Người phụ nữ và
những trào lưu giải phóng*
Con vật ngốc nhứt, là người đàn ông
(Le plus sot animal, c’est l’ homme – Olympe de Gouges)
Trời
đất sanh ra con người được phân ra làm 2 thành phần : Nam và Nữ.
Phái nữ chiếm đa số nhân loại. Trong đời sống xã hội, người phụ
nữ hiện diện khắp nơi. Khi được nắm giữ những vai trò quan trọng
thường giao phó cho đàn ông họ thành công rất đáng thán phục.
Thế mà, người phụ nữ vẫn bị kỳ thị, ngược đãi, có khi còn bị bạo
hành ngay trong gia đình. Không thể chấp nhận thân phận bị áp
bức kéo dài triền miên như vậy nữa, người phụ nữ khắp nơi trên
thế giới đã đứng lên đòi quyền sông xứng đáng theo nhân phẩm,
đòi quyền được tôn trọng bình đẳng như nam giới trong xã hội.
Những đòi hỏi chánh đáng này đã được định chế hóa. Nhưng ngày
nay, sau những đợt giải phóng, bình quyền, thân phận người phụ
nữ trên thế giới được thăng tiến đến mức độ nào ? Riêng ở Việt
Nam, địa vị người phụ nữ được cải thiện hay bị xuống cấp ?
I - Thân phận người phụ nữ
Ngày nay địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình vẫn
chưa được thuận lợi. Khủng hoảng kinh tế và xã hội tác hại các
nước kỹ nghệ, những khó khăn ở các nước đang mở mang, những xung
đột địa phương gây ra những cuộc di dân vĩ đại, tất cả ảnh hưởng
lên người phụ nữ nhiều hơn đối với nam giới. Để thấy tại sao
ngươi phụ nữ ở khắp nơi lúc nào cũng bị thiệt thòi, chúng ta hãy
xem lại những điều kiện thăng tiến xã hội mà người phụ nữ đã thụ
hưởng được đến đâu.
1 - Về mặt giáo dục :
Ngày nay có một số khá đông phụ nữ đạt được những học vị cao
tương đương với nam giới nhưng nhìn chung, việc học và thành đạt
của nữ giới so với nam giới vẫn còn chênh lệch quá nhiều.
Theo báo cáo của Chương trình phát triển LHQ năm 2007, Bắc Mỹ có
1% mù chữ chung cho 2 giới nam/nữ, Liên hiệp Âu châu có 1,8% nữ
mù chữ, nam có 1,5%, ở Nam Á có 50,4% nữ mù chữ, nam có 30,6%.
Riêng các xứ hồi giáo, nữ có 31,8% mù chữ, nam có 14,5%. Ở Phi
châu, nữ mù chữ chiếm 47,4%, nam chiếm 30,1%
Thế giới ngày nay vẫn còn 600 triệu phụ nữ mù chữ.
Cấp Trung học, theo Eurostad năm 2007, nữ sinh ở vài nước phát
triển của Âu châu học thành công hơn nam sinh. Pháp có 86% nữ
sinh thi đậu, nam sinh chỉ có 80,1%. Bỉ có 85,3% nữ sinh thi
đậu, nam sinh có 78,4%. Đức có 72,5% nữ sinh thi đậu, nam sinh
có 70,4%.
Cấp Đại học, Pháp có 28,2% nữ thành công, nam chiếm 24,7%. Bỉ có
33,5§ nữ thành công, nam có 30,9%. Đức có 20,8% nữ thành công,
nam được 28%.
Về việc chọn môn học để tiến thân sau này, theo một bản báo cáo
của một trường Đại học Hoa kỳ, con trai phần lớn nghiêng về các
môn như toán, khoa học, kỹ thuật và học thành công, trong lúc
đó, con gái chọn những môn này thường bỏ dở nữa chừng.
Ngoài việc người phụ nữ chọn ban ngành học không thuận lợi cho
việc hội nhập xã hội, điều đáng lấy làm ngạc nhiên là các trường
đại học chỉ bắt đầu đón nhận nữ sinh vào từ cuối thế kỷ thứ 19
do sức ép của sự phản kháng xã hội lúc bấy giờ. Tại nhiều quốc
gia, mãi đến sau thập niên 50 hoặc 60, các đại học mới nhận nữ
sinh viên vào học. Một số lớn những đại học có tiếng đã trải qua
nhiều thế kỷ từ sau ngày thành lập mới chịu nhận nữ sinh viên.
Cụ thể như ở Hoa kỳ, đại học Harward đã ra đời trước đây hơn 250
năm. Ở Anh, đại học Cambridge đã mở cửa từ 593 năm qua và đại
học Oxford đã có từ 714 năm về trước.
2 -Về mức sống vật chất :
Người phụ nữ nghèo khổ vẫn là số đông và vô cùng đáng thương.
Hiện tại có hơn một tỷ người sống nghèo khổ thì có đến 70% là
phụ nữ. Số phụ nữ một mình nuôi con càng ngày càng đông. Theo
LHQ ước tính, cứ 3 gia đình thì có một trường hợp. Ở Phi châu,
tỷ lệ này cao hơn.
Sự nghèo đói hằng năm đã làm thiệt mạng hàng nhiều triệu phụ nữ
và thiếu nữ. Tình trạng này vô cùng nghiêm trọng ở vùng quê và ở
các nước kém mở mang. Nhưng ngày nay, ở vùng kỹ nghệ phát triển
như Pháp, tình trạng này vẫn chưa được cải thiện tốt đẹp hơn bao
nhiêu.
Quyền lợi về đi học và đào tạo đồng đều nhưng cái nghèo khó vẫn
hăm dọa và gây thiệt hại cho người đàn bà là nặng nề hơn đàn
ông. Trong hơn 10 năm qua, nạn thất nghiệp hoành hành phụ nữ rất
nặng nên họ bị bắt buộc phải chấp nhận làm những việc tạm bợ
hoặc dưới khả năng và lương bổng thấp.
Ở Pháp, cứ 10 người hưởng trợ cấp tối thiểu để tái hội nhập xã
hội thì số phụ nữ lúc nào cũng đông hơn. Ở Hoa kỳ, gần phân nữa
những gia đình được giúp đỡ tài chánh gồm toàn phụ nữ độc thân.
Họ sống chỉ bằng 2/3 của mức nghèo chính thức qui định.
3 - Về sức khoẻ :
Sức khoẻ của phụ nữ vẫn còn là vấn đề tranh cải giữa tôn giáo và
xã hội. Sự đồng thuận được đặt định từ 20 năm qua thì ngày nay
bị khơi dậy bởi những quan điểm trái ngược về vai trò và địa vị
của người phụ nữ trong xã hội. Vấn đề phá thai, vấn đề ngừa
thai, đã từng gây sóng gió ở Hội nghị về dân số và phát triển
tại Le Caire vào tháng 9 năm 1994.
Nhìn chung phải thừa nhận vấn đề sức khoẻ của phụ nữ từ 20 năm
qua được cải thiện những bước quan trọng. Con số sanh đẻ có giảm
nhiều từ 5, 9 đứa con xuống còn 3, 1 đứa con/1 phụ nữ. Tuy
nhiên, sự chênh lệch về mặt sức khoẻ được chăm sóc vẫn còn kéo
dài so với đàn ông. Mặt khác, người phụ nữ còn bị ngược đãi,
hành hạ tổn thương đến sức khoẻ. Cứ mỗi năm có 500.000 phụ nữ tử
vong vì sanh đẻ, trong đó lại có đến 30% là thiếu nữ vị thành
niên. Người ta tính mỗi năm có 100.000 phụ nữ chết vì phá thai
lén lút, thiếu kiểm soát y tế. Có tới 300 triệu phụ nữ không có
được phương tiện lo liệu kế hoạch hóa gia đình. Có từ 85 đến 114
triệu phụ nữ bị thương tật ở bộ phận phụ nữ.
Và đây là sự thật đang xảy ra ở Hoa kỳ ngày nay : cứ 8 giây đồng
hồ là có một phụ nữ bị ngược đãi và cứ 6 phút là có một phụ nữ
bị cưỡng hiếp.
Người phụ nữ phải đối diện hàng ngày với thảm trạng xã hội mà họ
là nạn nhơn : hãm hiếp, đánh đập, sách nhiễu tình dục. Trong số
những nạn nhơn này có cả những phụ nữ chánh trị gia, chỉ huy xí
nghiệp... Tình trạng này vẫn chưa thấy thuyên giảm đáng kể.
Tại quốc gia Thụy Điển văn minh và có tiếng tôn trọng phụ nữ,
chỉ trong năm 1999, có đến 20.000 đơn thưa của phụ nữ bị hành
hung, tỷ lệ tăng lên 140% kể từ năm 1980. Ở Tây Ban Nha, mỗi năm
có ít nhứt 70 phụ nữ bị chồng hoặc tình nhơn sát hại chỉ vì
người phụ nữ muốn thôi chồng hoặc chia tay với tình nhơn. Ở Liên
Hiệp Âu Châu, theo một báo cáo phổ biến hồi tháng 6/2000, thì
nạn sách nhiễu tình dục đã gia tăng, có đến từ 40% đến 50% phụ
nữ nạn nhân. Con số này lên đến 60% ở các quốc gia về phía nam
lục địa Âu châu.
4 -Về mặt nghề nghiệp :
Về mặt nghề nghiệp và thăng tiến, đã có giảm bớt sự chênh lệch
giữa nam và nữ, nhưng ở mức độ còn rất thấp.Trên thế giới, người
phụ nữ vẫn chưa được xếp ngang hàng với nam giới về mặt này.
Theo báo cáo của Văn Phòng Quốc tế Lao động (BIT) thì có 41% nữ
nhân công trong các nước kỹ nghệ và 34% trên toàn thế giới;
người phụ nữ chiếm 38% dân số lao động.
Mức lương của phụ nữ thường thấp hơn mức lương của nam giới từ
20% đến 40%. Sự chênh lệch này có thể hiểu được do sự chọn nghề
theo hướng chọn ban ngành học ở nhà trường. Nữ sinh đa số chọn
ban khoa học nhân văn hoặc xã hội. Nếu phải chọn khoa học kỹ
thuật thì chọn y khoa hoặc sinh học thay vì toán và thường tránh
thi vào các trường kỹ sư. Trong cả Âu Châu, vào cuối thế kỷ XX
cũng như hai mươi năm về trước, số nữ sinh chọn ngành kỹ sư chỉ
có 20%.
Do đó mà lương bổng của phụ nữ vẫn còn là vấn đề thiệt thòi lớn,
tuy rằng luật pháp vẫn bảo đảm sự bình đẳng lương bổng. Những
nghề dành ưu tiên cho phụ nữ được trả lương thấp hơn những nghề
ưu tiên dành cho nam giới. Cùng làm một công việc như nhau,
người phụ nữ được trả lương kém hơn người đàn ông. Cùng có bằng
cấp như nhau, người phụ nữ được thăng tiến nghề nghiệp chậm hơn
đàn ông. LHQ và Liên Hiệp Âu châu phản đối tình trạng này rất
quyết liệt. Tỷ lệ sai biệt về lương bổng năm 2008 trên thế giới
giửa nam và nữ là 25% Riêng ở Pháp, mức sai biệt này là 40%. Mức
lương càng cao thì mức sai biệt càng lớn : từ 75% đến 91%. Pháp
có 38% phụ nữ lãnh đạo xí nghiệp, Bỉ có 27%.
5 - Về mặt tham chánh :
Ở nhiều quốc gia hay trên chánh trường quốc tế, người phụ nữ nắm
chánh quyền không chỉ thiểu số mà có khi còn bị loại hẳn ra khỏi
địa hạt quyền lực. Họ được thừa nhận là công dân sau đàn ông rất
muộn.
Chỉ ở một số nước Bắc Âu, đàn bà tham chánh như là trường hợp
điển hình gương mẫu. Islande là nước đầu tiên đã bầu cử, bằng
phổ thông đầu phiếu, một phụ nữ làm Quốc trưởng. Ở Thụy Điển,
Quốc hội có đến 40% nữ dân biểu. Ở Na-Uy, Thủ tướng và Chủ tịch
các chánh đảng đối lập đều là phụ nữ. Phần còn lại ở Âu Châu và
Hoa kỳ, những nơi quyền phụ nữ được luật pháp tôn trọng, người
phụ nữ tham chánh vẫn còn là thiểu số rất thấp.
Tuy nhiên cả thế giới ngày nay có 23 Nữ hoàng, nữ Quốc trưởng
hay nữ Thủ tướng.
Ở Pháp, trong nền Đệ V Cộng hòa, có 11 Chánh phủ có tới 4 Chánh
phủ không có phụ nữ.
Nhưng ngày nay, trong Chánh phủ của Thủ tướng Fillon, số Tổng Bộ
trưởng ngang ngửa nhau về mặt giới tính. Đây là lần đầu tiên.
Nên Pháp được Liên Hiệp Âu châu tuyên dương là quốc gia giữ được
tỷ lệ cân đối nam/nữ trong Chánh phủ.
Tuy nhiên, nghịch lý của Pháp vẫn còn, sau 8 năm (năm 2000) Đạo
luật về nam/nữ bình quyền ra đời, những chức vụ quan trọng vẫn
rơi vào tay đàn ông. Đây là thực tế : dưới 11% phụ nữ làm xã
trưởng, dưới 20 % phụ nữ làm dân biểu, thượng nghị sĩ, và chỉ có
một phụ nữ duy nhứt làm chủ tịch Hội đồng Quản hạc (Conseil
Régional).
Qua cái nhìn tổng kết trên đây, chúng ta đều nhận thấy cần phải
được tranh đấu nhiều hơn nữa cho quyền phụ nữ.
II
- Những trào lưu giải phóng
1/ Hai bản Tuyên ngôn huê kỳ và cách mạng pháp đều nhằm
đề cao và bảo vệ nhân quyền và dân quyền, nhưng vẫn chưa thật sự
có hiệu lực trong nhiệm vụ bảo vệ nữ quyền. Năm 1791, bà Olympe
de Gouges đưa ra một dự án luật gồm có 17 điều với “ Bản Tuyên
ngôn Nữ quyền và Nữ dân quyền ”. Có lẻ đây là đợt giải phóng
người phụ nữ sớm nhất bằng một văn bản lập pháp, nhưng rất tiếc
bản văn không được chấp thuận và tác giả qua 2 năm sau bị đưa
lên đoạn đầu đài. Bản Tuyên ngôn viết về những Quyền của người
phụ nữ :
“ Xét rằng sự dốt nát, bỏ quên hay khinh thường Nữ quyền là
những nguyên nhân gây ra bất hạnh và làm hư Chánh phủ, những
quyền tự nhiên và bất khả nhượng của phụ nữ được tuyên bố long
trọng trong bản văn này để mọi người ghi nhớ mà hành động phù
hợp với mục đích của định chế chánh trị.
Người Phụ nữ đòi hỏi duy trì Hiến pháp, luân lý và hạnh phúc cho
tất cả.”...
Bản Tuyên ngôn Nữ quyền nhằm phản bác lại 2 Bản Tuyên ngôn kia.
Trong bản văn này, tác giả viết rỏ quyền của Nam và Nữ, thay vì
chỉ nói đến quyền của “ Đàn ông ” (Droits de l’homme như
trong 2 bản Tuyên ngôn huê kỳ và pháp ) là để phối hợp hài hòa
hai giới.
Đòi hỏi Nữ quyền, nhưng người phụ nữ không hề đòi hỏi những
quyền riêng cho phụ nữ. Luật pháp không bãi miễn cho phụ nữ phạm
tội. Bản Tuyên ngôn xác định sự bình đẳng dân sự và chánh trị
giửa hai phái, yêu cầu phục hồi cho phụ nữ những quyền tự nhiên
mà tập quán và thành kiến đã tước đoạt. “ Người phụ nữ lên đoạn
đầu đài thì người phụ nữ phải có quyền lên diễn đàn ”. Ý niệm về
tự do và bình đẳng rất rỏ. Tự do dính liền với công lý. Người
phụ nữ không muốn quyền tự do của họ vượt qua những quyền tự
nhiên mà họ được thừa hưởng ngay từ lúc mới sanh ra đời.
Sau khi bản văn này được công bố, lần đầu tiên, năm 1792, người
phụ nữ được chánh thức tham dự một buổi lễ long trọng cấp quốc
gia và tiếp theo, ngày 14-7-1792, tham dự lễ kỷ niệm phá ngục
Bastille.
Ngoài ra, Bà Olympe de Gouges còn là người phụ nữ đầu tiên đòi
cho phụ nữ quyền ly dị, bãi bỏ hôn lễ tôn giáo, thay thế bằng
một xã ước ký kết giửa hai người đồng ý sống chung với nhau,
tranh đấu cho quyền tự do thừa nhận con tư sanh, đưa ra lý
thuyết bảo vệ sản phụ và hài nhi mà ngày nay chúng ta biết, đòi
hỏi thành lập sản khoa cho phụ nữ vì Bà bất mãn thấy phụ nữ sanh
đẻ trong bịnh viện không có khu vực chuyên môn dành riêng cho
phụ nữ.
Mải sau Đệ II Thế chiến, Bà Olympe de Gouges mới được nhắc lại,
những bản văn của Bà được đem ra nghiên cứu, học hỏi ở Huê kỳ,
Nhựt và Đức.
Ngày nay ở Pháp, Bà Olympe de Gouges được tưởng niệm trọng thể ở
nhiều nơi.
2 - Những năm đầu tiên
Một số sử gia và văn nghệ sĩ cho rằng Phong trào Giải phóng Phụ
nữ thật sự bắt nguồn từ năm 1968. Nhưng những người khác lại cho
rằng nguồn gốc của Phong trào Giải phóng Phụ nữ manh nha từ
những bản văn viết về hiện tượng xã hội này, những bài diễn
thuyết, những lời tuyên bố, cổ vũ Phong trào,...
Giửa những năm 1967 và 1970, có nhiều nhóm hoạt động cho Phong
trào Giải phóng Phụ nữ. Trong phong trào Tháng 5/68, có những
buổi họp chỉ gồm toàn phụ nữ hoạt động cho nữ giới và ủng hộ
những tổ chức chống thực dân và tranh đấu giai cấp.
Năm 1967, một tổ chức hổn hợp ra đời từ phong trào xã hội trên
đây, mở những buổi hôi thảo về quan hệ Nam / Nữ. Đến năm 1970,
nhiều nhóm khác xuất hiện nhưng không tồn tại được lâu dài.
Mùa Xuân năm 1970, một cuộc biểu tình công khai đầu tiên hô hào
vận động thành lập Phong trào Giải phóng Phụ nữ được tổ chức tại
Đại Học Vincennes, ngoại ô phía Đông Paris. Tháng 5/1970, một
bài báo đầu tiên về Phong trào Giải phóng Phụ nữ xuất hiện trên
tờ báo L’Idiot International (Thằng ngốc Quốc tế) dưới nhan đề “
Chiến đấu giải phóng phụ nữ ”. Bài báo được nhiều người cùng ký
tên tác giả : Monique Wittig, Marcia Rothenburg và Margaret
Stephenson.
Truyền thông lần đầu tiên nói về Phong trào Giải phóng Phụ nữ
ngày 26/08/1970 khi một nhóm mươi phụ nữ kéo nhau tới Khải Hoàn
môn ở Paris đặt vòng hoa tại Đài Chiến sĩ vô danh để tưởng niệm
người Phụ nữ, để bày tỏ tình đoàn kết với Phong trào Phụ nữ Mỹ,
cùng ngày này, ở Mỹ họ tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm Quyền Phụ nữ bỏ
phiếu. Người ta đọc được trên một biểu ngữ căng lên trong dịp
này khẩu hiệu “ Vô danh hơn chiến sĩ vô danh, Vợ của hắn ”. Và
một khẩu hiệu khác “ Một trong 2 đàn ông là một phụ nữ ”. Đến
mùa Thu năm 1970, xuất hiện trên tạp san Les Partisans do nhà
xuất bản uy tín Pháp Maspéro ấn hành, một bài báo nhan đề “ Giải
phóng Phụ nữ, năm thứ 0 ”, tập hợp những nhân chứng vô danh,
những cây viết phụ nữ Pháp và Mỹ. Lời mở đầu rất quan trọng, có
giá trị như một bản Tuyên ngôn về Phong trào Giải phóng Phụ nữ.
Phong trào không giới hạn ở Huê kỳ, mà khắp nơi ở cả Đông âu,
đồng loạt diễn ra từ hai năm nay ở Anh, Hòa lan, Thụy điển, Đan
mạch, Đức, Pháp. Giờ đây ở Ý, những nhóm phụ nữ tập hợp lại, họ
học tập với nhau để cùng suy nghĩ tìm kiếm những phương tiện
tranh đấu để giải phóng họ thoát khỏi những áp bức xã hội.
3 - Ba xu hướng chánh Giải phóng Phụ nữ
Trong phong trào Giải phóng Phụ nữ có 3 xu hướng chánh.
Thứ nhứt, đó là xu hướng “ tranh đấu giai cấp ” muốn kết hợp
phân tích vấn đề phụ nữ theo quan điểm mác-xít.
Xu hướng cấp tiến như Monique Wittig muốn đẩy mạnh và nhanh
phong trào “đồng tính luyến ái ” và xóa bỏ từ ngữ “ phụ nữ ” in
đậm dấu ấn là thành phần bị áp chế. Từ đây xuất hiện lý thuyết “
giới tính ”(genre). Đối với Christine Delphy, phụ nữ tạo thành
một tầng lớp rỏ rệt được xác định bởi thiên chức “cung cấp những
dịch vụ nội trợ miễn phí ” nên bà kêu gọi phụ nữ hãy tiến lên
nắm quyền để thanh toán trọn vẹn “ hệ thống sản xuất và tái sản
xuất phụ quyền.”
Phong trào Giải phóng Phụ nữ trở thành Liên đoàn Nữ quyền do Bà
Simone de Beauvoir lãnh đạo. Tham dự vào Liên đoàn có nhiều tổ
chức yểm trợ, giúp đỡ phụ nữ như tổ chức “ SOS Phụ nữ bị hãm
hiếp ”.
Sau cùng là xu hướng “ phân tâm và chánh trị ” do Bà Antoinette
Fouque làm Chủ tịch, muốn làm sôi nổi lên vấn đề phụ nữ. Năm
1973, bà thành lập nhà xuất bản Phụ nữ, năm 1974, mở Nhà sách
Phụ nữ ở Paris, năm 1976, mở Nhà sách Phụ nữ ở Marseille, và năm
1977, mở Nhà sách Phụ nữ và Nhựt báo Phụ nữ ở Lyon, qua năm sau,
nguyệt san và tuấn san Phụ nữ tranh đấu.
Những nhóm này tập trung hoạt động đòi quyền phá thai, chống
hành hung phụ nữ.
Qua năm 1979, bà Antoinette Fouque thành lập, theo luật Lập hội
năm 1901, Phong trào Giải phóng Phụ nữ và bà đem nạp cầu chứng
phù hiệu của Phong trào “ MLF ”(Mouvement de la Libération des
Femmes) tại Viện Quốc gia Sở hữu kỷ nghệ. Việc làm này không
được hội ý trước với tổ chức của bà nên sau đó bị một số hội
viên phê phán và từ đó tạo thành một dư luận bất lợi trên báo
chí.
Tháng 3 năm 1982, bà Antoinette Fouque rút lui khỏi trách nhiệm
chánh trị của Hội Giải phóng Phụ nữ. Năm 1989, bà thành lập Liên
minh Phụ nữ Dân chủ.
Luật phá thai của Bà Simonne Veil được thông qua ngày 1/9/1975
và ban hành là một thắng lợi lớn của Phong trào Phụ nữ tranh đấu
cho nữ quyền.
Nhắc lại để thấy những thành quả ngoạn mục của các trào lưu giải
phóng Phụ nữ. Năm 1974, Chánh phủ pháp cho thành lập Bộ Nữ
quyền. Năm sau, LHQ tổ chức “ Năm Quốc tế Phụ nữ ”.
Mọi người đều ghi nhận Phong trào Giải phóng Phụ nữ đã thật sự
thay đổi sâu xa xã hội và những giá trị nhân xã từ hậu bán thế
kỷ XX. Phong trào đã thực hiện được bước nhảy vọt rất lớn về nữ
quyền, nhứt là quyền người phụ nữ muốn sanh con hay không, bình
đẳng nghề nghiệp, bình đẳng quyền làm cha mẹ trong trách nhiệm
đối với con cái, bình đẳng Nam / Nữ.
Từ nay, các tổ chức tranh đấu nữ quyền ra đời và hoạt động rầm
rộ tạo thành một phong trào như trăm hoa đua nở.
4 - Hội nghị Quốc tế về Phụ nữ
Ngày nay, người phụ nữ còn phải tranh đấu lật đổ huyền thoại về
nữ phái. Họ bắt đầu xác nhận một cách cụ thể sự độc lập của
mình. Nhưng uy tín của phái mạnh vẫn còn khó bị xóa mờ và nhứt
là khi người phụ nữ lập gia đình thường chấp nhận bị phụ thuộc
vào người đàn ông do sức ép kinh tế và xã hội.
Mà phụ nữ là gì ? Theo Simone de Beauvoir thì con người
ta không phải sanh ra là phụ nữ mà con người ta trở thành
phụ nữ. Không phải yếu tố sinh lý, tâm lý, kinh tế xác
định gương mặt của người phụ nữ trong xã hội mà chính là toàn bộ
văn minh của loài người đã đặt tên cho người đó là phụ nữ.
Khi mang tên là phụ nữ thì người phụ nữ bắt đầu gánh lên
mình những hệ lụy do nền văn minh con người dành cho. Phải chăng
vì vậy mà người đời không khỏi nhỏ lệ thương cảm cho thân phận
người phụ nữ :
« Tất cả đau khổ của trần gian
Trời đã giành riêng để tặng nàng » ? **
Sau thời gian dài tranh đấu gay gắt, người ta ghi nhận thế giới
phụ nữ đã thay đổi nhiều. Đời sống người phụ nữ được cải thiện.
Nhưng thực tế cho thấy người phụ nữ trên thế giới vẫn còn nhiều
khó khăn về nhiều mặt.
Để giúp cải thiện thêm nhiều hơn nửa đời sống người phụ nữ, LHQ
đã tổ chức từ năm 1975 bốn Hội nghị quốc tế về phụ nữ. Năm 1975
ở Mexico, Hội nghị thế giới phụ nữ qui tụ được 6.000 phụ nữ tham
dự ; năm 1980, ở Copenhague (Đan Mạch), có 8.000 người ; năm
1985 ở Nairobi (Kenya), có 15.000 người ; và gần đây, năm 1995,
ở Bắc Kinh (Tàu), có đến 30.000 người tham dự.
Những con số thay đổi cho thấy người phụ nữ đã lần lần thật sự ý
thức đến thân phận của mình và muốn nỗ lực tranh đấu cải thiện
thân phận để những quyền lợi chánh đáng của ngươì phụ nữ phải
được tôn trọng.
Hội nghị thế giới phụ nữ ở Bắc Kinh năm 1995 đặc biệt hơn các
lần trước, không phải chỉ vì con số phụ nữ tham dự đông đảo và
có một số lớn chánh khách phụ nữ tham dự như Tổng Thống phu nhân
Hoa Kỳ, bà Bill Clinton, mà vì sự tham dự tích cực của các tôn
giáo lớn như Hồi Giáo và Công Giáo La-Mã, trong tư thế những
phái đoàn ngoại giao quan trọng của Hội nghị.
Dư luận thế giới quan tâm hơn nữa về Hội nghị kỳ này khi phái
đoàn Hồi Giáo và Vatican nhân danh những đặc thù văn hóa và tôn
giáo lên tiếng công kích gay gắt và phản đối bản văn kết thúc
Hội nghị.
Trái lại, Đại diện các nước Âu Châu cho rằng Hội nghị đạt được
những kết luận như bản văn kết thúc là những thắng lợi lớn về
mặt nữ quyền đem lại cho người phụ nữ ngày nay
Bản văn tuyên bố kết thúc Hội nghị xác nhận : " Sự áp dụng trọn
vẹn những quyền căn bản về phụ nữ, về thiếu nữ như là những
quyền của con người và những quyền tự do căn bản."
Còn bản Cương Lĩnh Hành Động là bản văn quốc tế lần đầu tiên nêu
lên quyền của người phụ nữ về « vấn đề tính dục ngoài thiên chức
sanh con cái và cả quyền tự do quyết định muốn sanh con cái hay
không ». Những điều khoản khác của bản văn được Hội nghị tán
thành liên quan đến « sự bình đẳng của phụ nữ với nam giới về
các mặt quyền lợi và nhiệm vụ xã hội, gia đình, kinh tế và chánh
trị »
Qua đến Hội nghị quốc tế phụ nữ lần thứ tư, một khối lượng quan
trọng về nữ quyền được ban hành, nhưng trên thực tế, địa vị
người phụ nữ có thật sự được cải thiện và sự chênh lệch địa vị
về giới tính có được xoá sạch hay không ? Hay vấn đề bình đẳng
nam nữ không thể chỉ do khả năng Hội nghị giải quyết, mà phải do
đấu tranh thường xuyên, trường kỳ, liên tục của phụ nữ và cả nam
giới phải tích cực hợp tác nữa. Bình đẳng nam nữ không phải là
một dữ kiện xã hội, mà đó là mục đích phải đạt tới. Nó không
phải là điều đạt được do bản Hiến Chương LHQ nêu lên và cổ xúy,
mà là cuộc chiến dai dẳng, quyết liệt, do chính chúng ta phải tự
đảm nhiệm.
Ngoài ra, năm 1993, tại Hội nghị Quốc tế về Nhân Quyền ở Vienne,
Áo, một bản Tuyên ngôn và một Chương trình hành động cho Nữ
quyền được công bố : « Những quyền căn bản của phụ nữ và thiếu
nữ là thành phần bất khả nhượng, trọn vẹn và không thể tách rời
khỏi những quyền phổ quát của con người. Sự tham gia bình đẳng
và đấy đủ vào đời sống chánh trị,công dân, kinh tế, xã hội và
văn hóa ở cấp địa phương và quốc tế của người phụ nữ, và sự thủ
tiêu mọi hình thức kỳ thị dựa trên giới tính đều là những mục
tiêu ưu tiên của Cộng đồng quốc tế ».
Tháng 6/2000, Hội nghị về Phụ nữ ở Nữu Ước quy tụ 180 quốc gia
và hơn 10.000 đại biểu thảo luận nhằm thực hiện những mục tiêu
do Hội nghị Bắc Kinh đề ra. Hội nghị báo cáo tình trạng chung
của người phụ nữ còn đen tối, hố ngăn cách giữa phụ nữ giàu và
phụ nữ nghèo ngày càng lớn, 2/3 của số 875 triệu người mù chữ là
phụ nữ, mà 3 / 5 phụ nữ mù chữ thuộc các nước Đông nam Á.
Bản văn kết thúc Hội nghị Nữu Ước đề nghị những biện pháp cứng
rắn chống lại nạn bạo hành trong gia đình và chống lại những hôn
nhơn mà người phụ nữ còn vị thành niên hoặc những cuộc hôn nhơn
cưỡng ép vì quyền lợi như những dịch vụ thương mãi. Ở các nước
Hồi giáo, tình trạng này vẫn còn chiếm từ 30% đến hơn 50%. Đặc
biệt hơn là ngày nay Nhà nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam
đang làm ngơ hay thỏa hiệp với những tổ chức bán gái vị thành
niên qua Cao-miên và vài nước khác trong vùng làm mải dâm.
5 - Trăm hoa đua nở
Biến cố Tháng 5/68 không chỉ riêng trong giới sinh viên mà nó
còn làm đảo lộn trật tự xã hội đã có từ lâu đời. Qua năm 1971,
một tập hợp phụ nữ phổ biến rầm rộ Tuyên ngôn 343 với 343 phụ nữ
mang bầu xuống đường biểu tình đòi quyền không muốn mang bầu
nữa. Tiếp theo, luật phá thay được ban hành.
Năm 2000, Pháp thiết lập sự bình đẳng Nam / Nữ trong sinh hoạt
xã hội. Năm 2003, Bà Fadela Amara và ê-kíp của bà thành lập Tổ
chức « Ni Putes, ni Soumies » (NPNS, Không đĩ điếm, không khuất
phục), bắt đấu những cuộc tuần hành trong các khu phố và hô hào
kêu gọi phụ nữ hồi giáo hội nhập vào đời sống xã hội, chống mọi
áp bức, hành hung thô bạo phụ nữ, phân biệt đối xử phụ nữ như
cha mẹ không cho trẻ em gái đi học, có đi học, không cho học
những giò sinh lý, không cho học thể dục chung với học sinh
trai, không cho phụ nữ có quyền làm chủ thân thể của mình,…
Chỉ trong vài tháng, Tổ chức Ni Putes, ni Soumises thâu phục
được hơn 8000 Hội viện và có 40 Ủy Ban hoạt động ở các địa
phương.
Năm 2007, NPNS được hưởng qui chế Tham vấn tại LHQ. Và bà Fadela
Amara được bổ nhiệm làm Bộ trưởng đặc trách về Thành phố.
Tổ chức NPNS có trụ sở tại Paris XX ngày nay do bà Sihem Habchi
làm Chủ tịch.
6 - Phụ nữ muốn làm cách mạng
Nhiều phụ nữ trên thế giới nhân dịp tham dự Diễn Đàn Phụ nữ
(Women’s Forum) từ 15-17 tháng 4 / 2009 vừa qua tổ chức tại
Deauville, thành phố trên bờ biển Miền Bắc nước Pháp, tuyên bố
là họ không chỉ muốn mọi người biết đánh giá đúng khả năng của
họ, mà họ muôn làm cách mạng. Cũng như mọi người, phụ nữ bị ảnh
hưởng khủng hoảng kinh tế hiện nay, nhưng họ lại không cảm thấy
có trách nhiệm. Bà Ngozi Okonjo-Iweala, Giám đốc Ngân hàng thế
giới tại
Nigeria, cho rằng « Phải chi Lehman Brothers là Lehman Sisters
thì ngày nay người ta sẽ không sống trong tình trạng hiện nay ».
Các bà tại Women’s Forum
đều quả quyết rằng nếu những ý kiến, những nhản quan của các bà
nhìn thế giới được lắng nghe nhiều hơn, được ghi nhận đúng mức
thì thế giới chắc chắn đã khác hơn.
Theo bà Anne Lauvergeon, Chủ tịch Tổng giám đốc Areva, một của
bốn mươi nhóm xí nghiệp đầu tiên pháp được đăng ký trên thị
trường chứng khoán, thì « khủng hoảng tài chánh chỉ là một trong
những khủng hoảng hiện nay mà thôi. Bởi vì những định chế của
Pháp không thay đổi. Hiện có khủng hoảng học đường, khủng hoảng
y tế. Năm 1800, người ta cưới nhau chỉ cho mười năm. Ngày nay,
người ta cưới nhau cho năm mươi, sáu mươi năm. Đời sống khác
nhau chớ. ». Bà Đại sứ Mỹ tại Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OCDE) đóng góp ý kiến « Vấn đề của người phụ nữ là phải biết
nắm lấy vận mạng của mình trong tay, thay đổi những định chế để
thiết lập những định chế mới ».
Diễn Đàn Phụ nữ bày tỏ quyết tâm thay đổi tận gốc, dĩ nhiên,
nhằm xí nghiệp trước, nhưng nhằm thay đổi cả giáo dục, y tế,
những bất bình đẳng, vấn đề môi trường,…
Theo nhiều cuộc điều tra gần đây cho thấy xí nghiệp sử dụng hơn
35 % phụ nữ đạt được thương vụ cao. Một cuộc điều tra của Cty
Hedge Fund Research công bố, giửa năm 2000 và năm 2009, những
công ty tài chánh nào sử dụng nhiều phụ nữ quản trị đều giữ được
thị trường tăng cao.
Các bà trong các xí nghiệp không muốn ngồi đó chờ đợi tài ba của
các bà được chiếu cố. Càng ngày càng đông, phụ nữ xí nghiệp từ
nay muốn trong Hội đồng quản trị phải có ít nhứt 40 % phụ nữ.
Ngoài ra các bà còn là bà mẹ nên muốn hệ thống giáo dục phải
được thay đổi trước hết.
Diễn Đàn Phụ nữ xí nghiệp quả quyết « các ông gây ra khủng
hoảng, thì nay chính các bà sẽ ổn định ».
III- NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM
Đàn ông, theo triết gia Pierre Bourdieu, « không phải họ sanh ra
là đàn ông, mà chính họ trở thành đàn ông » nên phải chăng vì
vậy mới có lắm vấn đề gây ra cho người phụ nữ ?
Theo sử gia Arnold Toynbee thì văn minh nhân loại đại thể được
phân ra làm hai loại hình khác nhau : nền văn minh du mục thuộc
các dân sống ở về phía Bắc bắc bán cầu và nền văn minh nông
nghiệp là của dân sống về phía Nam. Dân du mục không sống định
cư nên có xu hướng chiếm đoạt. Trong nền văn minh này, người phụ
nữ không thoát khỏi thân phận của kẻ bị chiếm đoạt, từ đó trở
thành nguồn gốc gây ra thảm trạng phụ nữ mà ngày nay chúng ta
còn chứng kiến. Trái lại, trong nền văn minh nông nghiệp, con
người sống định cư nên nặng tinh thần xây dựng, ổn định và phát
triển.
Trong nếp sống nông nghiệp, cái nhà, cái bếp là nguồn gốc của sự
ổn định và êm ấm. Khi nói đến cái nhà, cái bếp thì phải nói đến
người phụ nữ và vai trò người phụ nữ trong nhà.
Cốt lõi của nền văn minh nông nghiệp là trọng tình cảm, tức
trọng sự êm ấm bền vững, tức trọng phụ nữ. Nhưng ngày nay do sự
biến chuyển mạnh mẽ của xã hội mà chỉ còn lại nền văn minh gốc
du mục hoặc gốc nông nghiệp mà thôi.
Khi tìm hiểu về người phụ nữ Việt Nam, người ta thường không thể
quên mối liên hệ với phụ nữ Tàu, bởi văn hóa Việt Nam cũng như
các nước khác trong vùng như Nhật, Đại Hàn, đều chịu ảnh hưởng
của văn hóa Tàu. Tùy mức độ ảnh hưởng văn hóa Tàu mà địa vị của
người phụ nữ ở các quốc gia này sẽ khác hơn địa vị người phụ nữ
Tàu nhiều hay ít. Ngoài ra, còn những khía cạnh đặc thù của văn
hóa và lịch sử của mỗi dân tộc cũng đã góp phần quan trọng tạo
nên những sự khác biệt so với Tàu về thân phận người phụ nữ.
Trường hợp Việt Nam thể hiện rất rõ đặc tính này.
1
- Phụ nữ Tàu, Nhựt và Triều Tiên :
Các biến đổi kinh tế và xã hội là những yếu tố cơ bản làm biến
đổi địa vị người phụ nữ Tàu. Gia đình mẫu hệ bị gia đình phụ hệ
thay thế tiếp theo. Cũng giống như ở phương Tây dưới ảnh hưởng
của Do Thái giáo và Ki-Tô giáo, ở Tàu, Nho giáo thừa nhận và hệ
thống hóa các quan niệm phụ quyền. Kiểu mẫu xã hội mới này hiện
rõ nét từ đời Tống (thế kỷ 10 - 13), tuy trước đó gia đình phụ
hệ đã thực sự xuất hiện ở Tàu, nhưng hãy còn là hiện tượng của
thực tế xã hội, cho đến đời Đường (thế kỷ 7-10), mới có luật
pháp ban hành qui định quyền ly dị dành cho người đàn ông mà
thiệt thòi lại nghiêng về phía người đàn bà. Đạo luật này sau đó
được đem áp dụng ở Triều Tiên và Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, đạo
luật về ly dị có sửa đổi làm giảm sự thiệt thòi cho phụ nữ. Ở
Tàu, Nho giáo nhấn mạnh đến đạo Hiếu và được diễn đạt qua việc
thờ cúng ông bà mà theo đó chỉ có con trai mới có quyền nắm giữ
truyền thống này, "bởi con gái không được quyền dâng lễ vật cúng
tổ tiên, không thể làm vinh quang cho tên tuổi của dòng họ và
cũng không được phép giữ mãi suốt đời cái họ của mình". Nữ sanh
ngoại tộc !
Ở Nhật, sau thế kỷ thứ 8, người phụ nữ Nhật bị luật lệ của vương
quyền ngăn cấm các tập tục cũ như đời sống gia đình tập trung
chung quanh người mẹ và người mẹ trông coi, nuôi dưỡng con cái.
Bắt đầu từ thế kỷ Xl, phụ nữ được cưới đưa về sống trong gia
đình chồng. Về sau, khi các nhà quân sự thống nhứt nhiều phần
lãnh thổ, các Samurai chiếm địa vị ưu thế trong xã hội thì người
phụ nữ Nhựt bị mất quyền sở hữu tài sản trong gia đình Samurai.
Vào cuối thế kỷ 17, xã hội phụ hệ ở Nhật đã được cố định hóa
thành một trật tự, trong đó các cuộc hôn nhân được xếp đặt và
chỉ có người chồng mới có quyền đề xuất ly hôn. Đến thế kỷ 19,
do ảnh hưởng của đạo luật quy định quyền thừa kế dành cho người
con trai trưởng mà địa vị của người phụ nữ lại sa sút thêm nữa,
so với địa vị người phụ nữ tàu đương
thời.
Cũng như ở Tàu và Nhật, xã hội Triều Tiên vào cổ thời cũng theo
mẫu hệ ; ít nhứt đến cuối thế kỷ thứ 7, chế độ mẫu hệ hãy còn
ghi nhận được trong các gia đình của vua chúa. Sau đó Triều Tiên
chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ Tàu du nhập vào, và mạnh mẽ nhất
là ảnh hưởng của Tống nho đến từ thế kỷ thứ 13. Phải chăng vì vị
trí địa lý mà Triều Tiên đã chịu ảnh hưởng nặng nề và gần như
trọn vẹn của Tống nho ?
Ảnh hưởng của Tống nho cho ta thấy quan niệm về địa vị người phụ
nữ Triều Tiên được đưa vào sách giáo khoa hồi thế kỷ thứ 19 như
sau :"Người chồng phải thể hiện phẩm cách, và người vợ phải thể
hiện sự vâng phục; có như vậy thì gia đình mới được cai quản
tốt.".(Sách khai tâm cho tuổi trẻ Triều Tiên - thế kỷ 19).
2 - Người phụ nữ Việt Nam truyền thống :
Cũng như các nước trong vùng và cả phương Tây, trước khi chuyển
sang chế độ phụ hệ, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ mẫu hệ. Bốn
đền thờ lâu đời nhứt ở Việt Nam xuất hiện từ thế kỷ thứ nhứt sau
Công nguyên, đó là đền thờ bốn người phụ nữ : Bà Dâu, Bà Đậu, Bà
Giàn, Bà Tương. Ngày nay, nếu kiểm tra lại chúng ta sẽ thấy số
đền, chùa, am, miễu dành thờ phụ nữ (nữ thần) hãy còn chiếm con
số cao hơn số đền thờ nam thần. Điều này cho thấy Việt Nam theo
chế độ phụ hệ nhưng không giống với phương Tây và các nước trong
vùng về mặt văn hóa xã hội.
Ảnh hưởng văn hóa Tàu do sự đô hộ của Tàu kéo dài hàng ngàn năm,
các định chế và triết lý phụ quyền của Tàu lẽ dĩ nhiên đã được
đem thiết lập ở Việt Nam. Tuy nhiên, khác với kiểu mẫu Tàu, ở
Việt Nam vào thế kỷ thứ 13, thời Tống nho cực thịnh, một thứ
« chế độ quan chức » dành cho phụ nữ được thừa nhận. Các phụ nữ
như nhà giáo Ngô Chi Lan, Đoàn thị Điểm, đã lập ra trường học,
và môn sinh của các bà đã thi đậu, trở thành quan chức cao cấp
trong triều đình. Trở ngược thời gian xa hơn nữa, dưới thời nhà
Lý, các công chúa nắm giữ tài chánh triều đình. Mà nắm tài chánh
là tham gia chánh sự, nắm giữ một phần quyền lực thật sự.
Điều quan trọng và nổi bật vì không giống phụ nữ Tàu, người phụ
nữ Việt Nam tiếp tục hoạt động trên cả lãnh vực sản xuất lẫn
trong gia đình : cấy gặt, trồng hoa màu, quay tơ, dệt vải, và
buôn bán nhỏ.
Một học giả Hoa kỳ đã nhận xét: "vai trò của phụ nữ trong xã hội
Việt Nam truyền thống được xác định bởi một sự pha trộn phức tạp
mà hấp dẫn giữa đạo đức Nho giáo, các đặc thù văn hóa dân tộc
mang theo dấu vết của chế độ mẫu hệ, và các đạo luật chánh thống
đầy mâu thuẫn"...(William S. Turley, Phụ nữ trong cuộc cách mạng
cộng sản ở Việt Nam, nghiên cứu Á Châu số 12, 1972, Hoa kỳ).
Thật thế, trong luật pháp và đời sống gia đình, người phụ nữ
Việt Nam đều giữ được địa vị rất cao. Ở thế kỷ thứ 17 và 18,
người con gái trong gia đình được quyền thừa kế bình đẳng với
con trai. Trái lại người chồng không có quyền thừa kế nếu vợ
chết đi không để lại con trai nối dõi.
Địa vị người phụ nữ Việt Nam càng nổi bật nếu đưa cái nhìn quan
sát so sánh gia đình Tàu với gia đình Việt Nam : "Nếu như gia
đình Trung hoa mang nét đặc trưng bởi quyền lực của người cha
trùm lên tất cả các thành viên gia đình thì gia đình Việt Nam
lại khác, người vợ hầu như bình đẳng với chồng và các thành viên
khác cũng khẳng định tư cách của mình". (Yu Insum, luật pháp và
gia đình ở Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Hoa kỳ, 1987).
Địa vị của người phụ nữ Việt Nam được qui định rõ qua bộ luật cổ
của Việt Nam đời nhà Lê " Quốc triều Hình luật " (thế kỷ 17 -
18) và được cải thiện qua bộ Hoàng Việt luật lệ dưới thời nhà
Nguyễn (thế kỷ 19 - 20) vì bộ luật này ảnh hưởng quá nặng theo
luật nhà Thanh. Trên thực tế, một số điều khoản của Hoàng Việt
luật lệ không phù hợp với tập quán Việt Nam đã không được áp
dụng, nên mới có câu " luật vua thua lệ làng ".
Đối xử với người phụ nữ, luật nhà Lê cho phép người chồng đánh
vợ, nhưng việc này phải không gây ra thương tích. Người vợ thứ
do vợ cả cưới cho không có quyền vượt lên thay thế địa vị của vợ
cả, điều này khác hẳn với luật pháp Tàu. Quyền lợi và địa vị của
người vợ cả được luật pháp bảo vệ.
Đặc tính của văn hóa Việt Nam do gốc nông nghiệp nên trọng phụ
nữ, dẫn đến thể chế hóa địa vị của người phụ nữ, như người phụ
nữ mang tội gian dâm thì chỉ bị lưu đày biệt xứ, trong lúc đó,
người đàn ông bị tội hình nặng hơn. Người chồng thiếu bổn phận
đối với vợ trong vòng 6 tháng có thể bị vợ đề xuất xin ly dị.
Người vợ sai phạm bị người chồng ly dị. Nhưng có những lý do
chánh đáng không cho phép ly dị để bảo vệ người phụ nữ. Con gái
được thừa kế gia sản, có thể được thừa kế hương hỏa nếu như gia
đình không có con trai.
Tuy cho rằng bộ luật nhà Nguyễn ảnh hưởng sâu đậm ở luật nhà
Thanh, nhưng thực tế cho thấy ở xã hội Việt Nam từ thời Lê cho
đến về sau này, địa vị người phụ nữ vẫn được bảo vệ, như quyền
thừa kế, quyền thờ cúng ông bà với tư cách người vợ, người con
gái trong gia đình. Người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn luôn giữ được
quyền bình đẳng đối với nam giới, tuy nhiều khi không được chánh
thức ( Nguyễn ngọc Huy, Quốc triều hình luật, Canada, 1989, Tạ
văn Tài, Tạp chí nghiên cứu Á Châu, Hoa kỳ, 1981 và G. Grivaz,
aspects sociaux et économiques du sentiment religieux en Annam,
Paris, 1942).
3- Người phụ nữ giải phóng :
Khi người cộng sản đến, người phụ nữ Việt Nam được người cộng
sản đưa lên hàng " phụ nữ giải phóng " và ngày 8 - 3, ngày quốc
tế phụ nữ, được dùng làm ngày lễ đề cao địa vị người phụ nữ
không còn bị " kềm kẹp" trong khuôn khổ gia đình nữa.
Thoạt tiên, nhà nữ cách mạng Đức, Clara Zetkin, cùng với Rosa
Luxembourg, trong Quốc tế Phụ nữ xã hội đề nghị, nhân một Hội
nghị tổ chức tại Copenhague (Đan mạch) năm 1910, thiết lập một
ngày hàng năm để tranh đấu cho nữ quyền. Ngày biểu tình đầu tiên
xảy ra ở Đức, ở Áo, ở Đan Mạch và ở Thụy Sĩ vào tháng 3 năm
1911. Đến năm 1921, Lénine lấy ngày này kỷ niệm cuộc biểu tình
thợ thuyền ở Saint - Petersbourg vào năm 1917. Ở Pháp, năm 1982,
ngày 8 - 3 được chánh thức ban hành là Ngày Phụ nữ. Và
ngày nay, ngày 8 - 3 không phải là sản phẩm cộng sản mà là ngày
quốc tế phụ nữ phổ quát được LHQ chánh thức công bố năm 1977.
Khi người cộng sản hô hào "phụ nữ bình quyền, phụ nữ giải
phóng", kỳ thật họ làm điều này là để bốc người phụ nữ ra khỏi
gia đình, ném người phụ nữ vào chiến trường như những công nhân
tải đạn, tải thương binh hoặc đưa vào nông trường, lâm trường,
thay thế đàn ông trong các công việc sản xuất nặng nhọc, vì đàn
ông bị chiến trường cướp hết.
Dưới chế độ cộng sản, "phụ nữ bình quyền", "phụ nữ giải phóng"
là phụ nữ phải tỏ ra có đủ sức gánh vác những công việc nặng
nhọc của đàn ông. Khi người phụ nữ được " bình quyền, được giải
phóng " thì họ đã hoàn toàn bị biến đổi nhan sắc, mất đi vóc
dáng dịu dàng, tha thướt cố hữu của người phụ nữ.
Thậm chí, vì quá bị "giải phóng" mà nhiều người phụ nữ ở lâm
trường và nông trường bị cướp mất đi bản chất phụ nữ. Người phụ
nữ "giải phóng" không còn biết e thẹn, biết giữ những nụ cười
kín đáo mà duyên dáng. Nhiều khi cả nhóm cùng cười rũ rượi hoặc
cùng khóc ầm lên. Nhiều phụ nữ đầu tóc còi cọc, thân thể phụ nữ
bỗng bị biến đổi như muốn trở thành đàn ông. (Mai
Thu Vân,
des voix, un peuple, Paris - Dương Thu Hương,
Bên kia bờ ảo vọng, Hoa kỳ)
Dân số Việt Nam hơn 80 triệu, phụ nữ chiếm một tỷ lệ cao hơn nam
giới, (90 - 94 nam trên 100 nữ). Trong số hơn 15 triệu phụ nữ
lập gia đình, có 18, 24% ly hôn và phải sống độc thân vì khó tái
lập gia đình trở lại.
Trong tổng số tuổi trẻ từ 15 tuổi trở lên chưa lập gia đình, nữ
giới chiếm 31, 30%, còn nam giới chiếm 37, 4%, số nữ giới có gia
đình thấp hơn nam giới (56% nữ, 59, 7% nam).
Về học vấn, phụ nữ biết chữ chiếm 84% (nam chiếm 93%). Phụ nữ có
trình độ trung cấp chiếm 56%, đại học và cao đẳng : 37%, tiến
sĩ, phó tiến sĩ : 7%. Phụ nữ tham chánh : 20% (QH : 25% phụ nữ,
đứng thứ 3 trong khu vực, 2007) ; có 35% phụ nữ nắm giữ chức vụ
trong Hội đồng nhân dân các cấp. Trong Ban Chấp Hành Trung ương
đảng cộng sản, chỉ có 8% là phụ nữ. Ở xí nghiệp có 17 nữ Tổng
Giám đốc và Phó Tổng Giám đốc.
Về nghề nghiệp, phụ nữ chiếm 72, 8% trong nông lâm nghiệp, 2, 7%
trong văn phòng, 40, 4% trong nhành khoa học, giáo dục và y tế.
Ngoài ra, ở các ngành khác, phụ nữ chiếm từ 0, 8% đến 4, 7%.
4 - Phụ nữ và gia đình ở Việt Nam ngày nay :
Gia đình Việt Nam không giống gia đình ở Tây phương chỉ gồm vợ
chồng và con cái, thêm con chó. Gia đình Việt Nam bao gồm chững
người có liên hệ huyết thống như ông bà, cha mẹ, con cháu và cả
những người được nuôi dưỡng mà không có liên hệ huyết thống. Ở
Việt Nam cộng sản, gia đình còn có Hộ kèm theo bên cạnh, như Hộ
gia đình, Hộ tập thể... để chỉ một đơn vị gia cư trong mối quan
hệ với chánh quyền (công an hộ khẩu, khu vực), không cần thiết
phải đặc vấn đề huyết thống.
Theo cuộc kiểm tra dân số do Hà nội thực hiện năm 1989, số gia
đình tăng lên 3, 04% sau 10 năm. Gia đình gồm 4 người năm 1979
chiếm 15%, 10 năm sau tăng lên 18, 9%.
Những "hộ tập thể" gần như biến mất nhường chỗ cho những gia
đình theo liên hệ huyết thống. Con cái tách ra ở riêng nhưng vẫn
giữ quan hệ thân thiết với ông bà, cha mẹ, họ hàng và vẫn duy
trì sự giúp đỡ, tương trợ trong gia đình.
Chánh sách xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó những
hộ tập thể thay thế gia đình truyền thống vì cá nhân bị bốc rời
khỏi mối liên hệ họ hàng để được chế độ quản lý, ngày nay đã
hoàn toàn thất bại thảm hại.
Trong đời sống gia đình, người phụ nữ làm việc ở sở, ở xí nghiệp
bằng trách nhiệm người chồng. Ở nông thôn, người phụ nữ làm việc
nhiều hơn đàn ông. Phần nội trợ, lúc nào người phụ nữ cũng đảm
nhiệm nhiều hơn đàn ông.
Khi phải quyết định một vấn đề quan trọng hay quản lý một công
việc lớn thì thường ủy nhiệm cho đàn ông, kể cả vấn đề muốn sanh
con nhiều hay ít.!
(Trong việc chia xẻ trách nhiệm gia đình với chồng, cho đến ngày
nay, người đàn bà Pháp vẫn lãnh 80% những công việc "khổ sở" như
đi chợ, làm bếp, giặt giũ, săn sóc con cái. Thì giờ dành riêng
cho bản thân, người phụ nữ trong gia đình chiếm được 2 giờ 37
phút/ngày, trong lúc ấy người đàn ông được hưởng 3 giờ 51
phút/ngày. Riêng thì giờ dành cho con cái, người đàn bà dành số
thì giờ gấp đôi đối với ông chồng ).
Gia đình Việt Nam từ ngàn xưa giữ vị trí quan trọng trong đời
sống của mỗi cá nhân cũng như trong sự phát triển xã hội. Gia
đình luôn luôn là nơi tạo ra hạnh phúc cho mỗi người bởi con
người tìm thấy trong gia đình sự đùm bọc về vật chất và tinh
thần, thụ hưởng sự giáo dục, những niềm vui của cuộc sống, sự an
ủi khi khó khăn, sự phụng dưỡng lúc tuổi già yếu.
Gia đình đảm nhiệm vai trò cân bằng về tâm lý và tình cảm, hạnh
phúc cho mỗi cá nhân.
Xã hội không thể thay thế vai trò của gia đình, mặc dù với những
tiến bộ tân kỳ của khoa học kỹ thuật nên tham vọng tách con
người ra khỏi gia đình, biến thành những cá nhân đơn lẻ để tiêu
diệt gia đình vốn là nền tảng xã hội là điều không bao giờ thực
hiện được.
Trong gia đình Việt Nam, vai trò người phụ nữ là quan trọng, mặc
dù người phụ nữ không làm ra của cải đi nữa, chỉ lo việc nội
trợ, nuôi dạy con cái, vì "của chồng công vợ".
Khi đặt vấn đề « quyền » như nữ quyền theo quan niệm "phụ nữ
giải phóng" thì sự quân bình trong đời sống gia đình bắt đầu
chao đảo. Người phụ nữ Việt Nam có chấp nhận trách nhiệm nặng nề
trong gia đình hơn chồng, nhưng được hiểu đó là thiên chức cao
quí làm vợ, làm mẹ. Về mặt thể chế, thiên chức phụ nữ ở Việt Nam
đã sớm được luật pháp bảo vệ tốt hơn ở nhiều quốc gia khác trên
thế giới.
Kết luận
Hội nghị quốc tế về phụ nữ đã nhóm họp đến lần thứ tư. Nhiều đạo
luật bảo vệ nữ quyền đã ban hành, những bản tuyên bố kêu gọi tôn
trọng nữ quyền đã đưa ra, nhưng người phụ nữ trên khắp thế giới
vẫn còn là nạn nhân thảm hại của những vụ bạc đãi, bạo hành, tử
vong oan ức,...
Địa vị người phụ nữ Việt Nam trong luật pháp, trong đời sống
kinh tế, xã hội và gia đình từ xa xưa cho thấy họ không cần phải
đòi bình quyền, đòi được giải phóng. Nữ quyền đã được gắn liền
với những quyền tự nhiên của con người. Đó là nếp sống trong
truyền thống văn hóa Việt Nam.
Nhờ truyền thống tốt đẹp này mà biết bao người đàn bà Việt Nam
đã giúp chồng thành đạt, nuôi dạy con cái trở thành hiển vinh,
đóng góp vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay.
Nên nhớ người phụ nữ Việt Nam hiền lành lắm, không bao giờ dám
khơi động một cuộc xung đột, dù nhỏ đi nữa. Trái lại, người phụ
nữ Việt Nam chỉ ra sức giải quyết những xung đột. Bởi đó, người
phụ nữ Việt Nam không cần đòi bình quyền và giải phóng mà chỉ
mong muốn mọi người hãy chịu lắng nghe tiếng nói của những tấm
lòng kiên trì và can đảm, của những tấm lòng vị tha và hy sinh
của người phụ nữ để những hắc ám của thù hận và ngoan cố sớm bị
thổi tan đi và để cho những nỗi thống khổ và tuyệt vọng triền
miên được xoa dịu, trong đó có thân phận người phụ nữ ở nhiều
nơi trên thế giới.
Những đức tính hiền hòa, nhân ái của người phụ nữ được Thánh
Cam-Địa (Ghandi) biểu dương và cực lực bênh vực : «Gọi
đàn bà là phái yếu là một điều phỉ báng, đó là một sự bất công
của người đàn ông đối với người đàn bà. Nếu người ta hiểu sức
mạnh là sức mạnh thô bạo thì chắc chắn người đàn ông hơn hẳn
người đàn bà.. Nếu bất bạo động là điều luật của nhân loại, thì
tương lai sẽ thuộc về người đàn bà. Ai có thể kêu
gọi đến tình cảm của người đàn ông có hiệu lực hơn hết, nếu
không phải là người đàn bà?»
Nguyễn văn Trần
Ghi chú :
- Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều Hình luật, Canada, 1989.
- Simone de Beauvoir, le deuxième sexe II, Paris, 2001.
- Femmes et fières de l’être, Sabine BosiôValici et Michelle
Zancarini - Fournel, Paris, 2001.
- Atlas, des femmes dans le monde, Paris, 1998.
- Elsa Dorlin, l’évidence de l’égalité des sexes, Paris 2000.
- Gia đình và Địa vị Người Phụ Nữ trong xã hội, Hànội, 1995.
- Le Monde, 10/2/2001 và 8/3/2001, 26/10/2009.
* Bài này ghi lại bài nói chuyện tại Ngày Gặp gở Văn Hóa kỳ II
do Trung Tâm
Văn
Hóa Nguyễn Trường Tộ tổ chức tại Bruxelles, Bỉ, tháng 08/2009.
** Cáo lỗi không nhớ tác giả.
|