đã lấy thằng Hoàng, con
trai cụ Cử Phán, hắn là một luật sư, nay đang là cố vấn pháp
luật cho nhà nước đương thời, nhưng hai vợ chồng Hạnh, Hoàng
không sanh được đứa con nào hết.
Tôi và Kính đều hiểu rõ lý do tuyệt tự này từ lúc thằng Hoàng
còn đi học. Nó ỷ nhà giàu, ăn chơi hoang đàng chi địa, bị bịnh
và sẽ không thể có con. Nhưng nó dấu Hạnh, không cho Hạnh biết
lý do này cho nên Hạnh chỉ buồn vì không có con mà không hề biết
tại sao vợ chồng nàng lại hiếm muộn như vậy, suốt đời nàng cứ đi
hì hục khấn vái, mà trời đất lại chẳng động tâm. Tôi nhìn thằng
Hoàng dâm tặc đang ngồi trong văn phòng riêng tại tòa án với đám
nữ thư ký xoắn xuýt hai bên, đã biết hắn từng làm cho Hạnh khổ
sở thật nhiều. Tôi trừng mắt nhìn hắn, tiến lại định cho hắn cái
tát nên thân, song khổ nỗi, tôi vốn chỉ là một hồn ma vô hình,
tôi không thể nào làm được bất cứ chuyện gì cần đến dương lực
của một con người trên trần thế.
Tôi tiến lại chỗ Hạnh đang ngồi hong nắng. Tấm thân Hạnh trắng
ngần, gương mặt êm đềm với đôi mắt đen đậm buồn suốt kiếp. Cô
người ở từ trong bưng ra một tách trà nghi ngút khói, đặt trên
chiếc bàn lim bên cạnh cây đàn dương cầm của Hạnh, rồi khép nép
bước vào nhà trong. Tôi đứng trước mặt nàng, lòng rộn lên bao
nhiêu là xúc động. Bỗng Hạnh có ý đứng lên. Tôi tự chế không dám
động tĩnh gì, bèn đến bên Hạnh thì thầm nho nhỏ:
- Chào Hạnh anh đi. Rồi tôi hôn nhẹ lên mái tóc Hạnh ướp đẫm
hương trầm của tôi ngày nào.
Phán quan cõi âm nói chuyện quả báo
Rồi tôi nghĩ đến việc phải đi tìm cha mẹ.
Bỗng một vị phán quan hiện ra trước mặt, sửng sốt ngó tôi:
- Tại sao anh còn ở lại chốn này? Số của anh chưa đến ngày đến
tháng, chỉ là một sự lầm lẫn của người giữ sổ thiên tào mà thôi.
Hãy mau trở về, vợ con anh và mọi người đang bấn loạn vì không
biết phải xử trí ra sao với cái xác của anh vẫn còn hơi nóng.
Tôi khúm núm trình rõ sự tình cùng ước nguyện truy tìm tông tích
của cha mẹ. Vị phán quan già chậm rãi nói với tôi:
- Người cha già mà anh đang đi tìm đó chính là thằng con út của
anh bây giờ. Ông già của anh trong giờ chết, vẫn còn quá nhiều
luyến ái vì chưa được gặp anh. Sau khi cứ lần lữa mãi không chịu
đi, thiên tào đã cho ông ta đầu thai làm con trai của anh để cho
thỏa lòng thương nhớ.
Tôi ra vẻ không tin. Vị phán quan ôn tồn:
- Anh hãy trở về nhập lại thân xác rồi xem kỹ trên cánh tay phải
và chỗ thiên căn trên đỉnh đầu của con anh, sẽ có in những dấu
tích của cha anh khi còn sinh tiền. Còn bà mẹ anh, nhờ hiện
nghiệp suốt đời khổ hạnh và chay tịnh, bố thí làm phúc nên bà ta
đã thoát ra khỏi vòng luân hồi tử sanh, hiện bà ta là tiên nữ ở
cõi thứ sáu của tầng trời. Anh không còn cơ duyên gặp lại nữa.
Tôi muốn nhân cơ hội hy hữu này nấn ná trò chuyện với vị phán
quan để tìm biết thêm về một số điều bí ẩn của con người còn tồn
tại ở trên dương thế. Vị phán quan bắt tôi phải hứa không được
tiết lộ qui luật nhà trời và ông đã cho tôi được biết riêng rất
nhiều điều hết sức quý báu. Những điều đó thật ra, khi còn tại
thế, không những tôi mà muôn triệu người khác đã thấy, đã đọc
nhan nhãn trong các bộ kinh Phật, kinh Chúa cả rồi. Chỉ có điều
là con người quá ư là ngạo mạn, miệt thị cả thánh thư cho nên
rất nhiều người có đời sống mà xem như đã chết, có đọc đó mà
chẳng hiểu biết, mở mang được điều gì cho phần tư duy thánh
thiện rồi cứ như một dòng sông chảy xiết chẳng có lúc ngừng để
gạn lọc cho đến ngày tận số về trời, lãnh lấy những nghiệp báo
của đời sau.
Chỉ sang những cửa ngục đọa hình, vị phán quan phân giải cho tôi
thấu hiểu từng loại tội phạm với những khổ hình đau khổ, kể sao
cho xiết. Tôi nhận được nhiều khuôn mặt nhân dáng thân sơ. Tôi
nhớ ra được rõ rệt từng thành quả của họ đã tạo nghiệp ở đời. Có
người tôi ngỡ ăn ngay ở lành, thì tại nơi đây, họ đang cam tâm
thọ án. Chả là vì khi còn sống, những người này quá khôn khéo
che đậy những tội ác của họ mà thôi.
Lại có những người trước đây tôi có định kiến, xem họ là những
người xấu, ở nơi đây họ lại là những hồn lành, hưởng phước đời
đời nếu họ không còn trong vòng tử sinh tái kiếp, chỉ vì họ là
những người trung trực không hề gian dối che lấp những ý nghĩ và
hành động thật sự trong lòng.
Nhưng đa số những vong hồn khi còn sống là những kẻ thất thế
nghèo nàn, sa cơ lỡ vận, thường bị những hàm oan thống khổ, khi
về trời, họ lại được đền bù và an ủi bằng tất cả ân phước của
đấng tối cao.
Vị phán quan nhìn tôi chằm chằm:
- Thấy rồi thì nên sám hối, không được tự dối chính bản thân
ngươi. Nếu không ngục tối cực hình dành cho nhà ngươi không phải
là điều không thể có. Hãy mau quay gót trở về.
Lòng tôi cảm động bồi hồi. Hứa với phán quan sẽ quay về nhập
xác, trở lại dương trần cam tâm đền trả cho hết kiếp phàm nhân
sau khi cố nài nỉ xin được ít phút giây tìm lại những người quen
biết đã lìa đời. Phán quan vui lòng chấp thuận. Tôi cúi đầu lạy
tạ để đi ra.
Hồn phách tôi siêu thăng đến khắp cõi ta bà, lâng lâng thanh
thản, nhẹ nhàng tựa như sương khói không chút vướng bận suy tư.
Trong suốt khoảng thời gian này, tôi không hề còn lại chút gì
thuộc trạng thái vui buồn khổ ải, ưu tư của suốt bằng ấy năm
tháng đằng đẵng với kiếp làm người, cũng không hề bận tâm về con
đường sinh, lão, bệnh. Chỉ có mỗi một niềm thanh nhẹ hân hoan
vui vẻ tận cùng. Liên tưởng đến đâu, nơi đó đã hiện ngay ở trước
mặt rồi. Ao ước điều gì hạnh phước gì nó đã xảy đến ngay trong
tiềm thức hư vô. Ngôn ngữ và cảm giác nơi đây là ngôn ngữ và cảm
giác được kinh qua bằng một cách thức vô hình. Chỉ cần có sự ước
ao đã hẳn nhiên biến thành sự thật tức thì.
Tôi đã gặp được hầu hết những người quen biết thân sơ, cả những
cá nhân tôi chỉ nghe tăm tiếng của họ lúc sanh tiền mà chưa bao
giờ có cơ hội thân thiết. Tất cả đều có mặt nơi đây.
Nhưng tùy theo mệnh nghiệp của từng người. Ở chốn này, có người
thì quằn quại thọ phạt khổ hình. Sau đó, sẽ bị đọa làm kiếp tái
sinh, tùy theo phước báu, công tội lúc sinh thời.
Có rất nhiều người khi sống, phải cam chịu nghèo khổ lam lũ nhọc
nhằn, hoặc từng bị những hàm oan đố kỵ, nhưng vẫn nhất mực cam
tâm, không kình chống lại hiện nghiệp mệnh trời. Nay họ là những
chư liệt vị thuộc giới chư thiên cao cả, hạnh phúc tột cùng, bay
bổng nhẹ nhàng với thiên đường trăm hồng nghìn tía, nhởn nhơ
nhàn nhã ung dung, đàn ca múa hát đúng thật là cảnh giới viên
mãn siêu thăng tịnh độ của cõi Thiên Đường.
Có những vong hồn nam nữ dung mạo no đầy rượu thịt, thú tính dâm
ô, mưu thần chước quỷ, hãm hại đồng loại chúng sanh để thu tóm
bổng lộc uy quyền, vơ vét cái ăn cái mặc, cùng bao nhiêu danh
lợi vốn là của chung đem về cho riêng mình, cùng những tật xấu
xa đê tiện, ngôn khẩu giết người, dèm pha đố kỵ, lợi dụng trí
lực, hành hạ đồng loại, họ đang bị quằn quại bi thương, bị banh
da lóc thịt, rên xiết kêu khóc đêm ngày, ăn uống thì được cho ăn
như loài ngạ quỷ, toàn là thịt hôi thúi máu thiu, diện mạo kinh
khiếp khác hẳn lúc thường...Thân thể thì lõa lồ ngày đêm dòi bọ
đục rữa, nhất là với những vong hồn có tiền kiếp dâm ô, đĩ điếm,
dối gạt quanh co.
Phán quan cho biết, của cải thực phẩm cùng hạnh phúc là của
chung nhân loại. Tại sao xảy ra cảnh kẻ giàu người nghèo? Tại
sao có nạn người uy quyền kẻ nô lệ. Những người này đã dùng mưu
thần chước quỷ, phế bỏ luật trời, nên bây giờ sau khi chết, họ
phải trả quả và sẽ bị đọa vào hậu kiếp tái sinh, họ sẽ phải làm
loại súc sanh đê tiện, làm thân trâu ngựa hùm beo rắn rít vì
những tội lỗi tham dục tàn nhẫn tạo nghiệp trên đời.
Trở về nhập xác
Trước bối cảnh kinh hoàng như vậy, hồn tôi bỗng lạc vào một vầng
sáng màu vàng nhạt mênh mông lai láng. Tai thoáng nghe những âm
thanh quen thuộc của mấy chục năm làm người. Tôi lại nhìn thấy
xác của tôi trong một căn phòng hồi dưỡng với năm sáu người mà
tôi đã trông thấy họ ở thế giới bên kia. Họ đã chết thật rồi vì
tôi đã thoáng nhìn thấy họ bị cuốn sâu vào từng luồng ánh sáng
vô biên, đi mãi ngàn năm và không thể trở lại được nơi này, còn
tôi thì tự nhiên bị đẩy bật ra khỏi sức hút của những luồng ánh
sáng đó, đi phiêu bạt đó đây rồi được phán quan khuyến cáo phải
trở lại gấp nơi này để nhập xác.
Nhưng tôi tự tìm mãi mà không thấy được cửa sinh tử môn nằm giữa
đỉnh đầu thì làm sao tôi có thể nhập vào thân xác? Đợi mãi cũng
chẳng làm được gì vì cửa sinh môn đang bị bịt kín bởi một cái
nón có trang bị những dụng cụ duy trì sự sống cho cái xác của
tôi. Tôi nhìn thấy một cái cửa phụ nằm ở kẽ xương quai hàm bên
vai trái, tuy nhỏ và rất đau đớn khi hồn tôi nhập vào, nhưng còn
cách nào hơn cơ chứ!
Nắng ngoài sân bệnh viện đã lên cao. Hàng ngàn tiếng lao xao báo
hiệu một ngày làm việc tất bật của khu bệnh viện lớn lao này. Vợ
và hai đứa con của tôi thì đang ngồi đợi chờ ở "front-desk"
trong bệnh viện, họ đến để tiếp tục kiên nhẫn ngồi canh bên cạnh
cái xác còn nóng hổi của tôi.
Dường như hôm nay là thời hạn chót để các vị bác sĩ chuyên khoa
về tử thi họp bàn quyết định về số phận của cái xác không hồn
này. Chính nhờ vào những tiến bộ của khoa học mà ngoài nhiệt độ
duy trì cho cái xác thoi thóp sống, nó còn không bị thối rữa như
những xác chết bình thường sau chừng 5 ngày cho đến hơn một tuần
lễ.
Xem lại lối vào chỗ khớp xương quai xanh một lần nữa rồi tôi vận
hết sức, dùng nội lực để len vào. Một cảm giác đau đớn tận cùng
tỏa khắp hồn tôi trong một khoảnh khắc nhanh chóng. Thoát nhiên,
cảm giác đau đớn đó chuyển động và chạy ran khắp cái thân xác
đang nằm bất động ở trên giường.
Trạng thái đầu tiên tôi ghi nhận được khi hồn tôi trở về với
thân xác cũ đã nằm bất động gần trọn một tuần là cơn buồn phiền
ngột ngạt và còn có một sức nặng nề ghê hồn trì kéo nặng nề trên
toàn thân thể. Tôi như bị kềm hãm trong một cái khuôn không cách
thoát ra được. Sau đó là xúc giác đau đớn trĩu nặng ở trên đầu,
phía sau ót. Tôi nhớ lại rồi. Điều này không có gì là khó hiểu.
Đó chính là vết thương sau sọ chưa thực sự lành lại sau khi được
các vị tây y chữa trị và khâu lại vết nứt bên ngoài.
Sức trì kéo nặng nề tôi vừa kể vẫn bao phủ trong toàn thân tôi.
Ngoài sự đau đớn ở vết thương trên đầu, tôi cảm thấy toàn thân
như rũ liệt, rồi cơn đói bổ đến cồn cào. Bao tử của tôi hoàn
toàn trống rỗng sau nhiều ngày được các y sĩ tẩy uế. Thân thể
của tôi chỉ được dinh dưỡng bằng những phương thức vật lý y khoa
trị liệu cho nên giờ đây nó bắt đầu làm việc với những đòi hỏi
cấp bách nêu trên..
Ngước đôi mắt mệt mỏi nhưng vô cùng tỉnh táo nhìn lên trần phòng
với những hộp đèn néon trắng dịu, tôi vẫn nhớ như in chuyến hành
trình thần tiên vừa qua từ cõi âm đầy khác lạ trở về. Linh hồn
tôi không có dấu hiệu hoặc dư vị nào của thương tích, vẫn mạnh
mẽ bình thường. Nhưng cái xác của tôi thì thật sự yếu đuối, bởi
nó bị thương và bất động đã mấy ngày qua. Vận dụng nghị lực, tôi
cố nhổm người lên, đảo mắt nhìn chung quanh căn phòng hồi dưỡng
im lìm với những thân người nằm ngay đơ bên trong làn vải trắng.
Hình ảnh này tôi đã thấy ban nãy khi tôi trở về, nên không lấy
gì làm lạ.
Tôi còn có thể đoán chắc, có hai cái xác, một ở cuối phòng là
một cô gái người Mỹ và một là người đàn ông gốc Do Thái đang nằm
cách tôi hai xác nữa. Cô gái Mỹ bị lăn té trên thang lầu và
người đàn ông Do Thái thì bị nghẽn mạch máu. Họ bị "chết giả",
bị hôn mê, và họ cũng sắp sửa "trở về", sắp sửa hồi tỉnh giống y
như tôi vừa mới hồi tỉnh. Tôi từng nhìn thấy họ ở thế giới bên
kia. Cơn đói trần gian khiến tôi vô cùng khổ sở và liên tưởng
ngay đến thói quen bó buộc phải ăn uống của người trần. Tôi mong
vợ con tôi thật chóng trở vào để giúp tôi trở về nhà cũ. Mùi nhà
thương khiến tôi ngộp thở lắm rồi, lại còn bị hành hạ bởi những
cơn đau đớn và cái đói kỳ khôi.
Ngay lúc đó, ổ khóa lách cách kêu lên. Cánh cửa phòng hồi dưỡng
mở ra. Tôi thấy bóng dáng vợ tôi ủ rũ và rất mệt mỏi bước vào,
đi cùng với người gác nhà thương và một hai gia đình người Mỹ
khác. Tôi cố gắng nhúc nhích để cho vợ tôi biết rằng tôi đã hồi
tỉnh, đã "trở về" mới đúng. Quả nhiên, nàng nhận ra ngay và òa
lên khóc um sùm vì quá mừng rỡ khiến người gác phòng hồi dưỡng
hiểu ra ngay rằng có một xác chết đã năm sáu ngày nay bỗng hồi
sinh.
Ông ta chụp lấy cái điện thoại ở trên tường và thông báo ngay
lập tức cho vị y sĩ trực hôm đó là một nữ bác sĩ người Trung
Hoa. Bà ta cùng bốn năm vị bác sĩ đàn ông khác xuống tận chỗ,
khảo nghiệm lại "tử thi" hồi sinh của tôi rồi ra lệnh cho y tá
đẩy chiếc giường của tôi trở lại phòng cấp cứu hôm nào để làm
không biết bao nhiêu là thử nghiệm khác để xác nhận rằng thể xác
của tôi đã hoạt động lại hết sức bình thường, ngoại trừ vết
thương trên đầu cần được tái khám đúng hẹn và phải uống thêm
thuốc trong một vài ngày nữa ở nhà thương.
Đợi đến lúc không còn ai hiện diện, tôi nói quả quyết với vợ
tôi:
- Anh không có sao cả. Chỉ hơi nhức đầu và mệt mỏi mà thôi. Em
cố gắng tìm đủ mọi cách đưa anh về nhà, khung cảnh và mùi vị nhà
thương làm cho anh sợ lắm. Đi đi em! Đi tìm bà bác sĩ người Tàu
năn nỉ bà ta chắc sẽ có kết quả.
Cuối cùng vợ tôi đã đạt được sự thành công với điều kiện nàng
phải ký giấy cam kết, chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc này.
Tôi gật đầu ra dấu cho nàng cứ ký giấy cam kết. Sau đó, vợ tôi
dìu tôi đứng dậy khoác hai tay tôi lên vai hai cô y tá đỡ tôi
ngồi lên chiếc xe lăn, rồi đẩy tôi ra xe đã được nàng lái đến
đậu sẵn tại cửa chánh bệnh viện để trở về nhà.
- Thật là một phép lạ vô thường vì lời khấn nguyện van vái thần
linh Chúa Phật liên tiếp nhiều ngày đêm của em và hai con cho
anh được thoát khỏi tai nạn ngặt nghèo và quả là linh hiển. Em
đã được các vị thần linh nhận lời, anh đã hồi tỉnh.
Tôi im lặng nhìn dáng vẻ của vợ tôi nghiêm trang thành khẩn kể
lại những gì mà nàng đã tận sức để níu kéo lại đời sống của
người chồng đầu ấp tay gối. những ý nghĩ của tôi thì giữ kín
trong lòng không nói gì với nàng cả. Tôi không nỡ làm tiêu tán
đức tin thánh thiện của nàng đối với các đấng bề trên. Bởi tôi
đã bị chết đi và sống lại một cách tình cờ, không phải vì thượng
đế không linh hiển mà chỉ vì định mệnh cuộc đời của tôi chưa đến
lúc phải ra đi. Thần linh không hề can dự vào số phận của một
đơn vị quá bé nhỏ là tôi.
Đó chỉ là một tai nạn bất ngờ để cho tôi có một cơ hội bằng vàng
đi về bên kia thế giới, thăm thú, và tìm hiểu xong rồi lại được
trở lại trần gian để đi hết kiếp người.
Tôi thầm cảm tạ ơn trời ở điểm, số tôi chưa đến, còn được sum
vầy đoàn tụ với vợ con để mà kiểm chứng thêm những hiểu biết về
cõi âm luôn luôn mang tính cách bí mật muôn đời. Ngoài điều này
ra, cõi phàm trần thực chẳng có gì đáng để cho tôi cần phải
luyến tiếc đến nỗi chuốc lấy ngàn vạn khổ đau. Vì có mấy ai chịu
chấp nhận một sự thật là cuộc sống chính là con đường đang được
rút ngắn để trở về, trở về chốn quê hương vĩnh cửu, xóa sạch
những vướng vít, nợ nần với thế gian.
- HẾT -
Nguyên Hà
|