Những công nhân sa cơ lỡ vận ở đô thị
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đánh gục giới công nhân Việt Nam
THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH - Hai năm về trước chị Lê Thị Cúc, 35 tuổi, rời bỏ
làng quê thuần nông của mình ở Tỉnh Quảng Bình thuộc miền trung và
đến thành phố lớn để kiếm một việc làm tại một nhà máy may quần áo.
10 giờ một ngày, 6 ngày một tuần, chị may những chiếc áo thun (T-
shirt) cho các thương hiệu của các nước phương Tây như Old Navy và
The Gap, lương khoảng 60 đô la một tháng.
Khoản tiền đó không phải là nhiều, chỉ đủ cho chị tiêu xài cho bản
thân và gửi về nhà 10 đô la cho cha mẹ già và năm người anh em,
nhưng cũng còn tốt hơn cái tình cảnh nghèo túng tuyệt vọng ở Quảng
Bình, và chị đã có mọi lý do để nghĩ rằng mọi chuyện sẽ được cải
thiện.
Việt Nam vừa mới tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO], nền
kinh tế đã từng tăng trưởng 7% mỗi năm kể từ năm 2000, đầu tư nước
ngoài đang được rót vào, và mọi người đang nói rằng trong vòng một
hoặc hai chục năm nữa đất nước có thể sẽ giàu lên bằng Thái Lan.
Ngồi trên một chiếc chiếu cói trải giữa sàn căn phòng rộng hơn 9 mét
vuông thuê chung cùng 4 công nhân may mặc khác, chị Cúc cho biết
tinh thần lạc quan bao nhiêu mà hai năm trước chị đã từng có, thì
bây giờ đã biến mất hết rồi.
Chị đã và đang bị thất nghiệp kể từ tháng Mười hai 2008. Công ty may
Collan Inc. mà chị từng làm đã cắt giảm 1000 trong tổng số 3000 công
nhân mà họ có vào năm ngoái. Với nhu cầu tiêu dùng tại Hoa Kỳ, Âu
châu và Nhật Bản sút giảm đột ngột vào mùa thu năm 2008, xuất khẩu
của Việt Nam, cỗ máy cái trong nền kinh tế nước này, đã rơi xuống
vực thẳm.
Dù vậy, chị Cúc vẫn đang cố bám lấy thành phố, gửi đi những lá đơn
xin việc. Cho tới lúc này, chị vẫn không nhận được bất cứ hồi âm
nào.
“Tôi quá mệt mỏi cho số phận của mình rồi,” chị Cúc than thở.
Ngày nay có hàng nhiều chục ngàn người như chị Cúc ở Thành phố Hồ
Chí Minh. Vào tháng Mười hai, tài liệu của tổ chức công đoàn do nhà
nước quản lý ở địa phương cho biết thành phố đã có 30.000 người mất
việc làm trong tháng Mười một. Trong khi với phần còn lại của Việt
Nam, theo bà Nguyễn Thị Hải Vân, vụ phó Vụ Lao động và Việc làm của
chính phủ [Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội], đã ước lượng vào đầu
tháng ba rằng tổng cộng số việc làm bị mất trong nửa năm đầu có thể
lên tới 300.000.
Những số liệu đó chỉ áp dụng cho thiểu số những công ăn việc làm của
Việt Nam trong khu vực chính thức — ví dụ như ở các công ty sở hữu
của nước ngoài, những nơi phải báo cáo mức tiền lương với cục thuế.
Trong những doanh nghiệp nhỏ sở hữu gia đình theo lối không chính
thức tạo ra giá trị chủ yếu của nền kinh tế, thì không có cách gì để
nói được có bao nhiêu công ăn việc làm đang bị biến mất.
Trong khi đó, dân số Việt Nam thuộc loại trẻ: theo cơ quan Phát
triển của Liên hiệp quốc UNDP, lực lượng lao động đang tăng lên mỗi
năm một triệu công nhân. Cũng theo báo cáo này của UNDP ước tính
rằng để tìm công ăn việc làm cho họ, và cho mỗi năm 200.000 người
rời bỏ nghề nông để kiếm việc làm trong các nhà máy như chị Cúc, nền
kinh tế sẽ phải tăng trưởng trên 8,5%. Thay vào đó, mức tăng trưởng
năm nay ước đạt từ khoảng từ 5,5% theo Ngân hành Phát triển châu Á,
cho tới 0,3% theo tổ chức Economist Intelligence Unit.
Theo truyền thống, các công nhân Việt nam khi mất việc làm có thể
quay lại làng quê của họ để tìm kiếm sự hổ trợ. Họ trở về với thân
nhân, những người phải chia sẻ thêm vài ba bát cơm từ vụ mùa màng
hàng năm. Thế nhưng vào lúc này, điều đó có thể sẽ khó khăn hơn. Nền
nông nghiệp của Việt Nam đã và đang dần dần hợp nhất lại về tay một
người chủ (nào đó) cho có hiệu quả hơn, và nhiều gia đình nghèo
không có ruộng đất riêng của họ.
“Tôi không thể trở về làng quê, ở đó chẳng có việc gì mà làm cả,”
theo lời của người từng cùng làm việc với chị Cúc tại Collan, cô
Đinh Thị Hạ. Hạ cũng như Cúc tới từ vùng quê Quảng Bình nghèo túng,
cũng đã bị mất việc hôm 20 tháng Một 2009, và cô đã trở về làng
trong dịp đón năm mới, Tết âm lịch. Không thể tìm được việc làm, cô
đã trở lại Thành phố Hồ Chí Minh, và kể từ đó cô đang cố gắng tìm
lấy một việc làm.
“Hai năm trước tôi đã từng hy vọng là mình có thể tiết kiệm được một
ít tiền,” Hạ kể. “Thế nhưng điều đó giờ đã bay biến lên trời rồi.”
Những công nhân không thể trở về nhà buộc phải làm việc bán thời
gian, những công việc không chính thức để kiếm sống. Lê Xuân Thông,
38 tuổi, đang kiếm được một khoản lương ổn định 200 đô la một tháng
như là một người bán hàng cho một siêu thị bán máy truyền hình Sanyo
cho tới khi bị mất việc vào tháng Mười một. Giờ thì anh lái một
chiếc “xe ôm,” hay còn gọi là xe taxi hai bánh, chạy trên những con
đường của Thành phố Hồ Chí Minh.
“Vào một ngày thuận lợi, tôi có thể kiếm được 100.000 đồng (6 đô la
Mỹ). Gặp ngày không may …” Thông nhún vai. “Tôi phải làm việc. Tôi
có một đứa con gái sáu tuổi.”
Với những người khác, sự sụp đổ của nền kinh tế như hiện nay là điều
khó khăn hơn nhiều. Thuyên, 23 tuổi, lớn lên trong một làng quê miền
núi vùng biên giới với Trung Quốc, và đã di chuyển tới Hà Nội năm
2005 để làm việc tại một nhà máy dây cáp diện của Nhật. Cô bị mất
việc tháng Mười hai 2008, nhưng vẫn chưa cho cha mẹ biết nơi giờ đây
cô đang làm ở chỗ nào: một phòng đấm bóp.
“Khi em tốt nghiệp phổ thông, em chỉ muốn trở thành một công nhân
thôi,” Thuyên tâm sự. “giờ thì em lo là ai đó quen biết sẽ nhìn thấy
em đang làm trong quán đấm bóp này. Nhưng em không có lựa chọn nào
khác cả.”
Hiệu đính:
Trần Hoàng
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009 |