Những con bò sữa Việt kiều
Cách
đây 32 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge, thuộc Hạm Đội thứ 7,
các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô
như lá tre trôi trên biển. Nguời ta thấy những chiếc thuyền đủ loại,
đủ cỡ của những nguời Việt Nam đầu tiên trốn chạy Cộng Sản. Họ là
ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong số những ký giả
trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể
tiên đoán được điều gì?
Người ta nhận thấy có nhiều ký giả Mỹ và một số những nhân vật trong
chính quyền Mỹ trên chiến hạm Blue Ridge. Chẳng
hạn như Frank Snepp, tác giả các cuốn sách: Decent Interval và An
Insider Account of Saigon, David Halberstam với The best and the
Brightest và một số người khác như H.R. Haldeman, Stanley Karnow.
Karnow nhìn David Halberstam như chế nhạo nói:
- Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng
góp công sức của những người như anh?
Halberstam đáp:
- Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức
mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Ðâu có phải chỉ có sức
mạnh của B52? Anh đồng ý chứ? Và hôm nay, chúng ta là những nhân
chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy này. Và tôi
nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.
Karnow:
- Phần tôi, sẽ không bao giờ quên được câu chuyện
ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ.
Trên ca bin chỉ huy trưởng của chiến hạm, người
ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với Henry Kissinger. H.
Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn
không? Trong một giờ nữa mà ông Đại Sứ Martin không có mặt trên
chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ là một
thất bại?
- Thưa ông Kissinger, tôi được biết, ông Đại Sứ
còn nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần phải được
cứu vớt.
Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe:
- Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải
lập tức rời VN. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn 'chó
chết' đó không chết phứt đi cho rồi.
Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đã đưa ra
nhận xét: Ông Kissinger và Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông
Thọ cũng gọi bọn người đang lố nhố trốn chạy dưới kia là những đống
rác rưởi mà chúng tôi cần tống ra biển. Cả người Mỹ và kẻ thù của họ
đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.
Chẳng bao lâu sau, đại sứ Martin đã có mặt trên
chiến hạm và ông đã nhận được một công điện của H. Kissinger đánh đi
như sau: "Người Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì khi rút đi cũng như
vậy. Ðó là thành công của ông, của chúng ta. Congratulations!
"
Ngay sau đó, Đại Sứ Martin nhận được từ dưới bong tầu chỉ huy, một
cựu tướng VN muốn xin gặp. Ông Martin đã từ chối và nói với viên sĩ
quan tùy tùng nhắn lại:
"Nói với ông ta, ở đây không phải Sài Gòn mà là nước Mỹ trên biển.
Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người "vô tổ quốc". Phải cởi
bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì."
Người tùy tùng tuân lệnh và nói thêm rằng, ông cựu tướng đó dơ hai
tay lên trời với cử chỉ tuyệt vọng, ngửa mặt lên trời và kêu lên
rằng: "Ta thề có trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về."
Lúc này, có lẽ chữ bỏ chạy là đúng nghĩa nhất. Chỉ biết bỏ chạy đã.
Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan
nhất. Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người
như thế đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7.
Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi!
Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như
những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết
đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá, họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại,
nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như
vậy. Những cái "sô" vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của
tháng Tư và đầu tháng Năm của người Mỹ cũng nói lên được điều này:
Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành
tráng, ngay cả việc trốn chạy.
Ðó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng
từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển...
Hãy cứ tưởng tượng, trong số 250 ngàn người đó, ít ra cũng đến phân
nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh người lếch thếch, lang thang
với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Và nếu cần nói
một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể
tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy
vọng gì về tương lai cả.
Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia
tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà nội như "đi vùng kinh
tế mới", "học tập cải tạo", "đánh tư sản, mại bản", và cuối cùng "đi
bán chính thức" nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách
lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước. Tổng cộng đã có gần hai
triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể những người để lại
xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng
chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải
vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguôi ngoai để lo sinh kế, miếng ăn
trước đã.
Tất cả những chính sách vừa kể trên của nhà cầm quyền CS là nhằm
đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai
Mỹ Ngụy. Và đối với nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có hai cách để làm "vệ
sinh miền Nam" là: Tống xuất bọn rác rưởi ra biển hoặc cho đi tù cải
tạo.
Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức
một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài
sinh sống. Và cuối cùng để giữ thể diện hoặc để trao đổi trong
thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo
một chương trình "ra đi trong vòng trật tự" (Orderly Departure
Program). Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ.
Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở
thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier
noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu
"Những con bò sữa thuyền nhân".
Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã
đưa họ về? Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả
những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại
tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những
con bò đó? Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về. Việc ra đi theo
diện người Hoa, đi bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai,
tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ
chức nhằm "nhổ sạch lông" những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi
ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất
là 25 tấn vàng. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện
vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.
Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ:
lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Cho mãi đến năm 1990, cũng còn
có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó
là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi
cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài.
Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước.
Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.
Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam Thương tín để chúng ta hiểu rõ Cộng
Sản hơn. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/77, trang ba
viết như sau:
"Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày
19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau: "Tội chạy
trốn theo hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu
phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp
đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân
hay tử hình." Số phận những người đi tàu Thương tín và di tản, nhất
là giới trẻ đã bị phát tán đi Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái...
Về phía những người Việt Hải ngoại, xin được nhắc mọi người đến
những hoài niệm của những năm đầu ở Hải ngoại để cho thấy tâm trạng
chúng ta lúc bấy giờ như thế nào? Những nhà văn đã thay chúng ta nói
lên những tâm trạng đó. Có thể là bài viết của Nguyễn Ðình Toàn: Sài
Gòn, niềm nhớ không không tên, kỷ niệm 30/04. Và nỗi ray rứt trong
tập thơ mỏng của Cao Tần nói lên đủ.
Vài câu thơ góp nhặt đó đây để cùng nhớ lại:
Thù quê hương như tên hề ốm nặng
Hôn tang thương sau mặt nạ tươi cười
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt muĩ ngu ngơ
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông vang
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Và trong số Văn Học Nghệ Thuật, số 1, có bài phỏng vấn người nhạc si
tài danh với câu trả lời: “Buồn lắm. Nhớ Việt Nam quá. Thương quá
Việt Nam.” nói theo kiểu Phạm Thế Mỹ. Và cứ thế. Ai là người tuôn ra
những câu thơ ở thị trấn giữa đàng những ngày tháng tư đen:
Xin cúi đầu mình xuống
Khóc quê hương, trói trong tay bạo cường.
Xin cúi đầu một phút
Nhớ anh em, sống trong ngục, trong tù
Nuôi cho sâu hận thù
Mong và chờ, về Việt Nam ước mơ
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương
Đời hai lần ta bỏ quê, bỏ nước
Phải nuôi ngày sau về ôm tổ quốc …
Ta phải về, ta chiếm lại quê huong
Ta phải về xây lại đời ta
Ta chống Cộng, ta không trốn Cộng
Ta và cả trăm ngàn đồng hương
Mai nay rồi, ta về VN mến yêu.
Thời ấy nay còn đâu.
Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước
cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn,
thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10
đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la tình nghia hàn
gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như
kẻ thù.
Gió đã đổi chiều, nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ
đã trải dài từ phi trường Tân Son Nhứt đến Nội Bài, chạy thẳng vào
Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười. Lúc ra đi trốn chui, trổn
nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.
Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt
cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến
thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam
hùng mạnh. Ðã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi
hình, đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.
Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm
trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé. Kể gì đến
những hiện tượng nhỏ nhoi đó. Ðã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy
vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ.
Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời. Ngày nay
họ là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong
bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ, cùng với bạn
đầu tư nửa tỷ đô la tại noi mà trước đây được coi là thánh địa của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về
cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng "thung
lũng của ngành tin học".
Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới
trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống
thuộc về họ, cộng đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những
người lớn tuổi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu
câu chuyện mà quên phần cuối. Những câu truyện do người lớn kể ngày
càng nhạt phèo như nước ốc. Phải chăng thời của họ đã hết? Họ bám
víu vào những bèo bọt mà chính họ cũng chẳng còn thiết tha gì. Nhưng
nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?
Phải chăng cuộc ra đi bất hạnh nay đã trở thành đại hạnh cho chính
mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ
đó mình đã ra đi?
Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người
Việt di tản. Năm 1987, mới chỉ có 8 ngàn người về thăm quê hương,
đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380
ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ
lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một số tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla
trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Năm xuất
khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ
vị tất đã được 5 tỷ?
Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt
khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu
người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt
về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở
từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho
một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế
Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.
Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn. Ðó là nền kinh tế
sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói. 10 năm nữa, dự đoán số khách
du lịch là 10 triệu người mỗi năm như Thái Lan hiện nay, với các
đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc
sẽ xảy ra. Lúc đó, tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên
hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ
kiểu.
Điều đáng nói hon nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh
đầu tư với gần 100 dự án được chấp nhận với số vốn đầu tư con số xấp
xỉ một tỉ đô la. Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh
chế tạo thành công Carbon Nanotube (áp dụng vào việc sản xuất mực in
và các sản phẩm công nghệ cao khác) không phải là hiếm. Dự án khu
khách sạn Sofitel Vinpearl Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre nay đã
thành sự thực. Nha Trang đã khánh thành khu Vinpearl Resort vào cuối
năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư
này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.
Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người
con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không
thiếu.
Gió chướng đã không còn nữa. Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều,
giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.
Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm
thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây
nữa (1) Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã
không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược lại không
thiếu những chữ mật ngọt như "Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết
luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ". "Nhà nước
bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài
giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương,
đất nước".
Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này: "Người Việt Nam ở
nước ngoài là công dân Việt Nam. Người Việt nam ở nước ngoài là bộ
phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam."
Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem
ông nói lúc nào và bao giờ: "Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ
thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng." (Hồ
Chí Minh nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960)
Từ Sài Gòn ra biển đông (30/4/1975)
Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay
và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 32 năm sau, câu chuyện kể
về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia, nhiều người
đã quên hoặc cố tình quên.
Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận
những đồng tiền đô la từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang
tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu
theo nghia rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ
khi có nhà nước Cộng Sản đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm
trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý
thức hệ bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị. (Ideology,
terror and totalitarian government).
Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy
nhất: anh muốn làm gì thì làm: chẳng hạn cờ bạc, chơi bời đủ kiểu,
tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái
đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu,
vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đi điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh
lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm
giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu,
công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu,
chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử
thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị. Vì trên
hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó.
Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng
đến chính trị.
Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN.
Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hoi SUV. Trong
vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện
ngầm xây dựng xong, đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc hoàn tất
thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.
Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà "Làng Việt Kiều". Người ta dự trù
có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở
Mỹ, Canada. Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV,
hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn. Những căn nhà
có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, có những hàng
dừa cọ, những hồ bơi với những hàng chữ tiếng Anh: "Welcome!" Ðây
là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 32
năm về trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo.
Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
Chẳng hạn, anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên Larry. Và vô số những
tên như thế Catherine, Julie, Elizabeth, Brigitte, Linda…. Nay Võ
Quy đã gần 70 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội
VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 6 năm
cùng với vợ, Linda, còn có tên cúng cơm là Ngọc để về ở đây. Anh ta
khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn
bằng Inox (thép không rỉ), phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí
theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn.
Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: "Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá
hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất
nhiều." (2)
Thiệt là Việt Kiều.
Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang
thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất
nhà cho Việt Kiều với những dự án "thành phố xanh" (Green city).
Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc
nhớ đến Sài gòn, tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì
Tân Ðịnh, bánh cuốn Ðakao, Restaurant Hoài Hương, Phở Hà Nội,
Brodard restaurant, phở Nguyễn Huệ để nhớ về miền Nam thân yêu. Nay
ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là
“tiểu Cali ”, “tiểu Fairfax ” để nhớ đến. Và cứ như thế, sẽ có một
số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc, Mỹ Hóa
của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.
Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống
Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng bào của
họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân,
cách biệt với dân bản xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về
một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh
ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ỉ cả lên. Anh bực tức nói: Như
thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp. Như thế
là thiếu văn minh.
Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành một
mẩu trong Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt.
Về Việt Nam, mở mồm là anh chỉ xổ tiếng Mỹ. Cái mâu thuẫn như thế
rất là Việt Nam. Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức
nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ
phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.
Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một
công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam,
anh cũng không có ý ở hẳn VN.. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt
khác. Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không
nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu
khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền. Nhất là các cô
thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.
Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt.
Nguyễn Anh có hoi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn
thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người
dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu
gì về người mình.
Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam
"Xem thể thao" chứ không chơi thể thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ
công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một
trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực
sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá
độ. Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc.
Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.
Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn
Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân choi nổi
tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng. Nhưng
có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì
mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền
nữa. Ngưyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Ðúng là anh
thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng
thấy anh không giống ai.
Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất
là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi
giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.
Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết
tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và
tình hoài hương lại trỗi dậy. Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ
rằng:
Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những người này hiện ở đây vì đất
này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng
ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần
nữa.
Gió chướng đổi chiều đến đâu có thể còn chưa biết rõ được. Tôi tự
hỏi bao giờ làn gió chướng đó cùng với con lốc đầu tư tư bản đánh
bật chủ nghĩa Cộng Sản ra biển?
Chỉ có một điều tôi biết chắc rằng, ngay cả những người theo làn gió
chướng đổi chiều, đã về VN. Họ cũng cảm thấy họ chẳng sung sướng gì,
đôi khi tỏ ra buồn phiền, nghi kỵ, thất vọng không muốn nói ra. Ðó
là trường hợp hợp ông Nguyễn Cao Kỳ. Ðó cũng là trường hợp một người
trong số 17 người vừa được vinh danh "Vinh Danh Việt Nam – 2006"?
Tôi có cảm tưởng họ đang chơi một canh bạc giả, biết như thế mà vẫn
chơi, chơi cho biết.
Gió chướng đã đổi chiều? Nhưng đổi thế nào thì còn chưa nói hay
được. Bảng chỉ đường đất nước vẫn còn có thể chỉ trật đường. Xin dè
dặt. Thận trọng và khôn ngoan để đừng thêm một lần nữa mắc mưu Cộng
Sản lừa phỉnh.
.
Xin lỗi, không biết ai là tác giả.
Không có con đường đưa tới hạnh phúc, hạnh phúc là con đường. |
|