Thử nghĩ về khởi điểm
của đồng thuận dân tộc
Tiêu
Dao Bảo Cự – sau 6 tháng du lịch qua 12 tiểu bang lớn trong số 50
tiểu bang của Mỹ về – viết: Mỹ Du Ký.
Trong hơn 30 năm qua, có rất nhiều người Việt từ quê nhà đến Mỹ và
trở về đã nói hay viết hải ngoại ký sự sau chuyến… đi Tây. Từ giới
dân dã, nghệ sĩ đến hàng chuyên viên, quan chức, mỗi người tới thăm
viếng, quan sát và nhận xét về nước Mỹ dẫu thầm lặng hay nói lên
theo cách nhìn và cảm nghĩ riêng của mình đều có chung một điều: Mỹ
nó giàu mạnh và… khác ta; quả nhiên!
Cái khác, không xa vời như ngày xưa Nguyễn Trường Tộ đi Tây về báo
cáo với triều đình nhà Nguyễn “cái đèn treo ngược mà vẫn đỏ, vẫn
sáng”. Nhưng cái khác hôm nay là khoa học kỹ thuật và chất lượng
đời sống mà người nói hay người nghe đều có thể biết được, thấy được
và kiểm chứng được.
Với TDBC, khác như thế nào, xin mời bạn theo dõi Mỹ Du Ký của tác
giả đã ra mắt trên mạng lưới Danchimviet.com.
Là người bị chế độ liệt vào đối tượng theo dõi và quản chế, nay được
lãnh sự Mỹ giúp đỡ tạo điều kiện giản lược những thủ tục rườm rà để
qua Mỹ du lịch, nhiều người đã nhân cơ hội này để xin tị nạn chính
trị. Bởi vậy, nhiều người bạn ở California đã có kẻ ăn, người thua
trong cuộc đánh cá về sự tiên đoán rằng, vợ chồng Bảo Cự - Bạch Yến
sẽ xin tỵ nạn chính trị nhân chuyến du lịch vì nếu muốn, Bảo Cự có
thể chẳng khó khăn gì xin ở lại Hoa Kỳ một cách hợp pháp với lý do
“bất đồng chính kiến”.
Nhưng sau “nửa năm du Mỹ; một bước trần ai”, Tiêu Dao Bảo Cự đã về
lại Việt Nam. Chàng muốn làm một Achilles, chỉ khi gót chân chạm
đất nước quê hương mới có sức mạnh tuyệt vời chăng?
Tiêu Dao Bảo Cự ở trong nhóm “bất đồng chính kiến Đà Lạt” (gồm Hà Sĩ
Phu, Bùi Minh Quốc, Mai Thái Lĩnh, TDBC). Vài chục năm trước, TDBC
cùng với Bùi Minh Quốc, Hữu Loan (thi sĩ Mầu Tím Hoa Sim) thực hiện
chuyến đi xuyên Việt đòi tự do sáng tác, tự do dân chủ và nhu cầu
đổi mới. Và 5 năm sau cùng với Bạch Yến cỡi Honda 50cc làm cuộc
“hành trinh mùa Xuân” để nghĩ và viết về chuyện đất nước. Trong
những ngày đó, anh chị em thường liên tưởng tới Ché Guevara cỡi mô
tô Norton 500cc vượt 8000 km xuyên Nam Mỹ năm 1952 để đánh du kích
với các thế lực thực dân, đế quốc. Ché hay Cự… dẫu thành công hay
thất bại, nhưng dám bày tỏ một thái độ chính trị chống độc tài, áp
bức ngay giữa tuyến lửa; bất chấp sự an nguy của sinh mạng và gia
đình là một sự dấn thân đáng trân trọng và cảm phục. Thêm vào đó,
qua các tác phẩm đã xuất bản ở Mỹ, cùng những bài chính luận đứng
đắn, can đảm phê phán thế lực cầm quyền Việt Nam ngay trong nước đã
khiến người Việt hải ngoại, thân cũng như sơ, đón anh bằng sự cảm
mến chân tình.
Dấu in đậm nét nhất trong chuyến đi Mỹ của TDBC là những thắc mắc
của người Việt về định hướng chính trị của nhóm Đà Lạt. Đặc biệt là
tuổi trẻ, đã có những câu hỏi cụ thể và trực diện như: “Tụi cháu
là thế hệ trẻ sinh sau 1975, lớn lên và được đào tạo thành tài ở
Mỹ. Nhưng nếu muốn thật sự giúp nước Việt Nam mình thì các bác, các
chú chỉ đường cho chúng cháu phải làm gì?” Nếu trả lời theo
kiểu trí thức phương Tây chung chung, đại khái là đem khả năng học
vấn chuyên môn tùy hoàn cảnh và phương tiện giúp nước thì sẽ bị ngay
thau nước lạnh hoài nghi “nghị quyết 36” tạt vào làm nhiệt tình
nguội lạnh. Nếu trả lời đấu tranh cho tự do dân chủ, giải trừ đảng
Cộng Sản nắm quyền điều khiển đất nước một cách mơ hồ, mang tính
đánh giặc miệng lâu ngày đã thành sáo mòn thì lại thiếu tính thuyết
phục. Ở đại học Berkeley, Bảo Cự đã gặp một hoàn cảnh tương tự như
thế.
Theo Tiêu Dao Bảo Cự, con đường tiến tới hòa giải hòa hợp dân tộc có
nhiều phương cách khác nhau, nhưng đại thể vẫn lấy dân tình làm gốc:
(1) Xây dựng sự đồng thuận dân tộc làm sức mạnh căn bản; (2) lấy sức
mạnh quần chúng để thiết lập sự đối thoại song phương và bình đẳng
với thế lực đang cầm quyền; (3) tiến tới hòa giải thông qua sự nhìn
nhận và tương tác giữa hai phía.
Đây là mô hình của một ngôi nhà 3 tầng. Nhưng tầng (1) làm nền móng
cho 2 tầng cao hơn, (2) và (3), là khó nhất:
Khởi điểm của sự đồng thuận dân tộc ở đâu, đặt trên căn bản gì và
có tác dụng như thế nào?
Trong bài giới thiệu cuốn sách Huyền Thoại Về Một Nhà Nước Tự
Tiêu Vong của Mai Thái Lĩnh, một niên trưởng trong nhóm Đà Lạt
là Hà Sỹ Phu nói đến cái bước “cú nhích chân” như một khởi điểm tiến
tới sự đồng thuận dân tộc đó:
“Quan trọng nhất, nhưng cũng khó nhất là sửa được cái ‘dấu phẩy’
đột phá ban đầu, tạo được cú ‘nhích chân’ cơ bản ban đầu. Khi đã có
một không gian dân chủ tối thiểu để ngồi với nhau rồi thì mọi việc
sẽ cùng bàn với nhau mà làm, con đường cần đi sẽ hiện ra trước mắt,
bàn trước xa quá mà làm gì?”
Cú nhích chân ấy là một thiện chí. Nhưng nhích chân để dẫm lên
nhau, để tiến tới gần nhau, để đồng hành với dân tộc hay chăng thì
vẫn còn là một khả năng mơ hồ trong ý niệm.
Xét về mặt xã hội và lịch sử chính trị của một đất nước có hoàn cảnh
đặc biệt như Việt Nam trong khoảng 50 năm qua thì chuyện “hòa giải
hòa hợp” được đánh giá như là một sự xa xỉ tri thức bị cấm kỵ.
Chiến tranh ác liệt và sự nghiệt ngã của những chủ nghĩa ốc mượn hồn
như chủ nghĩa Tư bản và chủ nghĩa Cộng sản đã làm rách nát niềm tin
và nô lệ tư tưởng, đẩy con người vào thế rừng xanh: Giết hay bị
giết; một mất một còn chứ không thể có một hình thức tương sinh hay
cộng tồn nào được chấp nhận cả.
Trước 1975, khuynh hướng Hòa Giải hay Trung Lập đều không được hai
phe đang lâm chiến nói tới hay xem xét.
Sau 1975, ở trong nước, khái niệm hòa giải hòa hợp bị cho là phản
động, là âm mưu địch vận của kế hoạch “diễn tiến hòa bình do bọn xấu
giật giây.” Ở ngoài nước, nói chuyện hòa giải hòa hợp đồng nghĩa với
“kế hoạch kiều vận, tiếp tay tuyên truyền cho Việt cộng!”
Thế nhưng trong nước cũng như ngoài nước, vẫn có người lên tiếng như
ý kiến của Ls. Nguyễn Chính: “Muốn tranh đấu cho tự do dân chủ và
đa nguyên thì kẻ dấn thân tranh đấu tự mình phải xây dựng tư tưởng
và phong thái xử sự tự do dân chủ đa nguyên trước đã. Nghĩa là phải
tôn trọng ý kiến khác biệt của nhiều người khác không giống mình.
Thậm chí xem sự công kích, phản biện là những trường hợp tham khảo
cần thiết. Nếu yếu bóng vía sợ chụp mũ thiên tả hay hữu từ phía
những kẻ cực đoan thì tốt hơn là nên đắp chăn nằm ngủ, theo đạo ‘tam
không’: Không nghe, không nói, không làm để được yên thân. Nhưng
nếu một khi đã lên tiếng trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng như
hiện nay thì cần nắm vững những nguyên lý khách quan, thông tin đa
chiều; nhất là dựa vào trái tim và lý trí trung thực của chính mình,
bất chấp chuyện thị phi.”
Thông thường, khi hai khuynh hướng đối nghịch không có con đường
trung dung thì điểm tựa cố thủ còn lại nằm ở hai phía cực đoan. Sự
biểu hiện thái độ trung dung hay cực đoan thì xã hội nào cũng có.
Một sự đồng thuận dân tộc làm căn bản cho tinh thần hòa hợp hòa giải
dân tộc thường bắt nguồn từ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu” mà nhóm Đà Lạt – tự bản chất là một nhóm người cầm bút cùng gặp
gỡ, chia sẻ trong cuộc chiến đấu vì đất nước chủ yếu bằng tri thức
và ngòi bút – theo đuổi suốt hơn 20 năm qua. Họ không phải là một
tổ chức chính trị, không có cương lĩnh rình rang, cho dù có những
đồng thuận căn bản. Sự đồng thuận chung ấy là đất nước độc lập, tự
do, dân chủ, công bằng, phồn vinh thực sự; chống độc tài đảng trị,
tán đồng dân chủ đa nguyên. TDBC là cây bút nhấn mạnh rõ nét nhất
về vấn đề “hòa giải hoa hợp” trong khuynh hướng chung của toàn nhóm
Đà Lạt chủ yếu đào sâu về các vấn đề then chốt như chia tay ý thức
hệ, nâng cao dân trí, xây dựng xã hội, kêu đòi tác động vào guồng
máy của đảng CSVN… Có thể nói đây là một trường hợp tham khảo (case
study) khi bàn về sự đồng thuận dân tộc.
TDBC có gặp được giới đồng điệu nào trong cuộc Mỹ du chăng?
Phần phân tích tình hình sinh hoạt chính trị của người Việt trên đất
Mỹ của TDBC tương đối khách quan và dè dặt, “hiền từ”. Nhưng con
đường đấu tranh cho một Việt Nam tự do, dân chủ đặt trên căn bản hòa
hợp hòa giải dân tộc mà TDBC thường đề cập trong các cuộc họp mặt,
trao đổi thì lại chỉ được chấm phá rất mờ nhạt trong du ký.
Qua Mỹ Du Ký, người đọc tự hỏi, sau chuyến đi TDBC đã được
tiếp cận với xã hội và cộng đồng người Việt tại Mỹ, sẽ có gì thay
đổi trong cách nhìn và sự suy niệm về một khuynh hướng hòa hợp hòa
giải dân tộc trước mắt. Nó có sự tương đồng hay khác biệt nào với
chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc như một sách lược cứu nước chống
mưu đồ Đại Hán của Trung Quốc xuất phát từ phía những người Việt có
lập trường chống cộng ở hải ngoại như Bằng Phong Đặng Văn Âu xuất
hiện gần đây tại Mỹ?
Đối với người Việt ở nước ngoài nhìn vấn đề một cách khái quát,
nhiều người có sự liên tưởng nhóm Đà Lạt của Hà Sỹ Phu, Tiêu Dao Bảo
Cự… và nhóm Bằng Phong Đặng Văn Âu ở Mỹ ít nhất có một điểm gặp gỡ.
Đó tụ điểm về một sự đồng thuận, đoàn kết dân tộc làm sức mạnh căn
bản của tiến trình vận động chính trị cho một Việt Nam tự do dân chủ
có khả năng hội tụ được sức mạnh dân tộc tồn vinh chống Trung Quốc
xâm lăng. Đây chỉ là một đam mê chính trị lãng mạn viễn mơ hay một
khả năng khả thi để chống những thế lực cướp nước và bán nước trước
khi quá muộn vẫn còn là một câu hỏi lớn mà chỉ có lương tri và lòng
yêu nước tập trung cao độ mới mong trả lời được.
Hai mươi năm trước, nhóm Đà Lạt và những người bất đồng chính kiến
mới ở giai đọan đặt vấn đề cho những phương kế khả thi trong tiến
trình đấu tranh tự do dân chủ. Nhưng sau vụ Bô-xít Tây Nguyên,
Hoàng Sa - Trường Sa thì lòng yêu nước là một chủ nghĩa đã hiện
hình. Đó là một chủ nghĩa Dân Tộc Tồn Vinh: Việt Nam phải
tồn tại trước mưu đồ xâm lăng Đại Hán của Trung Hoa mới mong nói đến
sự vinh quang của tự do, dân chủ thật sự.
Góp ý với cả hai phía Tiêu Dao Bảo Cự và Bằng Phong Đặng Văn Âu về
một vấn đề quá tế nhị và phức tạp như thế, tôi tự giới hạn mình ở
mức độ “thử nghĩ” – brain storm – hơn là trình bày, tham luận khi
nói đến một sự đồng thuận dân tộc.
Nhìn về một khởi điểm của sự đồng thuận dân tộc, cần nhìn theo đa
chiều, nhiều phía từ mức độ cạn đến sâu; từ hẹp đến rộng.
Nếu chỉ nhìn từ mức độ hiển thị, nghĩa là ở mức độ cạn, có thể thấy
được và cân đo đong đếm được thì khả năng hòa hợp hòa giải dân tộc
của thế hệ Chiến Tranh Việt Nam là một sứ mạng không thể thực hiện
được – một mission impossible – vì nhiều lý do. Nhưng nổi bật hàng
đầu vẫn là lý do chủ quan và khách quan của sự xung đột giữa hai
khuynh hướng chính trị đối nghịch, tạm gọi là quốc - cộng, từ trước
cuộc chiến, trong cuộc chiến và sau cuộc chiến. Trường kỳ và liên
tục trong hơn 60 năm qua, sự xung đột đó đã xảy ra và vẫn còn tiếp
diễn mà hậu quả là những vết sẹo oan nghiệt và những vết thương tâm
hồn lở lói từ trên quê hương, vẫn chưa lành khi mang tới xứ người.
Trước cuộc chiến là sự xung đột khi âm thầm, khi gay gắt của những
chủ nghĩa vay mượn. Những bộ áo quần diêm dúa, lòe loẹt của Tàu,
của Tây, của Nhật… áp đặt khoác lên thân thể Việt Nam còm cõi để hù
dọa và đánh lừa nhau về một tương lai thiên đường hạ giới đầy hứa
hẹn. Nhưng thực chất chủ nghĩa là bộ cánh rỗng tuếch của một loại
tư tưởng nói bằng ngôn ngữ thoa mỵ. Chúng nó chỉ có tác dụng như
một phương tiện nhập cảng ma mãnh nhằm ném hỏa mù và nô lệ hóa con
người lương thiện để nắm quyền thống trị của phe đảng chứ không phải
để giải quyết vấn đề nghèo đói của quần chúng lao khổ đang kêu đòi.
Trong cuộc chiến, vô hình chung, cả hai phe lâm chiến đều bị tha hóa
bởi những thế lực lợi dụng xương máu Việt Nam để chơi trò rối nước
của vũ khí chiến tranh và chính trị phân cực trên đấu trường quốc
tế.
Sau năm 1975, thế lực thắng trận Cộng sản Việt Nam với tâm lý quá
kiêu căng, bốc nổi và tự mãn với cuộc chiến thắng quân sự trước mắt
đã bỏ mất cơ hội hòa giải hòa hợp dân tộc mà các nước khác đã thực
hiện ngay sau chiến tranh. Sự hòa giải hòa hợp dân tộc của Mỹ sau
cuộc nội chiến; của Nhật giữa hai phe quân phiệt và ôn hòa; của các
nước châu Âu giữa các phe lâm chiến sau Thế chiến thứ hai đã mang
lại sự phồn vinh rực rỡ cho đất nước của họ chỉ một thời gian ngắn
ngay sau khi chiến tranh chấm dứt. Sự vắng bóng của tinh thần hòa
giải hòa hợp dân tộc trên đất nước Việt Nam sau cuộc chiến đã tạo ra
mầm thù hận và sự đối kháng tâm lý dai dẳng.
Thế lực thắng trận từ miền Bắc đã không nhân danh quyền lợi đất nước
và sự hòa giải dân tộc mà chỉ lo dựng lên quyền lực vô giới hạn
“trước làm, nay hưởng” của chính phe đảng mình qua hành động tác oai
và chuyên quyền còn nặng nề hơn cả thời quân chủ chuyên chế: Quốc
hội, Tòa án, Nhà nước, quân đội và công an cảnh sát đều là công cụ
tuyệt đối của Đảng; còn nhân dân thì “làm chủ” sự hy sinh mồ hôi,
nước mắt để lao động và đóng thuế!
Sau 1975, cuộc binh đao trên chiến trường chấm dứt, nhưng lòng người
vẫn chưa giã từ vũ khí. Xã hội mang đầy vết thương chiến tranh cần
băng bó. Những người anh em giữa hai miền Nam Bắc chưa thấy rõ mặt
nhau. Nhu cầu tâm lý dân tộc cần một sự hòa giải hòa hợp dân tộc
trung chính để cùng chung lưng hàn gắn đổ vỡ, xoa dịu thương tích và
xây dựng đất nước. Nhưng những người nắm quyền lực lãnh đạo của
đảng CSVN đã say ngây ngất với men chiến thắng. Người dân ngỡ ngàng
hứng chịu những băng cờ khẩu hiệu, những đấu tranh giai cấp, những
lập trường quan điểm, những xa cách hận thù, những uy quyền bạo lực
đổ ập trên đầu mình. Xã hội phân ranh một cách lạnh lùng và tàn
nhẫn thành hai giai cấp thống trị và bị trị. Chiến dịch nắm quần
chúng thất nhân tâm buổi đầu đã tạo ra những đổ vỡ về tình cảm và hệ
lụy cuộc sống quá tiêu cực và sâu cay. Người dân ở thế bị trị bị
mất quê hương ngay trên chính quê cha đất tổ của mình. Tù đày, lao
động khổ ải, vượt ngục, vượt biên chết chùm trên rừng, dưới biển;
bất mãn, xử lý, chuyên quyền… đã đào sâu và un lên thành hào thành
lũy trong tâm thức người dân. Những tang thương, đổ vỡ suốt ba mươi
lăm năm khó có thể mà hàn gắn một sớm một chiều thành quan hệ bình
thường trong tinh thần hòa giải.
Có áp bức, có đấu tranh. Phải chăng chỉ có một con đường mòn muôn
thuở? Đó là con đường độc đạo vùng lên đấu tranh để giải phóng sự áp
bức của thế lực thống trị bằng bạo lực và máu xương chứ chẳng còn
một thế “đồng thuận” dân tộc nào có thể xác lập để nói chuyện hòa
giải hòa hợp dân tộc cả hay sao?!
Nếu xét ở mức độ sâu hơn, vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn khi nói tới
một khởi điểm của sự đồng thuận dân tộc. Sự đồng thuận dân tộc
không bắt đầu hay kết thúc từ phản ứng nhất thời “hòn đất ném đi,
hòn chì ném lại” nhằm ăn miếng trả miếng. Lịch sử Việt Nam đã có
những thời kỳ mà sự đồng thuận dân tộc có tụ điểm cao nhất: Đó là
lòng yêu nước khi sơn hà nguy biến. Trong thời bình, sự đồng thuận
dân tộc được thể hiện khi có minh quân: Vua giỏi, tôi hiền, dân
giàu, nước mạnh.
Năm chục năm qua, Việt Nam với cả hai phía cộng sản và không cộng
sản, đều đã “sáng mắt sáng lòng” hay nói theo ngôn ngữ bình dân là
“trắng mắt” với chủ nghĩa! Dẫu thắng trận hay thất trận, thống trị
hay bị trị, vênh vang hay khổ nhục thì huyền thoại về chủ nghĩa Cộng
sản và chủ nghĩa Tư bản đều đã lộ mặt thật trên đất nước Việt Nam.
Chủ nghĩa Tư bản với lý tưởng tương tác, hùn hạp của cải làm giàu,
sống chung hòa bình giữa các nước tự do đã tự chứng minh là không có
đất đứng trên một đất nước đói nghèo và lạc hậu khi “Đồng minh tháo
chạy” ra khỏi miền Nam giữa cuộc chiến! Chủ nghĩa Cộng sản với lý
tưởng giải phóng áp bức, đem công bằng và tự do tới cho một xã hội
không giai cấp đã hiện nguyên hình là một sự lừa dối đầy mỉa mai
lương tri của con người.
Đây có thể là một khởi điểm cho sự đồng thuận dân tộc về mặt tư
tưởng và tâm lý trước sự bừng tỉnh về tác dụng phá sản và định kiến
lỗi thời của huyền thoại chủ nghĩa trên số phận Việt Nam..
Tám mươi ba triệu dân trong nước và hơn hai triệu dân Việt ngoài
nước có đủ dữ kiện để nhận định và đánh giá công bằng.
Ngày nay, dù đứng ở bất cứ khuynh hướng chính trị và vị thế quyền
lực, xã hội nào thì quần chúng Việt Nam đều nhận rõ một điều chung
nhất: Trung Hoa xâm lăng! Hành động xâm lăng, thôn tính của Trung
Hoa là một hiện thực. Đối với Việt Nam hiện nay, Trung Quốc không
còn ở dạng chính sách, khuynh hướng, âm mưu, hiện tượng… mà rõ ràng
là đang hành động lấn biển, chiếm đất, cấy người vào đất nước Việt
Nam và các nước chung quanh để tạo thế sinh tồn cho dân số khổng lồ
đang trên đà gia tăng không phương cứu vãn.
Trung Hoa đang áp dụng sánh lược kinh tế “Casino-Domino” (Sòng bạc
–Dây chuyền) để biến các thế lực chính trị đang cầm quyền của những
quốc gia độc tài, bạo lực và tham nhũng trong tầm ảnh hưởng của họ
thành những con bạc chơi bài gian lận trên chính dân tộc của mình.
Về kinh tế cũng như chính trị, Trung Hoa bị cả thế giới đánh giá là
tay chơi “tuyệt chiêu” đứng đầu trong các canh bạc gian lận về sự
hối lộ, mua chuộc, áp lực…với giới cầm quyền tham nhũng, mờ mắt đặt
quyền lợi phe nhóm cá nhân trên quyền lợi quốc gia dân tộc. Tây
Tạng, Myanmar, Bắc Hàn, Việt Nam, Lào, Cam Bốt… là nạn nhân và đối
tượng khai thác của Trung quốc thời hiện đại. Tuy nhiên, từ giữa
bóng tối của âm mưu xâm lăng chính trị và kinh tế đối với thế lực
đang cầm quyền, vẫn có một bộ phận sáng suốt của giới lãnh đạo vươn
lên từ trong cô đơn để giành lại quyền sống dân tộc và đấu tranh cho
sự sinh tồn của tổ quốc. Cô đơn vì họ biết sớm tự tách mình ra khỏi
cái khối lãnh đạo gian dối, ù lì, hèn nhát tham nhũng và bất lực
trong canh bạc bịp kiểu Tàu.
Trong Thư Ngỏ Gửi Bộ Chính Trị và T.Ư. Đảng Cộng Sản Việt Nam
nhân Đại Hội ĐCSVN XI, đề ngày 16-4-2010, ông Bùi Quang Vơm, một
nhân sĩ từ trong nước đã minh họa hình ảnh về viễn ảnh làn sóng xâm
lăng của Trung quốc như sau:
“Trung quốc đã đưa hàng vạn người vào Tây nguyên Việt nam trong dự
án Bauxite, áp đặt sức mạnh lấn từng mét đất chiếm trong Hiệp định
biên giới trên bộ, làm xa lộ Vân nam - Hải phòng, xa lộ Bằng tường -
Hà nội, mua chuộc và hối lộ để thuê đất trồng rừng của 10 tỉnh biên
giới, vẽ bản đồ hình lưỡi bò trên biển đông, bắt bớ , bắn chết ngư
dân, gây rối loạn chủ quyền, tăng sức mạnh quân sự biển, lập căn cứ
hải quân Trường sa, căn cứ tầu ngầm Hải Nam, tăng cường hoạt động
của Hoa kiều lũng đoạn chính trị tại Sài gòn, phân hóa, chia rẽ bằng
nhiều thủ đoạn nôị bộ lãnh đạo đảng cộng sản... Không còn nghi ngờ
gì nữa, âm mưu thôn tính Việt nam đã quá rõ. Với một chính quyền độc
đảng, lệnh phát động chiến tranh với Việt nam có thể xảy ra bất cứ
lúc nào. Giống như Đặng tiểu Bình đã từng làm, chỉ cần ‘dạy cho Việt
nam một bài học’ là lại có thể chỉ trong vòng ba ngày, mười sư đoàn
quân giải phóng nhân dân Trung hoa sẽ giàn dọc biên giới. Sau hai
giờ, xe tăng từ Bằng Tường có thể tới Hà nội. Và với tình thế tứ
phía bị bao vây như vậy, với một đảng cộng sản cầm quyền nếu không
còn dân, một quân đội nghèo nàn lạc hậu, rệu rã vì chia rẽ và tham
nhũng. Trung quốc sẽ đến từ Lào, từ Cămpuchia sang, từ Tây nguyên,
từ biên giới phía Bắc tới, ( từ Hải phòng trong các dự án đang triển
khai, từ đồng bằng Bắc bộ, nếu dự án khai thác than bùn lại lọt vào
tay nhà thầu Trung quốc), tàu ngầm Trung quốc sẽ nổi lên trên toàn
tuyến bờ biển, hải quân Trung quốc sẽ áp vào từ các hạm đội Hoàng
sa, Trường sa , lực lượng thuộc cánh quân thứ năm gồm hai triệu Hoa
kiều nằm vùng sẽ nổi dậy từ Sài gòn...Vận mệnh của Việt nam sẽ ra
sao?”
Từ trong nước, bên cạnh những khuynh hướng quần chúng đang ở dạng
tiềm năng hay bộc phát kêu đòi tự do dân chủ thật sự và tinh thần
chống Trung quốc xâm lăng đã bắt được tần số cộng hưởng của giới
lãnh đạo. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, đại
sứ Nguyễn Trọng Vĩnh… và hàng chục vạn trí thức, đảng viên, thanh
niên, sinh viên và quần chúng đã lên tiếng bằng nhiều hình thức và
phương tiện để phản đối các hành động xâm lăng của Trung quốc. Đồng
thời, cao trào đòi hỏi thái độ, hành động công chính và thích hợp từ
phía lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam trước Trung quốc cũng đã dậy
lên từ phía nhân dân quần chúng cả trong và ngoài nước.
Những chiến sĩ hải quân Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã anh dũng hy sinh mạng sống
trong những cuộc hải chiến với Trung quốc để bảo vệ tổ quốc – dẫu
mang mầu cờ sắc áo nào – vẫn là những anh hùng liệt nữ muôn đời của
toàn thể dân tộc Việt Nam.
Đây có thể là khởi điểm của sự đồng thuận dân tộc về lòng yêu nước.
Theo các nhà phân tích và nhận định thời cuộc trong cũng như ngoài
nước, Trung quốc đang ở thế năng động tạo ra những ‘điểm’ và ‘diện’
trong âm mưu thôn tính Việt Nam. Sự giằng co và phối hợp giữa bản
chất nông dân ‘lấn bờ, vơ bụi’ và nhu cầu kinh tế thị trường thế
giới đã khiến quân Tàu xâm lăng Việt Nam bằng nhiều chiến thuật từ
Tây Nguyên, Biển Đông đến Chợ Lớn, Phố Tàu. Sự phản kháng của người
Việt Nam từ trong lòng đất nước cần có sự phối hợp của khối người
Việt ở ngoài nước đang dàn trãi khắp nơi trên thế giới. Tiếng nói
và hành động của người Việt ở nước ngoài với phương tiện truyền
thông đại chúng nhanh như điện ngày nay có tác dụng mạnh mẽ tố cáo
và lên án hành vi xâm lược của Trung quốc trước dư luận quốc tế cấp
thời và đầy thuyết phục. Hơn hai triệu người Việt Hải ngoại nếu
đồng lòng tẩy chay hàng hóa Trung quốc, năng động bày tỏ sự phản
kháng trước công luận, tích cực vận động sự hỗ trợ quốc tế… sẽ tạo
được sức mạnh rất lớn lao trong bối cảnh kinh tế và chính trị toàn
cầu hóa đối với Trung Hoa hiện nay.
Đây có thể là khởi điểm của sự đồng thuận dân tộc về tinh thần chống
xâm lăng trong thời đại mới.
Qua nhiều bài viết gần đây của nhà văn Bằng Phong Đặng Văn Âu kêu
gọi và cổ vũ cho sự hòa giải hòa hợp dân tộc, những phản ứng chống
đối cũng như đồng tình – ít ra là trên nguyên tắc – từ phía quần
chúng đã nổi lên đáng ghi nhận. Trước một vấn đề lớn, mang đậm tính
chính trị và thời sự như thế, phản ứng thuận - nghịch của đại chúng
là điều tất nhiên và lành mạnh. Nhưng bên cạnh nội dung mang tính
chất ý kiến (opinion), người ta thấy được tấm lòng của mỗi người.
Có chăng, mỗi tấm lòng tiềm tàng tính nhân bản và lòng yêu nước cũng
đã có sẵn cái nhân của sự đồng thuận dân tộc. Người viết xin không
đặt một dấu hỏi chấm hết ở đây vì có niềm thâm tín rằng, hạt giống
đồng thuận dân tộc có sẵn trong từng trái tim Việt Nam là điều có
thật.
Sacramento, đầu tháng Năm 2010.
Trần Kiêm Đoàn
Không có con đường đưa tới hạnh phúc, hạnh phúc là con đường. |
|
|