Tô
phở Berlin
Mùa Giáng Sinh 2007 vừa rồi, khi thăm lại miền
Đông nước Mỹ, tôi đã la cà ăn uống với bạn bè, trước là hàn
huyên đấu láo, sau là có dịp tìm về kỹ niệm của một thời đã qua
bằng cách thưởng thức các món ăn đậm đà hương quê, trong đó có
phở. Ở
Houston,
phở được rao ra rã: “Phở! Phở! Phở ngon đây!” trên làn sóng điện
của một đài phát thanh tiếng Việt. Còn Hoa Thạnh Đốn và vùng phụ
cận, các tiệm phở chỉ quảng cáo ngắn gọn trên báo: thơm ngon, bổ
dưỡng, chính thống, danh bất hư truyền, tinh khiết. Hồi tháng
5/1995 tờ Washington Post cho biết vùng này suýt xảy ra một cuộc
chiến tranh vì tiệm nào cũng xưng mình là vua phở.
Tôi thấy phở vào lời ra chớ không phải chỉ có rượu
vào lời ra mà thôi. Thực khách sau chầu phở đều thích nói chuyện
nước, chuyện non, chuyện văn, chuyện báo. Ở đâu có người mình là
ở đó có mùi phở, như bóng với hình và đều có bàn ra tán vào.
Khởi từ Bắc vô
Nam,
món ăn quốc hồn quốc túy này theo chân người tị nạn đi cùng khắp
thế giới, chinh phục bao tử nhân loại. Nó đi vào văn học từ thời
Tự Lực Văn Đoàn. “Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và
ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu dòn chứ không dai,
chanh, ớt với hành tây đủ cả.”
Câu văn từ hồi tiền chiến của Thạch Lam còn đúng
với tô phở ngày nay hay không? Cuôc sống đổi thay, tâm người
thay đổi thì tô phở cũng phải khác. Xuôi dòng thời gian và địa
lý, nó mọc ra giá sống, ngò gai, húng quế, tương đen, tươmg đỏ.
Bá nhơn bá bao tử. Sáng tạo là bản chất con người. Nội dung tùy
thích nhưng bản sắc tức cái mùi vẫn phải giữ và được xác định
bởi hai chức năng mủi và lưỡi. Phở mà vô hương thì vô duyên tân
mạng. Việt gian có thể lầm chớ phở gian thì biết liền. Mùi phở
rất độc đáo, bất biến, vượt không gian, thời gian, xuyên mọi
biên giới, qua đường thực quản thấm đậm lòng người.
Theo tôi, rất khó mô tả mùi phở. Cái mùi làm thế
giới phải lụy. Dò sông, dò biển dễ dò, chớ bàn về mùi này chữ
nghĩa đâu mà viết? Định nghĩa được Mùì Phở cũng khó như định
nghĩa TìnhYêu; nhất là với một tô phở ngon. Nhà báo Ngô Nhân
Dụng đề nghị người Việt chúng ta cần có một sử gia về Phở Học để
giữ bản quyền. Phở cách đây 100 năm giống và khác Phở bây giờ
như thế nào? Phở di cư từ Bắc vô
Nam
so với Phở Bắc Kỳ cũ vào Nam làm đồn điền cao su và nhất là cuộc di cư vĩ đại của hai giòng Phở
từ hai miền
Nam và Bắc khắp thế giới khác ra làm sao? Còn Phở trong nước và Phở hải
ngoại nữa.
Ngoài ra, phở đã được toàn cầu hóa; đã có nhiều
phó bản: Phở Đại Hàn, Phở Nam Dưong, Phở Thái, Phở Lào, phở
Hmong. Anh bạn người Hmong Mouhfu cho biết họ ăn kèm với lòng
heo nướng.
Trên
đường
University
ở
Saint Paul
Minnesota,
có đôi ba tiệm ăn treo chữ Fawm. Chủ yếu nhằm vào 60 chục ngàn
sắc dân Hmong. Họ ăn theo lối tổng hợp. Trên bàn có thứ gì
tương, ớt, đường, xì dầu, nước mắm, muối, rau, chanh, dấm họ đều
trộn lẫn vào. Khách Mỹ thì phân tích; vắt chanh vaò diã rau,
nhẫn nha thưởng thức từ cọng quế, cọng giá. Hết sạch rau mới tới
phở. Có người đòi cho thêm vaì con tôm và bông cải broccoli.
Lên vút tận trời
Mặt khác, một tô phở ngon có chắc sẽ cho ta một
bửa ăn ngon? Không, cho dù phở được nấu bởi một vua phở chính
thống. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu rất chí lý khi nói, ”Đồ ăn ngon,
giờ ăn không ngon, ăn không ngon. Đồ ăn ngon, giờ ăn ngon, chỗ
ngồi ăn không ngon, ăn không ngon. Đồ ăn ngon, giờ ăn ngon, chỗ
ngồi ăn ngon, người cùng ăn không ngon, ăn không ngon”. Vậy,
để có một bửa phở ngon, ngoài phần cốt lõi có phở hợp khẩu vị,
phở cần phải được ăn hợp lúc, ngồi nơi hợp chỗ và với người hợp
ý thì bửa ăn phở mới cho ta “bay lên vút tận trời”, để thấy lại
“đường lối cũ”. Mấy ai có được một bửa ăn “phê” như vậy?
Dạo về Việt Nam cuối năm 2006, tôi đã ăn phở từ
cái quán lá xập xệ bên đường ở Phù Mỹ, Bình Định, bụi bay mù
trời mỗi khi xe chạy qua; cho đến tiệm ông Clinton ăn ở Saigon
hay ở Hà nội với ve bột ngọt trên bàn. Mùa hè rồi, tôi có dịp ăn
phở ở
Berlin,
Paris, Houston,
Austin trong các tiệm đông khách vào ra cho đến phở nhà bạn bè. Tôi thấy
Phở thiệt là đa dạng. Nơi nào cũng có cái ngon riêng là nhờ có
vị phở. Không ngon thì làm sao lập được cơ nghiệp? Hợp khẩu hay
không còn tùy bụng người. Ăn nhiều nơi, giờ nghĩ lại, tô phở ở
Berlin
là cho tôi nhiều dư vị nhất, “đạt” nhất vì nó thoả được điều mà
tác giả bài Tống Biệt nêu ra ở trên.
Thật vậy, chưa bao giờ tôi thấy tình đồng hương
nơi xứ người thắm thiết và câu nói “Chúng Ta Đi Mang Theo Quê
Hương” lại hiện thưc bằng bửa ăn phở vào lúc nửa đêm về sáng ở
thành phố
Berlin,
thủ đô của Cọng Hòa Liên Bang Đức hồi tháng sáu năm ngoái. Sau
khi xe chạy lạc loanh quanh cả giờ trong thành phố, dù có điện
thoại lưu động của anh Vũ Thư Hiên liên lạc với gia chủ chỉ dẫn
đường hướng, mà vẫn trở lại chốn cũ nhiều lần; chúng tôi đành
phải đứng lóng ngóng ở lề đường, đợi người quen đến đưa về, giữa
lúc cả thành phố còn đang ngủ kỹ trong một đêm hè Âu Châu mát
lạnh.
Hương vị phở thơm phưng phức trong căn phòng ấm
cúng, cùng với tính hiếu khách của anh chị Huỳnh Kim Thiên - Mỹ
Lâm, tuy mới gặp lần đầu nhưng giọng nói thân mật miền Trung xứ
Quảng của anh chồng đã làm tôi tỉnh hằn, hết còn mệt mỏi sau
chuyến hành trình ta ba lô dài trên 1100 cây số, trên chiến xe
minivan chở sáu người của anh Phan Văn Song. Không ngờ, khi tựa
cột đèn chờ, lẩn thẩn nhìn các vì sao trên trời, mong ước bâng
quơ “giá có một tô phở”, đã trở thành sự thật. Ngoài việc tá túc
qua đêm, khách phương xa còn được anh chị chủ nhà đải cho một
nồi phở nóng hổi, đầy đủ gia vị, rau, tương, hành ngò.
Nhất ẩm nhất thực giai do tiền định. Năm 1974 tôi
đã đến Tây Bá Linh theo học một lớp tu nghiệp về báo chí trong
gần bốn tháng; nhớ nước mắm và phở vô kể. Nay thì hai thứ này
chẳng còn lạ gì với thế giới năm châu. Phở gắn bó với lịch sử
cận đại như hai mặt của đồng tiền. Ông Hồ Chí Minh về ngự ở khu
Ba Đình thì phở bị thất truyền vì chế độ bao cấp và sự xuất hiện
của “phở không người lái” kể từ Geneve 54. Nó chỉ được phục
hưng sau ngày bộ đội cụ Hồ tiến vô Sài gòn. Viếng Hà Nội năm
2006, hai lần ăn tôi thấy nó không bằng phở miền
Nam
hay ở hải ngoại. Có lẽ họ quen dùng quá nhiều bột ngọt.
Không hàn gắn được
Ở Sài gòn phở đang ngon lành thì bị xuống cấp.
Hương vị như trước chỉ còn là vang bóng một thời. Nghệ thuật nấu
phở chính thống đã vượt biên rồi. Khi họ Mao toàn thắng hồi sau
thập niên 40, muốn tìm thức ăn ngon của Tàu thì qua Hồng
Kông,
New York… Muốn thưởng thức mùi vị Sài gòn của VNCH thì viếng các khu phố
người Việt ở Mỹ,
Pháp,
Canada. Vì thấy nhiều ông tây bà đầm xì xụp húp phở, các ông thầy bàn bèn
tán loạn lên về nguồn gốc của phở: tây ”pot au feu” hay tàu
“ngầu pín”? May là các sử gia Hà nôi chưa xí phần nói rằng nó có
được là nhờ óc sáng tạo của ông Hồ khi nằm đọc sách Marx trong
hang Pac Pó.
Sau màn phở, anh chị Thiện còn chu đáo pha cho trà
và cà phê nữa. Một bửa ăn đậm đà màu sắc dân tộc! Trên xe đi Ba
Lan có sáu người. Giáo sư Trương Bổn Tài, mới gặp trong chuyến
đi này và tôi ở Mỹ. Còn lại bốn người ở Pháp; anh Phan văn Song
tôi quen năm 2004 khi anh qua Mỹ họp ở vùng Maryland và anh
Nguyễn văn Trần, Vũ Thư Hiên, chị Ca Dao. Chúng tôi nói đủ thứ
đề tài; sôi nổi nhất là nhắc chuyện con cháu họ Lạc đi lạc. Giờ
vui qua mau. Nằm thao thức chờ sáng. Nước Đức chia hai; cũng có
quân Mỹ đóng. Họ thống nhất không tốn một viên đạn. Còn mình
đánh nhau sặc máu. Bom đạn tơi bời. Dân mình thiệt là hết thuốc
chữa.
Để xóa lằn ranh, dân Đức chỉ cần đập bể mấy viên gạch. Ngày
9/11/1989 bức tường Berlin, được
chính quyền Cọng Sản dựng lên 28 năm trước,
nhằm chặn những người muốn chạy bỏ thiên đường của mình, bị giật
sập. Sau đó dân Đông Đức
sống nhờ vào sự trợ giúp hào phóng của kẻ thắng ở phía Tây; đã
được viện trợ đến 2.100 tỷ đô la tính từ năm tái thống nhất. Đã
thế, việc xây dựng lại phần đất phía Ðông vẫn là ưu tiên hàng
đầu, khiến nhiều người dân phía Tây thường nói đùa với nhau rằng
Ðông Ðức là “một gánh nặng không thể chối bỏ được”.
Còn ở Việt
Nam,
miền Bắc là “một gánh nặng không thể chối bỏ được” cho dân thua
trận. “Miền
Nam
là con ở để bọn chủ miền Bắc nắm đầu” hay “Bất cứ thằng dốt nào
vào
Nam
hay từ trong khu chui ra cũng đều làm quan hết. Chúng cướp nhà
của dân để ở, vơ vét của cải dân Nam và chở ra Bắc cho gia đình, họ hàng”. Đó là những đoạn trích trong
X-café VN. Năm 1976 tôi thấy từng đoàn quân xa trên quốc lộ 1,
chở chiến lợi phẩm về Bắc. Ác nhất là xét lý lịch. Rất nhiều mầm
non bị thất học. Thay vì “Người trong một nước phải thương nhau
cùng”, thực dân Cọng Sản lại chủ trương “Người trong một nước đì
nhau tới cùng” hơn cả thời Pháp thuộc.
Nói cuộc chiến là vì “Độc Lập, Thống Nhất, Chống
Mỹ Cưú Nước, Giải phóng miền Nam”, nhưng thực chất họ Hồ chỉ
nhằm đưa cả nước vào quỷ đạo Cọng Sản. Khẩu hiệu đầy tính Việt
gian: “Yêu Nước Là Yêu Xã Hội Chũ Nghiã” từ đó mà ra. Họ xử dụng
phương pháp đấu tranh bằng bạo lực cách mạng, không từ nan bất
cứ phương tiện khủng bố nào để đạt được cứu cánh. Nhà văn Dương
Thu Hương, từng “xẻ dọc Trường Sơn đi cưú nước” hiện sinh sống ở
Pháp gọi “cuộc chiến tranh này là cuộc chiến ngu xuẩn nhất trong
lịch sử dân tộc”. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976, quê
vùng Mũi Cà Mau thì cho rằng nó đã gây ra “những vết thương mãi
mãi không hàn gắn được”.
Con đường tình ái
Hôm sau dậy trễ. Tôi được anh chị chủ nhà cho dằn
bụng với phở. Vậy mới hết sẩy. Sau đó, cả đoàn rời Berlin đi Ba
Lan, dự Họp Mặt Dân Chủ năm 2007, tổ chức tại một địa điểm tĩnh
mịch cạnh bờ hồ cách Varsaw khoảng 40 cây số. Tuy khác nhau
trong xã hội, nhưng chúng tôi đều có một điều chung cùng là
mong muốn Việt
Nam
phồn thịnh, tự do, dân chủ và công bằng. Con lộ dẫn vào thủ đô
xứ cựu Cọng Sản được gọi là con đường tình ái vì có nhiều kiều
nữ vẫy tay xin quá giang. Dọc hai bên có nhiều căn nhà đề bảng
cho thuê ngủ qua đêm. Xe chạy chao đảo, xàng qua, xàng lại thay
vì nhồi xóc.
Suốt 600 cây số đường trừơng không có trạm nghỉ.
Muốn thư giản thì phải chơi trò chun vô bụi. Đàn ông bên này.
Đàn bà bên kia. Hồi năm 2006 tôi đi từ Moscova đến Saint
Peterberg cũng vậy. Đi xa mới biết các tiện ích công cộng cầu
tiêu, cầu tiểu ở Mỹ thoải mái; không mất đồng xu cắc bạc nào. Ở
Âu Châu khá sạch; mỗi lần muốn trút bầu tâm sư thì phải trả
tiền. Nhờ có anh Vũ Thư Hiên từng sống ở Varsaw ba năm nên xe
chạy thẳng đến quán Kantyna ở Quảng Trường Hiến Pháp. Tại quán,
Anh Lê Diễn Đức, một trong những cây bút trụ cốt của Đàn Chim
Việt đã cho chúng tôi thưởng thức các món đặc sản Ba Lan, đặc
biệt là dưa cải, xúc xích thịt heo. Dân Ba Lan uống bia với cái
cốc một lít.
Quá nửa đêm mới về nơi họp mặt nằm giữa một rừng
thông bên cạnh một hồ lớn. Anh Trần Ngọc Thành bị đánh thức để
phân phối chỗ ngủ cho chúng tôi. Ba mươi lăm người từ Hoa kỳ,
Pháp, Đức, Tiệp, Tân Tây Lan đã tham gia tĩnh hội trong ba ngày.
Đây là một dịp kết thân, trao đổi về tiến trình chuyển hóa Việt
Nam từ độc tài sang dân chủ chính thống. Thời gian ngắn nhưng cũng cho
tôi thấy dân Ba Lan hiếu khách và thức ăn Ba Lan không khác gì ở
Pháp lắm. Ngày về
Paris có anh chị Đoàn Viết Hoạt, Trần thị Thức thế chỗ nhà văn Vũ Thư
Hiên ở laị. Tuy còn mang thương tích tai nạn xe cách đó mấy
tháng, Anh Phan văn Song vẫn tiếp tục ôm tay lái vì không ai
trong chúng tôi quen xử dụng xe sang số.
Tôi định ở lại
Berlin
vài ngày rồi đi
Dortmund gặp hai vợ chồng Minh Hằng - Thế Giang, tác giả cuốn Thằng Người Có
Đuôi. Nhưng mưu sự tại nhân, trật sự tại lạc. Xe vào
Berlin
vì trời tối, chạy lộn bậy. Càng tìm điạ chỉ càng lạc dữ. Cả đoàn
quyết định mua cái gì ăn trước khi thẳng về Paris. Đêm hôm khuya khoắc, hàng quán đều đóng. Loanh quanh rồi cũng có
một tiệm còn để đèn. Khi vô toilet, tôi tình cờ nhấn một nút,
vành cầu tiêu tù từ xoay tròn, méo lại. Đồng thời, một bàn chải
nhỏ nhô ra, chùi chỗ ngồi. Lúc đầu tôi tưởng vì ngái ngủ trông
gà hoá quốc. Thử một lần nữa, nhìn kỹ và nhớ là có đọc đâu đó về
loại cầu tiêu tân thời này. Nước Đức văn minh thật.
Ra xa lộ xe phóng ào ào. Âu Châu không có giới hạn
tốc độ. Hai lần đi qua chỉ thấy
Berlin
về đêm khi xe chạy lòng vòng. Kỳ này không có duyên, đành hẹn
dịp khác. Thành phố nhiều cây, có đường dành riêng cho xe đạp.
Tiến sĩ Luật Phan Văn Song, làm tài xế khỏe thiệt. Lái phon phon
đi và về 4,000 cây số mà vẫn tỉnh rụi. Anh còn kể chuyện vui ở
tù Việt Cọng nữa. Đến nhà luật sư Trần Thanh Hiệp thì trời đã
chiều, mới hay anh chị Huỳnh Kim Thiên - Mỹ Lâm tối qua có nấu
một nồi bánh canh giò heo chờ phái đoàn. Hụt ăn, tôi tiếc hùi
hụi. Anh du học trước 75, kỹ sư công nghệ cho hảng Siemen; còn
chị Bác sĩ vượt biên làm việc ở bệnh viện
Berlin.
Hồ Chí Minh và Unesco
Trong chuyến đi đường xa này, tôi được quen anh
Nguyễn văn Trần, một trong những người tham gia vận động để
Unesco tháng 5/1990 quyết định không thi hành tổ chức và không
can dự bất cứ hành động nào để vinh danh Hồ Chí Minh tại trụ sở
Unesco Paris. Sau này hồ sơ về Việt
Nam
của anh bị bác với lời phê “Đơn xin về nước của ông không được
trong nước chấp thuận”. Năm 1987 khi nhà báo Trần văn Ngô báo
động cho cộng đồng ở
Paris
biết là Hà nội đang vận động Unesco kỹ niệm “100 năm Ngày sinh
Hồ Chí Minh danh nhân thế giới”. Người Việt quốc gia ở Paris liền họp để bàn cách chống lại. Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác họ Hồ được
thành lập và anh Nguyễn văn Trần làm Tồng Thư Ký.
Nổ lực tranh thủ có sự đóng góp và hành động tích
cực của nhiều thành phần, nhiều cá nhân khắp nơi. Một phần cũng
nhờ thời cơ thuận lợi: Tổng thư ký Unesco thân Hànội thất cử,
biến động ở Đông Âu, bức tường Berlin sụp đổ, bộ mặt thưc của
các lãnh tụ Staline, Mao Trạch Đông, Ceaucescu, Kim Nhật Thành,
Hồ Chí Minh bị phơi trần, nên đạt được kết quả. Ông Giám Đốc
Đông Nam Á Vụ Unesco xác nhận quyết định nói trên với anh Trần,
có sự hiện diện của Trung Tướng Guy Simon, Chủ tịch Hội ANAI
(Association Nationale des Anciens d’Indochine). Anh Trần trước
75 là nhà giáo dạy Pháp văn. Sang Pháp anh lấy được bằng Tiến Sĩ
Chính Trị Học.
Ấy vậy mà chuyện Unesco suy tôn họ Hồ là Danh Nhân
Văn Hoá Thế Giới vẫn được in trong sách giáo khoa cấp 2 của Bộ
Giáo Dục ở Việt Nam, và Viện Văn Học trong cuốn “Suy Nghĩ Mới về
Nhật Ký Trong Tù và Nhật ký trong tù - Bản dịch trọn vẹn”, nhằm
phản bác lại việc “Giáo Sư Lê Hữu Mục cho công bố tài liệu Hồ
Chí Minh không phải là tác giả Ngục trung nhật ký”, cũng còn
viết “Unesco tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh danh nhân văn hóa
Hồ Chí Minh”. Việt
Nam
có hai Viện: Viện Sử Học để cho ông anh cả Trần Huy Liệu đẻ ra
Lê Văn Tám; còn Viện Văn Học thì phịa ra chuyện Unesco vinh danh
Bác.
Trở lại Paris, tôi tá túc ở nhà Luật sư Hiệp và
nhà anh Trần. Mãi đến sau này tôi mới biết anh Trần liên hệ
nhiều trong việc “bôi nhọ hình ảnh Bác và ngăn cản Unesco tổ
chức kỷ niệm ngày sinh ra Bác” như lời tố cáo của tác giả Văn
Chấn trong tờ An Ninh Thế Giới xuất bản trong nước ngày
19/5/2000. Ông Hiệp tuy đã 82 tuổi nhưng giọng vẫn sang sảng.
Ông là vua ta ba lô vì năm nào cũng xách cái lap top đi cùng
khắp nước Mỹ để “vận động đổi mới tư duy chính trị cho Việt
Nam.
Và cũng là tiếp xúc, vận động, trao đổi, tìm phương thức mới cho
đồng bào hải ngoại có thể làm gì cho sự dân chủ hóa tại Việt
Nam”.
Trong khi nhà văn Võ Phiến qua bài “Theo Chân Một
Món Ăn” đề nghị “tìm về lịch sử dân tộc bằng đầu lưỡi”; còn tôi
thì tìm về kỷ niệm bằng cách thưởng thức các món ăn. Do đó, để
ghi nhớ sâu đậm nơi chốn mình đến, tôi thường ăn các món đặc sản
những nơi đó; vì các thứ chỉ-riêng-có-ở- một-điạ-phương tích lũy
văn hóa của một vùng, một dân tộc. Tới Paris mà không ăn bánh mì
kẹp nách hay ngồi trầm ngâm ở các quán cà phê viả hè là một
thiếu sót lớn. Ngoài ra, thành phố này không chỉ là kinh đô của
ánh sáng mà còn là trung tâm văn hóa ẩm thực của thế giới.
Cơm Tàu trên đất Tây
Các món đặc sản không những cho thấy bản sắc của
một xứ mà nó còn bảo tồn và gìn giữ nguồn gốc. Cuốn sách nấu ăn
Di Sản Của Các Bà Mẹ Trong Trại Tập Trung Terezin (In Memory’s
Kitchen: A Legacy From The Women Of Terezin) bằng hai thứ
tiếng Anh và Đức của nhà xuất bản Jason Aronson, Inc là một xác
tín cho điều này. Năm 1944 trong khi đói lạnh bị giam cầm nằm
chờ chết, các bà mẹ Do Thái đã ghi lại các món ăn mà các bà ưu
thích hầu lưu lại hậu thế. Hơn 50 năm sau con cháu các bà đã sưu
tập lại và cho xuất bản có cả thủ bút của các bà nữa.
Giáo sư Vũ Thiện Hân, trưởng một phân khoa ở
Conservatoire nationale des Arts et Metiers và Luật sư Hiệp, một
thành viên của nhóm Sáng Tạo, đã cho tôi một bửa ăn Tàu trên đất
Tây, trong ngày đầu tiên ghé Paris kỳ này. Tôi thấy cơm Tàu ở
Pháp và Mỹ chẳng có gì khác biệt. Không dầu mở lênh láng như cơm
Tàu trên đất Tàu. Tô Phở ở quận 13 nhỏ hơn tô phở ở Mỹ nhưng vẫn
lớn hơn tô phở ở Việt
Nam.
Đặc biệt, tôi được ăn một chầu phở do bạn tôi nấu ở nhà ông Trần
Thanh Hiệp. Đó là phở Trần Công Sung, một cựu ký giả của Việt
Tấn Xã, sống ở
Paris
từ năm 1968.
Nhìn Trần Công Sung nấu phở và ông TrầnThanh Hiệp
loay hoay với món bò kho thì phải nhận rằng cái bếp không còn là
giang san riêng của quí bà nữa. Trong hơn một tuần ở
Paris,
tôi đã quen thuộc các tuyến của tàu điện ngầm nên đã thả rong cả
ngày tới nhiều khu phố kinh đô ánh sáng. Một phần cũng nhờ có
ông bạn Sung chở đi la cà nhiều nơi nên
Paris hết còn xa lạ. Bệnh lè phè của nước Pháp thiệt khó chửa. Miệng chửi
Mỹ nhưng khi bầu thì chọn ứng cử viên có cung cách bắt chước Mỹ.
Hễ ông ta canh cải thì rũ nhau xuống đường ăn vạ, phản đối.
Nhân đi theo Luật sư Trần Thanh Hiệp, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt và Kỹ
sư Huỳnh Hùng cháu bốn đời của Tổng Đốc Hoàng Diệu, đến viếng
trụ sở Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới ở Paris và tiếp xúc
với ông Vincent Brossel, đặc trách vùng Á châu và Thái Bình
Dương của Tổ chức này, tôi thấy một bích chương lớn có hình Nông
Đức Mạnh trong số 36 nhà độc tài trên thế giới. Họ được gọi là
kẻ thù của báo giới. Năm 2006, Tổ chức Phóng viên không Biên
giới (RSF) đặt Việt Nam vào vị trí 155 trên 168 trong
bảng xếp hạng hàng năm về tự do báo chí. Hà nội chỉ thị
không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.
Rời Âu Châu về Mỹ, tôi đi Houston dự lễ họp mặt của cựu hoc sinh
Trung Thu (nhà tôi dạy trường này trước 75). Người Việt ở
Cali hiện có khuynh hướng dọn về vùng cao bồi vì nhà rẻ, mức
sinh hoạt dễ sống. Houston cũng là nơi duy nhất tiếng “Phở, phở,
phở ngon đây” vang vang trên làn sóng điện. Sinh hoạt của
160,000 người Việt trong thành phố rất sinh động và đa dạng. Chỗ
nào có buôn bán là có ăn uống, có mùi phở. Khi tôi đến Houston
thì trời mưa tầm tả suốt cả tuần, gây nhiều cảnh lụt lội làm hư
hại nhà cửa, đường sá, cầu cống trong khi miền Tây thì bị hạn
hán nặng.
Người Đàn Bà Ngoại Hạng
Viếng Texas lần này, tôi không còn được ăn phở và các món ăn mà chị
Trần thị Ngọc Loan nấu nữa vì chị đã qua đời năm 2002, thọ 62
tuổi vì bệnh nhưng phần lớn vì các vết thương hồi còn là sinh
viên tái phát. Năm 1963 chị bị lựu đạn của Việt Cọng liệng trúng
đầu trước khi nổ trong rạp hát Vĩnh Lợi gần chợ Bến Thành, cạnh
nhà thương Đô Thành Saigon. Khủng bố Al-Quada chỉ là học mót của
CSVN. Giật mìn xe đò, ám sát, pháo kích vào trường học, thành
phố, liệng chất nổ vào chỗ đông người, chợ búa, rạp hát đều đã
xảy ra ở miền
Nam trong cuộc nội chiến vừa qua. Chị là một người đàn bà ngoại
hạng. Tuy thương tích đầy người, điếc và bị cưa hẳn một chân chị
vẫn là trụ cột của gia đình.
Bạn tôi Lê Thái Hưng, cưu phóng viên Việt Tấn Xã và sĩ quan VNCH
thường nói một cách tự hào với bạn bè “moa là thân cư thê”.
Không có chị Ngọc Loan thì làm sao anh ra khỏi tù rồi vượt biên
sang Mỹ, gầy dựng cơ nghiệp, con cái thành đạt được? Nhìn chị di
chuyển tôi không hiểu làm sao chị có thể lặn lội vào tận trại
tập trung, tìm cách hối lộ tên trại trưởng để “cỏng” ông bạn tôi
ra? Rồi còn lo cuộc sống hằng ngày, móc nối đường dây. Trăm công
ngàn việc đều do chị nghĩ ra. Bạn tôi chỉ là ông dám làm thôi.
Hằng ngày, anh bạn Hưng đều ngồi cạnh bàn thờ, nói chuyện với
chị như khi chị còn sống vậy.
Trong một bửa ăn trưa tại quán Café Bistro Houston, tôi găp lại em
của một bạn đồng nghiệp Bình Minh. Jane Nga Dung Nguyễn, dược sĩ
trước 1975, hiện là một chuyên viên tài chánh, thuế vụ, và đia
ốc, cho biết rõ về cái chết của hai nhà báo Trần Đại - Vũ thị
Bình Minh và cháu nhỏ trên đường vượt biên. Chiếc thuyền bị dạt
vào một đảo san hô và bị vở. Một người đi cùng liều chết ôm mảnh
gỗ cho trôi giạt; may được một thương thuyền vớt, mới kể lại cho
gia đình biết rõ sự việc. Cô Nga Dung hiện có một chương trình
trên đài phát thanh giải đáp thắc mắc về tài chánh cho thính
gỉa. Rất ăn khách.
Dự buổi “Kỷ niệm 50 năm một thuở học trò” của cựu
học sinh Trung Thu, tổ chức tại Houston, được đọc Đặc San Trung
Thu, “có phấn trắng bảng đen, có những giờ ra chơi rộn rã tiếng
cười, có những hàng Phương Vĩ nở đỏ rực trong sân trường, có
những hàng quà thật quyến rũ mời gọi ngoài cổng trường” và nghe
bản nhạc Ngày Xưa Hoàng Thị, thơ của Phạm Thiên Thư, Phạm Duy
phổ nhạc “Em
tan trường về, Ðường mưa nho nhỏ” tôi không khỏi chùng lòng nhớ
đến một thời đã qua, một thời đã hết và nghĩ đến Saigon, tuy xa
mà thật gần.
Du lịch với Voyage Saigon viếng Bắc Âu, hè năm 2006, sau khi dạo
mấy phố chính của Saint Peterburg ở Nga, thay vì theo các bạn
vào một tiệm phở, tôi tới quán
Literaturnoe Kafé (Cà phê Văn Học), nơi Pushkin
ngày xưa thường đến đọc thơ, và cũng là nơi gặp gỡ của giới văn
nghệ sĩ trước và sau cuộc Cách Mạng Bolshevik năm 1917.
Lặng nghe tiếng dương cầm và vĩ cầm của hai nghệ sĩ, tôi nghĩ
đến việc thành phố Leningrad đã lấy lại tên Saint Peterburg thì
tên Saigon cũng phải trả lại cho dân miền Nam; vì “tục” nhất tên
người. Khi đó, tô phở ở Givral đường Tự Do chắc sẽ ngon nhiều.
Và “Saigon đẹp lắm! Saigòn ơi! Saigon ơi!” sẽ vang vang cùng
khắp.
Văn hóa nhựt trình Saigon
Hiện nay, quán ''phở ông Mạnh' -chữ của nhà báo Bùi Tín- độc chiếm
đất nước 60 năm, không bán phở mà chỉ bán đồ “xạo hết chỗ nói”.
Rao giảng đạo đức ông Hồ đâu không biết mà chỉ thấy Vàng Anh và
con tướng Công An trần truồng trên mạng. Ém nhẹm tin tức về
Hoàng Sa, Trường Sa vì CSVN đã dâng cho Tàu trước khi xua quân
lùa cả nước vào rọ đại đồng. Họ bóp mủi báoTuổi Trẻ, muốn nó
thuần như nhà thơ Phùng Cung viết về con ngựa chúa Trịnh : “Tất
cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó
nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một đường thẳng. Rồi cây
cỏ, núi đồi cho đến bầu trời xanh cũng chỉ thu lại là một đường
thẳng..”
Báo này lớn nhất nước, ấn hành gần nửa triệu số. Tờ báo đã qui tụ
một số thanh niên có thiên chức truyền thông thời VNCH, đã thể
hiện một phần nền văn hóa nhựt trình Saigon; đồng thời
muốn nhen nhúm lại cái hào khí Nam Bộ - thấy việc bất
bình chẳng tha- đã bị thui chột sau 30/4/75, qua phong cách làm
tin bén nhạy, đã khiến cho Hà Nội thấy nguy cơ cho cơ chế toàn
trị; nên cất chức hai Phó Tổng biên Tập Huỳnh Sơn Phước và
Trương Quang Vĩnh để dễ quản lý. Nền văn hóa nhựt trình và
tính hào sản của người miền Nam, không thể nào thích hợp với văn
hoá tráo trở “cứu cánh biện minh cho phương tiện” của Cọng Sản
Việt
Nam được.
Tuổi Trẻ bị đì chảy máu. Chẳng có tổ chức nghề nghiệp nào ở Việt Nam
xót lòng; giống như chuyện chủ quán phở tên Đức ở Thanh Xuân
Hànội, đầy đọa em Bình 13 năm giữa chỗ đông người; ai cũng dững
dưng. Lý do là các hội nhà văn, nhà báo được nhà nước nuôi; ông
chủ chưa cởi trói cho chạy lăn quăn thì làm sao mở miệng? Trung
Quốc có lập huyện Tam Sa, Tứ Sa gì đó ở đảo Hoàng sa là chuyện
nhỏ. Nam Quan, Bản Giốc có mất hay ngư dân có bị bắn chết thì
nhằm nhò gì. Chuyện lớn của đảng là tình hưũ nghị Hoa Việt; là
thực thi tốt bốn điều răn: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt”.
Giờ thì cháy nhà ra mặt chuột. Tam Sa lộ Việt gian; hiện rõ chân
tướng của một nhóm người đã khai thác lòng yêu nước của dân Việt
để phục vụ cho đế quốc đỏ. Họ Hồ thề vong mạng “đốt sạch dãy
Trường Sơn” và hy sinh “cho đến người Việt
Nam cuối cùng để cho chủ nghĩa xã hội toàn thắng trên đất nước
ta và trên khắp thê giới”. Không có thùng nước lèo của phe Cọng;
không núp dưới bóng hậu phương lớn Bắc Kinh, đảng CSVN làm sao
dựng được cái quán Phở Mạnh để chuyên trị món phở “tư tưởng Hồ
Chí Minh” mà thực chất là chép từ Lenine, Staline, Mao Trạch
Đông?
Mặc cho biển Đông dậy sóng; xuống đường sôi nổi,
hơn 600 tờ báo ở
Viet Nam vẫn im lặng. Tất cả chỉ là con ngựa kéo xe, chỉ được
thấy: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai''. Bà Tòng
Thị Phóng, Bí thư Trung ương ĐCSVN trong chuyến thăm Trung Quốc
hồi hạ tuần 12/07 không nghe bà đề cập gì về biên giới hay hải
đảo mà chỉ biết bà nói, mong được học "kinh nghiệm mở cửa, xây
dựng kinh tế thị trường với định hướng XHCN của Trung Quốc". Đối
với người Cọng Sản đảng trước, nước sau./.
Phan Thanh Tâm
- Saint Paul 1/08.
|