Quyền biểu tình của công dân
Kẻ đúng thì rụt rè, do dự, vì e là phạm luật.
Người sai lại năng nổ, thẳng tay, bởi tin rằng có lý.
Biểu tình là
một hoạt động hợp hiến và hết sức thông thường ở xã hội văn minh.
Nhưng đến nay, biểu tình (ngoài sắp đặt của cơ quan Nhà nước)
vẫn còn là một chuyện tương đối xa lạ ở Việt Nam, thậm chí như một
điều „phạm húy“. Biểu tình bị ngăn cản, dù có diễn ra thì
người ta vẫn quanh co, không dám gọi đúng tên. Đa số người dân nhìn
nhận quyền biểu tình như một thứ xa xỉ phẩm, không liên quan
đến cuộc sống của mình, thậm chí còn nhìn nó như một miếng mồi nhử
nguy hiểm: Ừ thì Hiến pháp cho phép đấy, nhưng cứ thử động vào mà
xem... Vốn dĩ thuộc phạm trù đối nội, quyền biểu tình được
nêu trong Hiến pháp trên thực tế chỉ còn để đối ngoại.
Cản trở đối với quyền biểu tình của công dân không chỉ xuất
phát từ ý muốn được „yên ổn“ của những người cầm quyền, mà còn bị
ảnh hưởng nhiều bởi sự nhầm lẫn về mặt lô-gíc: Cả hai phía
đều coi việc chưa có Luật biểu tình chính là nguyên nhân
khiến quyền biểu tình chưa được hay chưa thể thực thi.
Phía người dân tưởng là khi chưa có Luật biểu tình thì không
được biểu tình, nên đa số những người muốn bày tỏ chính kiến... vẫn
im lặng. Ngay cả những người đã can đảm xuống đường vẫn cảm thấy
chưa yên tâm, lo là hành động của mình có gì đó không ổn về mặt pháp
luật, nên mới đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình.
Phía chính quyền thì coi các cuộc biểu tình không do họ hoặc các cơ
quan Nhà nước tổ chức là bất hợp pháp, là cố tình gây rối, thậm chí
là do các thế lực thù địch tổ chức hoặc kích động, nên nếu có biểu
tình thì chính quyền có quyền giải tán, có quyền bắt bớ... Có lẽ
cũng do tin rằng chưa có Luật biểu tình thì không được biểu
tình, nên một số người muốn trì hoãn việc ban hành Luật biểu tình,
vì nếu có luật thì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa, vẫn còn
lại những quyền tự do tối thiểu, và không phải ai cũng muốn chấp
nhận những quyền tối thiểu ấy của người dân.
Câu hỏi đặt ra là: Nên hiểu quyền biểu tình và mối quan hệ của
nó với Luật biểu tình như thế nào cho đúng?
Quyền biểu tình trong Hiến pháp hiện hành
Cơ sở pháp lý để đánh giá về tính hợp pháp của hoạt động biểu
tình là Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Điều 69
của Hiến pháp hiện hành quy định:
„Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí;
có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu
tình theo quy định của pháp luật.“
Mệnh đề „theo quy định của pháp luật“ khiến người dân lúng
túng, do dự khi thực hiện quyền biểu tình, và bộ máy chính quyền dựa
vào đó để phủ nhận quyền biểu tình của công dân trên thực tế. Thật
ra, từ „pháp luật“ xuất hiện 60 lần trong Hiến pháp 1992,
nhiều khi chỉ là một phạm trù chung chung, không ám chỉ một luật cụ
thể nào. Phải hiểu „theo quy định của pháp luật“ hay „trong
khuôn khổ pháp luật“ là tuân theo những quy định thuộc về pháp
luật – nếu đã có. Chưa có luật tương ứng thì có nghĩa
là chưa có hạn chế, bởi không thể dùng cái chưa có để hạn
chế thực tại. Sau khi Hiến pháp có hiệu lực, thì còn thiếu rất nhiều
luật, và đến bây giờ vẫn còn thiếu, nhưng mọi tư duy lành mạnh đều
hiểu rằng: Không thể bắt cuộc sống dừng lại, để đợi đến khi cơ
quan lập pháp ban hành đủ luật.
Hiến pháp 1992 viết công dân có quyền biểu tình „theo quy định
của pháp luật“, chứ không đòi hỏi cụ thể là „theo quy định
của Luật biểu tình“. Giả sử, nếu Hiến pháp quy định là
công dân chỉ có quyền biểu tình theo quy định của Luật biểu tình,
thì công dân có quyền chất vấn và phê phán Quốc hội: Tại sao mấy
chục năm rồi mà vẫn chưa ban hành Luật biểu tình? Lúc đó nhân
dân nhắc nhở và đòi hỏi Quốc hội phải ban hành Luật biểu tình,
chứ không phải chỉ đề nghị, kêu gọi, hay xin xỏ, vì:
„Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và
Hội đồng nhân dân, là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân.“
(Điều 6, Hiến pháp 1992).
„Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội,...“
(Điều 53, Hiến pháp 1992).
Như vậy, khi không (hoặc chưa) có luật nào quy định cụ thể hơn về
việc biểu tình, thì có nghĩa là pháp luật không (hoặc chưa) có
hạn chế nào cả, và công dân hoàn toàn có quyền biểu tình, như
Hiến pháp cho phép.
Quyền hạn và trách nhiệm của
các cơ quan Nhà nước đối với quyền
biểu tình
Nếu Quốc hội muốn định hướng hay hạn chế hoạt động biểu tình
của công dân trong một khuôn khổ nào đó, thì phải ban hành luật
tương ứng. Nếu thấy cần kíp phải có luật để điều tiết hoạt động biểu
tình, thì chính Quốc hội và các cơ quan giúp việc phải khẩn trương,
chứ dân không phải sốt ruột xin Quốc hội ban hành. Cơ quan quản lý
Nhà nước mới phải vội, chứ dân không cần vội. Việc một số công
dân đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình là một yêu cầu hoàn
toàn chính đáng, nhưng điều đó lại góp phần làm cho người dân tiếp
tục hiểu sai về quyền cơ bản của công dân, và làm cho những người
thuộc cơ quan hành chính Nhà nước thêm ngộ nhận về quyền hạn của họ.
Nếu Chính phủ muốn quản lý hoạt động biểu tình của công dân
theo một hướng nào đó thì Chính phủ phải soạn thảo và trình dự án
luật (Điều 87, Hiến pháp 1992), để Quốc hội xem xét và ban hành
luật, chứ Chính phủ không thể tự tiện đưa ra những quy định
hay triển khai những hành động can thiệp trái với Hiến pháp.
Hiến pháp 1992 đã quy định rõ:
„Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp“
(Điều 83, Hiến pháp 1992).
và Chính phủ là:
„cơ quan chấp hành của Quốc hội“ (Điều
109, Hiến pháp 1992). Điều 115 của Hiến pháp 1992 cho phép
„Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết
định, chỉ thị“
nhưng phải:
„Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ
tịch nước.“
Trong tất cả 11 khoản của Điều 112, quy định về nhiệm vụ và quyền
hạn của Chính chủ, và cả 6 khoản của Điều 114, quy định về nhiệm vụ
và quyền hạn của Thủ tướng Chính chủ, Hiến pháp 1992 không có bất
cứ khoản nào cho phép Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ ban hành văn
bản pháp quy để hạn chế hay can thiệp vào quyền tự do của công dân
được Hiến pháp đảm bảo.
Trong Luật
Tổ chức Chính phủ do Quốc hội khóa X thông qua ngày 25 tháng
12 năm 2001, Điều 8, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính
phủ, được viết lại gần như nguyên văn Điều 112 của Hiến pháp 1992.
Điều 20, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ,
là cụ thể hóa Điều 114 của Hiến pháp 1992. Quyền tự do của công
dân được nhắc 3 lần trong Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó chỉ
khẳng định trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo vệ quyền của
công dân và tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền
của mình, cụ thể là:
„Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng
quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình...“
(Điều 8, Khoản 5)
„Quyết định những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và
làm tròn nghĩa vụ của mình...“
(Điều 18, Khoản 3)
„Thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của
công dân...“
(Điều 13, Khoản 4)
Nghĩa là: Luật Tổ chức Chính phủ cũng không cho phép Chính
phủ ban hành văn bản pháp quy để hạn chế quyền tự do của công dân
được Hiến pháp đảm bảo. Tất nhiên là phải như vậy, vì Luật Tổ
chức Chính phủ không thể có những quy định trái với Hiến pháp.
Nghị định của Chính phủ số 38/2005/NĐ-CP,
do nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải ký ngày 18/3/2005, quy định một số
biện pháp đảm bảo trật tự công cộng, không đề cập đến khái niệm „biểu
tình“ được nêu trong Hiến pháp 1992. Ngược lại, khái niệm „tập
trung đông người“ được đề cập (21 lần) trong Nghị định số
38/2005/NĐ-CP không xuất hiện trong Hiến pháp 1992. Nghị định số
38/2005/NĐ-CP cũng không đưa ra định nghĩa hay giải thích về thuật
ngữ „tập trung đông người“, không hề quy ước là „biểu tình“
thuộc phạm trù „tập trung đông người“. Tất nhiên, không thể
tùy ý dùng thuật ngữ „tập trung đông người“ để chỉ hoạt động
„biểu tình“ (cũng giống như không thể dùng thuật ngữ „tập
trung 500 người“ để chỉ phiên họp Quốc hội), vì nếu như thế thì
vừa thiếu tôn trọng công dân (hay thiếu tôn trọng Quốc hội), vừa
thiếu tôn trọng Hiến pháp, bởi không được tùy tiện thay đổi thuật
ngữ pháp lý cơ bản được sử dụng trong Hiến pháp và được dùng phổ
biến trong thông lệ pháp lý trên toàn thế giới. Vì vậy, nếu hợp
hiến, thì Nghị định số 38/2005/NĐ-CP cũng không chi phối quyền
biểu tình của công dân được Hiến pháp đảm bảo.
Điều 50 của Hiến pháp 1992 khẳng định:
„Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định
trong Hiến pháp và luật.“
Khi thực hiện các quyền con người (trong đó có quyền biểu tình),
công dân chỉ phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện
hành. Khi chưa có luật tương ứng thì công dân không phải chấp
hành văn bản pháp quy nào khác ngoài Hiến pháp, bởi công dân chỉ
phải „sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật“ (Điều
31, Hiến pháp 1992). Quyền biểu tình của công dân không phải
chịu chi phối bởi các quy định nào đó, cho dù chúng có thể được đưa
vào luật trong tương lai, lại càng không thể bị cản trở bởi các quy
định tùy tiện của các cấp chính quyền, của bộ máy công an, của tổ
dân phố, hay của một cấp trên chung chung nào đó. Cho dù là ai, to
nhỏ ra sao, nhân danh tổ chức nào, thì họ cũng đều là công dân Việt
Nam và cũng không nằm ngoài phạm vi chi phối của nguyên tắc:
„Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.“
(Điều 52, Hiến pháp 1992)
Không phải bất cứ một quy định phi lý nào được đưa vào luật cũng là
thiêng liêng, bất di – bất dịch. Nếu cóLuật biểu tình thì nó
không thể chứa đựng những quy định trái với Hiến pháp. Nhân dân có
quyền kiến nghị và Quốc hội có trách nhiệm hủy bỏ bất cứ quy định
pháp luật nào trái với Hiến pháp, vì
„Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản
của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.“
(Điều 146, Hiến pháp 1992)
Biểu tình – Quyền hiến định có hiệu lực cùng Hiến pháp hiện hành
Đã đến lúc dân ta (cả dân thường và cả những người đang thuộc bộ máy
quản lý Nhà nước) phải chia tay với lối tư duy sai lầm là „trên“ cho
làm gì thì „dưới“ mới được làm cái ấy, vì đấy là kiểu quan hệ giữa
chủ nô và nô lệ, hoàn toàn trái với bản năng sống chủ động của mọi
loài động vật tự do, trong đó có con người. Dù có muốn, dù có cố,
thì cũng không bao giờ quy định được hết mọi chuyện trên đời. Hơn
nữa, càng có nhiều quy định thì càng có nhiều điều bất hợp lý và
càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa các quy định. Chính vì vậy, người
dân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm và không vi
phạm những chuẩn mực đạo đức thông thường đã được xã hội thừa nhận. Nhà
nước có thể thông qua việc ban hành luật để hạn chế những mặt tiêu
cực, nhưng sẽ không bao giờ khống chế được hoàn toàn. Không thể tiếp
tục luận tội theo kiểu „lợi dụng sơ hở của pháp luật...“ Lập
luận ấy không chỉ sai với thông lệ quốc tế, mà còn hài hước ở chỗ:
Sao không trách phạt những người ăn lương của dân rồi làm ra luật...
sơ hở, mà lại chỉ kết tội người dân áp dụng đúng luật sơ hở?
Căn cứ vào Hiến pháp và các văn bản pháp lý liên quan, với tư duy
lô-gíc, chỉ có thể rút ra kết luận rằng: Quyền biểu tình của
công dân được Hiến pháp hiện hành đảm bảo và có hiệu lực cùng lúc
với Hiến pháp. Cho đến nay, chưa có luật hay văn bản pháp lý hợp
hiến nào hạn chế quyền biểu tình của công dân. Vì vậy, công dân hoàn
toàn có quyền tự do biểu tình, theo đúng tinh thần của Hiến pháp,
không phải đợi đến lúc có Luật biểu tình hay một văn bản tương tự.
Biểu tình là
biện pháp hữu hiệu để nhân dân bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình
và giải tỏa ức chế.Biểu tình cũng là một hình thức hợp lý để
công dân bày tỏ chính kiến, góp phần xây dựng Nhà nước và thúc đẩy
sự tiến bộ của xã hội.
Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước là phải tôn trọng và bảo vệ
công dân thực hiện quyền biểu tình,
phải triệt để tuân theo Điều 12 của Hiến pháp 1992:
„Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và
pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của
công dân đều bị xử lý theo pháp luật.“
Cách ứng xử với quyền biểu tình của công dân phản ánh mức độ
tôn trọng nhân dân, tôn trọng Hiến pháp và trình độ hiểu biết pháp
luật. Nó cũng thể hiện bản lĩnh lãnh đạo, mức tự tin vào sự trong
sạch và chính nghĩa của bản thân. Một chính quyền vì dân, chỉ làm
chuyện đúng, chắc chắn sẽ được đa số nhân dân tin yêu và bảo vệ,
không việc gì phải sợ biểu tình. Nếu đi ngược lại lợi ích của
nhân dân và dân tộc, làm những chuyện sai trái, thì không bạo lực
nào có thể che chở vĩnh viễn.
Nếu thực sự cầu thị và muốn làm tròn bổn phận, lãnh đạo phải biết
tận dụng hoạt động biểu tình như một chiếc cầu nối với nhân
dân, làm nguồn cung cấp thông tin thực tế từ cơ sở, vốn dĩ hay bị
bưng bít bởi bộ máy quản lý cấp dưới. Biểu tình là một phương
tiện đắc lực để khắc phục tệ quan liêu – căn bệnh cố hữu của bộ máy
chính quyền.
Chẳng có lý do chính đáng nào có thể biện hộ cho việc xâm phạm quyền
biểu tình của công dân. Không thể cấm dân lên tiếng nhằm che dấu
sự yếu kém. Không thể mượn cớ ổn định mà cản trở sự phát triển.
Không được nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng.
Xương máu của hàng triệu người Việt đã đổ xuống vì độc lập và tự do.
Độc lập dân tộc chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với tự do của nhân dân.
Nếu dân không có tự do thì chính quyền mang quốc tịch nào cũng vậy.
Do đó, muốn bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ, thì phải tôn
trọng các quyền tự do của nhân dân, trong đó có quyền biểu tình. Không
thể khác!
Phụ lục
(Dành
riêng cho những người kiên định...)
Nếu quý vị nào vẫn cảm thấy chưa đủ thuyết phục và vẫn
kiên định lập trường cho rằng công dân phải đợi đến khi có Luật
biểu tình mới được biểu tình, thì xin dành riêng đoạn tiếp theo
để quý vị suy ngẫm.
Hiến pháp 1992 có năm lần nhắc đến từ „Đảng“, trong đó
có ba lần ở „Lời nói đầu“, hai lần đề cập đến lịch sử và công
lao của Đảng CSVN, lần thứ ba trong câu:
„Hiến pháp này... thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.“
Hai lần còn lại là ở Điều 4, nguyên văn như sau:
„Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác -
Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.“
Như vậy, mặc dù Hiến pháp 1992 khẳng định „Mọi tổ chức của Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật“, nhưng trong
toàn bộ văn bản Hiến pháp không có quy định cụ thể nào về khuôn
khổmà Đảng CSVN được phép hoạt động, và cho đến nay vẫn chưa có
„Luật về Đảng“ (hay tương tự) để quy định về quyền hạn, trách
nhiệm, phạm vi và hình thức hoạt động của Đảng, cũng như hình thức
xử lý khi tổ chức Đảng vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Rõ ràng, xét
về lô-gíc, tính hợp pháp của việc „Công dân... biểu tình theo
quy định của pháp luật“ khi chưa có Luật biểu tình không
hề yếu hơn so với tính hợp pháp của việc „Mọi tổ chức của Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật“ khi chưa
có„Luật về Đảng“. Vậy thì quý vị có cho là Đảng
CSVN phải... đợi đến khi có „Luật về Đảng“ hay không?
Nếu ý vừa rồi vẫn chưa đủ, thì xin quý vị lưu ý thêm:
Hiến pháp 1992 không đề cập đến chuyện ăn, chuyện ngủ... Việt
Nam cũng không có luật về ăn, ngủ... Vậy mà hàng ngày 90
triệu người Việt vẫn ăn, vẫn ngủ..., dù biết là phải „sống...
theo Hiến pháp và pháp luật“ (Điều 31, Hiến pháp 1992). Phải
chăng, quý vị cũng coi đấy là hành vi cố tình vi phạm
kỷ cương, coi thường phép nước? Vấn đề này có vẻ còn nghiêm trọng
hơn cả chuyện biểu tình, vì quyền biểu tình của công
dân còn được Hiến pháp ghi nhận đích danh. Vậy thì quý vị có
định đòi hỏi mọi người cũng phải nhịn ăn, nhịn ngủ... cho
đến khi có luật và được luật cho phép, giống như phải nhịn biểu
tình hay không?
9/8/2011
*Bài viết do GS. TSKH Viện sĩ Hoàng Xuân Phú gửi trực tiếp cho
NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!
Giáo sư Tiến sỹ khoa học HOÀNG XUÂN PHÚ (ảnh: Nguyễn
Xuân Diện)
Viện Toán học, thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam,
Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Heidelberg
Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Bavaria
Ông cũng đã từng vài lần tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc tại
Hà Nội, và có một bộ ảnh rất đẹp gửi tặng Nguyễn Xuân Diện - Blog,
tại đây:
Lắng nghe đồng bào tôi nói: Chùm
1- Chùm
2 -
Chùm 3
**Ông là tác giả của loạt bài về Điện Hạt nhân (trong mục Bài quan
trọng của Blog này). Loạt bài này đã được gửi tới 63 đoàn Đại biểu
Quốc hội Khóa XIII:
Bài 1: Mạn
đàm về an toàn điện hạt nhân
Bài 2: Về
huyền thoại điện hạt nhân giá rẻ
Bài 3: Phiêu
lưu điện hạt nhân
Nguồn:
XDHN
|