Sài gòn bất khuất
Tháng
Tư, trời đất vào xuân, nhưng ngày cuối tháng Tư năm bảy mươi lăm
đó, người dân Sài Gòn còn tâm trí đâu nữa mà ngẩn lên nhìn trời,
để đếm những áng mây chì nặng trĩu của mùa nực dông. Họa hoằn
lắm mới được một cơn mua, như để rửa sạch tội lỗi mà thiên hạ
lại lấm tấm mồ hôi vì đang lên cơn sợ hãi. Thành phố nơm nớp lo
sợ phải tiếp đón "kẻ xa lạ phương Bắc", như chừng "hòn ngọc Viễn
Đông" đang âu lo phải lọt vào tay thô bạo của lũ cướp
ngày.
Vừa mới đây thôi, một trong những chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng
đã rời khỏi sân thượng của tòa đại sứ Huê Kỳ, nằm không xa nhà
thờ chánh tòa của thành
phố bao nhiêu và cách Dinh Độc Lập chừng vài ba khu phố. Trên
chiếc trực thăng đó, ông Đại Sứ Graham Martin – ông đại sứ cuối
cùng của Mỹ bên cạnh Việt Nam Cộng Hòa - ốm đau và kiệt sức,
nhìn đăm đắm mà lơ đãng, một cách không hồn qua khung cửa kiếng,
một cái nhìn cuối cùng xuống thành phố mà định mạng đang bấp
bênh. Một cái nhìn câm lặng nhưng vô cùng ý nghĩa, chăm chú
xuống mảnh đất bầm giập với bao nhiêu năm khói lửa binh đao. Một
cuộc chiến tranh trời đánh thánh vật! Cũng như bao nhiêu con
người của miền Nam khác lúc bấy giờ, chắc là ông đại sứ cũng tự
trách mình "lẽ nào để lại tất cả cho cộng sản"?
Ở ngoại ô Sài Gòn, miệt Gia Định, sư đoàn 324 Bắc Việt tiến vào
từng nhóm nhỏ, không bị đối kháng mà cũng chẳng có reo hò chào
mừng, dẫu cho họ nói rằng "tổng khởi nghĩa". Phía phi trường Tân
Sơn Nhứt, còn nghe đại bác nổ, nhưng tiếng súng im lần khi bộ
đội tiến đến gần những trung tâm đầu não của thành phố to lớn
nhứt miền Nam. Đến 12 giờ 15 thì tất cả đều chấm dứt. Cờ Mặt
Trận Giải Phóng đã được kéo lên bên trên Dinh Độc Lập, trong khi
đó bộ đội "Bác Hồ" tiếp nhận sự đầu hàng của "Minh cồ", vị tổng
thống vừa nhậm chức ba ngày qua.
Tin đồn tắm máu, làm cho nhiều người lo sợ trước đó, đã không
xảy ra. Thế nhưng, sau ba mươi năm chinh chiến, kẻ chiến thắng
không thấy nói chuyện hòa hợp hòa giải. Hà Nội nghiêm nghị khắt
khe bắt đầu trả đũa. Sài Gòn quyến rủ, phóng túng và toan tính,
rồi đây sẽ bị thanh lọc, trừng phạt vì những sự hỗn độn và phải
học tập chủ nghĩa xã hội khoa học. Thậm chí người ta còn đặt tên
khác cho nó, thành phố Hồ Chí Minh!
Người ta bắt đầu đưa mọi thứ vào khuôn khổ. Những khẩu hiệu cách
mạng xuất hiện trên những bức tường thành phố và
đâu đâu cũng có hình ảnh "Bác Hồ". Khách sạn đều bị đổi tên,
Continental cố cựu, được nhiều thế hệ ký giả và văn gia mến mộ -
nơi mà Graham Green sáng tác ra quyển "Un Américain Bien
Tranquille" (Một Người Mỹ Thật Trầm Lặng) – trở thành Đồng Khởi,
nhà hàng Caravelle, mà quày rượu được bộ tham mưu của tướng
Westmoreland thường chiếm lấy, từ nay tên là Độc Lập. Hồi năm
1968,
sau trận đánh Tết Mậu Thân, trên sân thượng của khách sạn này,
người thực thi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh của Nixon,
tướng Creighton Abrams, đã than thở rằng:"Lẽ nào mình bỏ những
thứ này lại cho cộng sản!"
Hai mươi bảy năm sau, cựu bộ trưởng Quốc Phòng, Robert McNamara,
không còn giữ im lặng được nữa, đưa ra lời tự phê nghiêm khắc,
cho rằng cuộc chiến tranh làm thiệt mạng 58.000 người Mỹ là một
"sai lầm khủng khiếp". Bốn trăm ngàn quân nhơn, công chức, bác
sĩ, luật sư, nhà báo, giáo sư, đã từng phục vụ chế độ đã tiêu
ma, bị đưa đi các trại cải tạo, để gọi là "học tập để trở nên
con người mới xã hội chủ nghĩa".
Đối với Hà Nội, những người Sài Gòn đều bị coi như là những
"cộng tác viên xưa cũ, mang dấu ấn của chủ nghĩa đế quốc." Dẫu
sao đi nữa thì đức tính đầu tiên của người công dân dưới chế độ
mới của cộng sản không cần phải hữu hiệu mà trước tiên phải đi
theo đường hướng cách mạng. Cũng được đi. Sài Gòn, thành phố
ương bướng đành phải khom lưng, cúi đầu. Những người cầm quyền
mới của thành phố là những chàng bộ đội trẻ măng, những người
lính chiến non choẹt, dáng điệu cứng đờ trong bộ quân phục rộng
thênh thang, xen lẫn với những người trẻ tóc tai để dài, mặc
quần ống chưn voi và áo sơ mi bó sát người, theo thời trang lúc
đó. Hai thế giới sinh sống bên cạnh nhau, rình rập dòm ngó nhau
mà chẳng bên nào nói với bên nào. Còn có những cán bộ, dễ nhận
ra qua dáng đi tướng đứng hơi vụng về và, đặc biệt nhứt là ở bộ
sưu tập bút máy giắt ngay hàng thẳng lối trên túi áo sơ-mi. Họ
rất đông người và dễ nể.
Đâu đó đều trật tự. Cấm không được ngỏ lời với người nước ngoài,
dù cho với những người Liên Xô, lan tràn ở phía Nam để giúp đỡ
các đồng chí từ Bắc vào. Cấm không được có chút lời phê phán gì
đối với những "lựa chọn đúng đắn và rộng lượng" của những giới
chức cầm quyền mới. Vã lại, tất cả các báo chí miền Nam đều bị
đóng cửa và những xí nghiệp đều được quốc hữu hóa. Dẫu cho đều
đặn và máy móc, người ta cũng không xóa được tinh thần đối kháng
thụ động. Vì người ta có trăm phương ngàn kế để làm cho thành
phố tiếp tục mang một mặt nạ mập mờ, như một đô thị chịu bó mình
vào quy luật tập thể, nhưng trên thực chất vẫn trung thành với
quá khứ tháo vát lâu đời. Cứ nhì nhà nhì nhằng, cà rịch cà tang
mà thành phố lây lất qua ngày đoạn tháng thôi.
Trong khi những hộp đêm và nhiều nhà hàng phải đóng cửa - và một
vài tiệm buôn bán hàng hóa nhập cảng cũng vậy - trong khi những
hãng xưởng bị cho là thừa thãi phải tan biến đi, thì những sinh
hoạt khác lại mọc lên. Chẳng hạn như các quán cà phê lại nổi lên
như nấm để cho thanh thiếu niên, ăn không ngồi rồi, nghe nhạc
"rock", với những ca khúc mang hơi hướng thời thượng, đại khái
như "Có một ngày ta giương buồm lên để đi xa thật xa mà chẳng
bao giờ trở lại...".
Đầu
trên đường Tự Do (sau này là Đồng Khởi), bà Suzanne Đại biến căn
nhà của bà - trước "giải phóng" là một văn phòng luật sư sang
trọng – thành một nhà hàng tư nhơn. Trong một khung cảnh chọn
lọc, trang nhã, đôi khi khách ngồi ăn món gà nấu đậu giữa những
tủ sách luật Dalloz và những đồ sứ Huế. Một bối cảnh làm cho
người ta hoàn toàn liên tưởng đến dĩ vãng của người chủ quán ăn.
Biết ý khách hàng, bà chủ - một phó chủ tịch thượng viện thời
Tổng Thống Thiệu - chống chế trả lời:"Có lẽ hơi quá đáng." Vì Hà
Nội, với một bề ngoài cách mạng chắc dễ gì buông tha. Chẳng hạn
như nhơn một kỳ đại hội đảng, hay qua một bài xã luận trên báo
"Nhân Dân", hoặc phản ứng lại một bài nói của tổng bí thơ, thủ
đô cũ của Nam Việt Nam tỏ ra bực dọc khó chịu, thì Ủy Ban Nhân
Dân thành phố Hồ Chí Minh ra tay siết chặt ngay. Thế là, những
chiếc ghế nhỏ, mấy cái bàn con nằm trên lề đường trước những
quán cà phê phải dẹp ngay vào bên trong. Để cho những khách hàng
rảnh rỗi bớt la cà đấu láo, "chính chị, chính em".
Tối đến, chẳng cần chờ đến giờ cấm lửa, giới nghiêm - thường là
vào nửa đêm – khá nhiều ngọn đèn đã được tắt đi. Đấy là lúc mà
Sài Gòn thao thức, le que trong bóng đêm... Thế là, như chừng
đôi mắt cú vọ của guồng máy không còn soi mói được qua bóng tối,
những người Sài Gòn bắt đầu giao dịch linh tinh. Chỉ một số nào
thôi. Bực tức vì vô số kiểm tra chánh trị, dồn ép người ta vào
cảnh khốn cùng, ngẫm nghĩ lại những luyến tiếc xưa cũ,... hàng
trăm ngàn người đã tìm cách trốn nhà, bỏ nước ra đi. Bằng mọi
giá, chết cũng cứ đi.
Trong Chợ Lớn, thảm cảnh còn nặng hơn. Quả thật, chế độ cộng sản
tìm mọi cách để phá tan cái cộng đồng người Hoa đó. Họ đã rượt
đuổi, đánh phá những chành gạo tích lũy từ bao mùa lúa đã qua.
Chế độ đã giải tán những hiệp hội người Hoa, những tư sản mại
bản bí mật, đã từng khống chế nền kinh tế thành phố.
Trên
những chiếc thuyền mong manh, trên những chiếc ghe máy khốn nạn,
cả gia đình bồng bế nhau tự ý đi đày, đem cuộc đời mình ra đánh
cuộc với số mạng. Vì đâu phải họ chỉ đương đầu với một nguy cơ,
vì dẫu có thoát được mạng lưới công an tuần duyên, họ còn gặp
những hiểm họa khác, nào là đắm tàu, nào là cướp biển, nào là
hãm hiếp rừng rú dã man, trên một vùng biển Đông bao la. Họa
hoằn lắm những con người khổ hạnh của trùng dương biển cả kia
mới trôi giạt vào một trong những trại tỵ nạn được hối hả dựng
lên cùng khắp Đông Nam Á. Một thảm họa vô bờ bến, không sao kể
xiết! Cộng đồng thế giới có xôn xao, có đắn đo lo sợ, có xót
thương cảm kích, có lên án thái độ vô nhơn, thì cũng hoài công
vì Hà Nội cứ trơ như đá, vững như đồng với con tim đỏ màu cộng
sản!
Chuyện thuyền nhơn hẵng để đó, nhà cầm quyền cộng sản lo sợ
nhiều hơn với những chuyện rộn ràng binh đao ở miệt biên giới
phía Bắc và phía Nam. Trung Quốc nhắc nhở rằng mỗi hành động ảnh
hưởng đến cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn là một đòn đánh vào
Trung Quốc và hăm dọa sẽ cho Việt Nam một "bài học nghiêm khắc".
Hồi sau của chuyện này, ai ai cũng biết, là Trung Quốc xua quân
qua Việt Nam vài ba cây số trên đường cái quan để rồi phải rút
về một cách thảm bại năm ba ngày sau đó. Nhưng, chính ở bên
"Cam-Bu-Chia" mới bắt đầu xảy ra những chuyện nghiêm trọng hơn.
Được Bắc Kinh khuyến khích, quân Khmer Đỏ thăm dò thử hệ thống
phòng thủ Việt Nam bằng cách cho vài toán quân ít người đột nhập
qua bên kia biên giới. Hà Nội tìm cách đối thoại, nhưng hoài
công.
Tháng Giêng năm 1979, lực lượng võ trang Việt Nam tràn qua vương
quốc Khmer cũ, đánh chiếm Nam Vang và đẩy quân Pol Pot đến tận
biên giới Thái Lan. Trên bình diện quân sự mà nói thì đó là một
chiến thắng vẻ vang. Như vậy, nỗi thống khổ của nhân dân Cam Bốt
đã chấm dứt, thế nhưng chuyện xâm chiếm đất đai của thiên hạ thì
dựa vào lý do nào đây? Trước hết, duy trì một đạo quân viễn
chinh sẽ tốn kém vô cùng. Thật là tốn kém. Kế đó, Việt Nam tiếp
tục lún sâu vào một thế cô lập thảm thương, trong khi "người anh
cả" Liên Xô - với mức hợp tác kinh tế then chốt cho Việt Nam -
bắt đầu dang xa nước đàn em tốn kém và phiền phức. Tóm lại, sau
khi nuốt trửng Sài Gòn, Hà Nội gặp quá nhiều khó khăn để quản lý
cái gọi là "Thành Phố Hồ Chí Minh".
Gần ba mươi phần trăm gia đình người Sài Gòn sống lây lất qua
ngày nhờ ở những gói quà tình thương của người Việt hải ngoại
gởi về. Làm sao mà chế ngự được thành phố, làm thế nào đưa dân
chúng vào khuôn phép, một thứ dân chúng cứ tìm cách để phỉnh phờ
những nhà cai trị mới? Lề đường đông nghẹt những người buôn
gánh, bán bưng, những cô gái "đá lông nheo" như bất cứ những nơi
nào khác, những gã "cao bồi" chừng hai mươi tuổi đời lượn qua
lượn lại trên lòng đường bằng những chiếc Honda "cáu cạnh", bóng
láng, những đứa trẻ tủm tỉm cười ruồi khi thấy bộ đội đi qua,
một cách chống đối ngấm ngầm thường xuyên. Thành phố lại câu kết
với những "ma quỷ" xa xưa. Thế nhưng, thành phố có sống thoải
mái hơn không? Phải đợi đến Đại Hội VI vào năm 1986, cuối cùng
thành phố Hồ Chí Minh mới vượt thoát được cái uể oải, đờ đẫn,
trầm trầm, đâu chẳng ra đâu. Sau những phiên tranh luận sóng
gió, cuối cùng Bộ Chánh Trị mới sáng mắt ra, để thấy rằng đất
nước phải cam chịu khắt khổ, chấp nhận thiếu thốn để làm gì, như
một hoang đảo nghèo đói giữa một đại dương sung túc và trù phú.
Thế là ta chủ trương "đổi mới", chớ chơi hoài mửng cũ, sớm muộn
gì cũng tiêu ma. Nên chi, bộ áo giáp cộng sản chủ nghĩa vì vậy
cũng rạn nứt theo, mà nhìn nhận phần nào chuyện tư hữu. Chỉ là
bước đầu.
Trong nền kinh tế phức tạp, nhạy cảm và mong manh châu Á, người
ta bắt đầu rụt rè nhìn thấy những kết quả đầu tiên. Với ba mươi
phần trăm gia đình người Sài Gòn sinh sống được nhờ những bưu
kiện nước ngoài do "Việt kiều" gởi về, một số hàng hóa đã lọt ra
ngoài để hình thành một thứ chợ đen khổng lồ và từ đó là một nền
kinh tế song hành. Nhưng phải đợi đến năm 1981, nhờ bình thường
hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và nhờ ký kết hiệp định
hòa bình ở Paris với Cam Bốt mà thành phố Hồ Chí Minh mới bước
vào một đà tiến triển mới. Luật đầu tư đã mở cửa thành phố, đón
mời những nhà kinh doanh và những tư bản ngoại quốc. Những người
Hoa của Hương Cảng, Tân Gia Ba, Đài Loan, Mã Lai Á đã lập lại
những mạn giao dịch với các đồng nghiệp ở Chợ Lớn, "cái bụng và
nồi cơm" của thành phố. Thế là, thành phố Hồ Chí Minh đã cung
cấp trên ba mươi phần trăm mức sản xuất kỷ nghệ quốc gia và năm
mươi phần trăm sản phẩm tiêu dùng.
Dứt khoát là, chánh quyền Việt Nam muốn bắt kịp thời gian đã
mất. Phần nào giống như thời kỳ "mèo trắng, mèo đen" của Đặng
Tiểu Bình, để khuyến khích dân chúng nên "làm giàu". Thực ra,
việc khuyến khích một nền kinh tế thị trường đem lại lợi ích cho
thành phố Hồ Chí Minh, nhiều hơn là Hà Nội, với một tỷ lệ phát
triển hàng năm giờ đây cao nhứt ở lục địa châu Á. Phải chăng là
một nơi chốn thần tiên mới, dễ ăn nên làm ra? Chưa đâu. Nhưng sự
trợ giúp của FMI (Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), tiền vay mượn của Ngân
Hàng Thế Giới và của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á, mở đường cho
đất nước này có tham vọng đứng vào hàng ngũ của những "rồng
con", từ nay đến năm 2010. Dĩ nhiên là với điều kiện Đảng cộng
sản và mấy con "khủng long" ở Bộ Chánh Trị phải đưa đẩy Việt
Nam trên "con đường đúng đắn".
Còn những không gian tự do thì sao? Rất là hạn hẹp, dẫu cho
thành phố lớn nhứt phía Nam đó, đã tự cho mình là Sài Gòn, tự
cho mình có được chút ít thoải mái và dường như sẵn sàng chớp
lấy mọi thứ trong tầm tay. Dẫu sao đi nữa thì sự thay đổi đã rõ
ràng rồi. Một thành phố với năm triệu dân, nửa triệu người không
nhà, đã tìm lại được cái hương vị để sống và vô vàn thói hư tật
xấu, như tham nhũng, mãi dâm, cần sa ma túy (gần 10.000 người
nghiện ngập) và nghe đâu những tiệm hút thuốc phiện sắp được lén
lút mở cửa lại. Trong nghèo khó cũng như trong sung túc, thành
phố cứ vẫn là mình. Pierre Loti trước kia đã viết:"Sài Gòn lưu
lạc và ưu tư mơ mộng". Thành phố Hồ Chí Minh không còn nữa khi
mà Sài Gòn nhứt định cứ bất khuất, vì đổi thay danh tánh đâu
phải thay đổi được bản chất.
Cố Nhân
(Qua gợi ý của bài "Saigon l'irréductible", Christian
Hoche, l'Express ngày 20.4.1995)
[http://www.lexpress.fr/info/monde/dossier/vietnam/dossier.asp?ida=387382] |