PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                       TRANG CHÍNH

" Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống " (Siddhatta)
 CHUYÊN MỤC

Tư Tưởng

n Học

Ký sự

Giáo Dục

Diễn Đàn

Chính Luận

Môi Trường

Văn minh - Văn hóa

Viễn tượng Việt Nam

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ

  Ký sự Xã hội

Tây Tạng ba mủi giáp công

 

 

 

  • PSN 27.03.2008 - Cố Nhân

Những xáo trộn gần đây ở Tây Tạng xuất phát, không phải chỉ từ nguồn gốc nhơn quyền và tôn giáo mà thôi đâu, nhưng còn vì lý do kinh tế nữa. Đợt phát triển kinh tế vừa qua ở Tây Tạng do Bắc Kinh thúc đẩy, vì lợi ích của người Hán là chủ yếu, chớ không phải cho dân bản địa, vốn là những thành phần chịu thiệt thòi hơn ai hết, về vật chất cũng như về văn hóa.

Một đêm đông giá lạnh, tôi bước vào vũ trường Babila, một hộp đêm mới nhứt ở Lhassa, để phỏng vấn người chủ địa điểm vui chơi. Ông ta là một nhà kinh doanh người Hán, lên đây làm ăn. Bối cảnh hộp đêm chẳng khác gì những nơi tương tự ở bất cứ nơi đâu. Cũng những cô vũ nữ duyên dáng, với giày gót nhọn, váy đầm cũn cỡn, nước hoa ngạt ngào. Ông chủ hộp đêm than phiền: "Còn nặng mùi văn hóa Tây Tạng quá. Nhưng tôi không nghĩ là sẽ thất bại." Thế nhưng khi nhìn quanh thì chẳng thấy có nhơn viên người Tây Tạng nào, mà khách hàng Tây Tạng cũng chẳng thấy. Khách khứa của hộp đêm phần lớn là những nhà kinh doanh và sĩ quan người Hán, thu nhập ít lắm cũng phải hai ngàn đô, một số tiền gấp mấy lần lương bổng ở Tây Tạng này.

Tình hình của hộp đêm hé lộ cho thấy vấn đề mà người Tây Tạng phải chịu đựng dưới gánh nặng cai trị của các quan lại Tàu. Văn hóa Tây Tạng bây giờ được gói gọn vào ngành du lịch. Nền văn minh, văn hóa của một vùng đất nổi tiếng là nằm trên đỉnh trời, trên nóc nhà thế giới, giờ chỉ còn gợi được óc hiếu kỳ của du khách mà thôi. Kinh tế du lịch đang phát triển mạnh, thế nhưng người bản địa có hưởng được gì đâu. Chỉ có người Tàu từ thập phương kéo tới hưởng thụ hết trơn!

Hồi gần đây, kinh tế Tây Tạng phát triển mạnh mẽ, nhưng lợi ích đó, người gốc Tây Tạng sức mấy mà hưởng được. Đó mới là điều cốt lõi làm sôi máu phản kháng, gần đạt mức độ cách mạng, của người dân Tây Tạng, chớ không phải chỉ là tội ác vi phạm nhơn quyền và cấm cửa tôn giáo. Vì vậy mà, trong tuần qua, người ta có cảm tưởng như bỗng dưng những cuộc xuống đường bộc phát nổ ra dữ dội ở Lhassa và trên khắp đất nước Tây Tạng, cũng như ở đất tạm dung bên Ấn Độ. Một cuộc phản kháng mạnh bạo hơn hết kể từ tháng Ba năm 1989, khi người Tây Tạng vùng lên chống lại ách đô hộ của Trung Quốc. Ngày nay, vùng đất tự trị đó đang ở ngưỡng cửa của một thời đại kinh tế mới, trong đó cơn "đại hồng thủy" bành trướng áp đảo của Tàu Cộng có vẻ còn tàn bạo hơn những thập niên che chở độ hộ trước kia.

Dứt khoát là những vi phạm nhơn quyền cứ tiếp tục diễn ra ở Tây Tạng. Nào là bắt bớ, khảo tra, nào là nông dân bị cướp đất, nào là hạn chế hà khắc các sinh hoạt và tự do tư tưởng ở các tu viện. Có thể những hạn chế đó đã phát khởi những hành động đối kháng mới đây.

Thế nhưng, những vụ xáo trộn ở Lhassa cũng bắt nguồn từ những thay đổi kinh tế. Ban đầu, ngày 13 tháng Ba, chỉ có vài trăm nhà sư từ những tu viện Lhassa biểu tình, thế rồi phong trào biến thể nhanh chóng thành cuộc bạo động làm cho thương gia và nông dân cũng tràn ra đường phố thủ phủ Tây Tạng. Đối tượng của những vụ phá phách và bạo động cho thấy có sự nghiên cứu kỹ lưỡng. Những chiếc xe bị lật ngược và đốt phá trước tu viện Jokhang, nơi chốn linh thiêng hồi thế kỷ thứ VII, giữa lòng Lhassa. Và không cách xa bao nhiêu, trên đường Bắc Kinh, là những chiếc xe Toyota Land Cruisers mắc tiền và những chiếc xe sang trọng hiệu Honda và Audi. Toàn là những loại xe cao cấp của bọn quan lại Tây Tạng và của giai cấp thống trị người Hán bên Tàu sang. Những hiệu buôn bị đốt phá là những hàng quán, những kinh doanh của người Tàu, phần đông được dựng lên từ thời kỳ cuối những năm 1990, lúc mà Bắc Kinh quyết định nỗ lực trở lại trong tinh thần gia tăng triệt để vùng tự trị Tây Tạng và đưa người Hán vào vùng này.

Ông Abrahm Lusgarten, ký giả tờ "Washington Post", cho biết trong chuyến viếng thăm Tây Tạng cách nay sáu năm thì Lhassa còn là một thành phố thơ mộng, dĩ nhiên là bị ảnh hưởng Tàu Cộng rồi, nhưng chủ yếu còn nổi bật kiến trúc Tây Tạng truyền thống, còn những sản phẩm Tây Tạng và nhứt định là còn dân chúng Tây Tạng. Mỗi năm, cứ mùa đông đến, khi hàn thử biểu xuống hẳn dưới số không và khi thành phố nằm trên cao độ 3600 thước bị những cơn gió của cao nguyên Tây Tạng thổi qua.

Nhơn mấy chuyến đến thăm sau này, những thay đổi quá mức ở đây làm cho tôi ngỡ ngàng hết sức. Dân số đã bùng nổ, từ 250.000 vọt lên 500.000 và, dẫu cho những con số thống kê muốn nói gì thì nói, những di dân mới đến rất hiếm có người Tây Tạng. Những di dân này dĩ nhiên là cứ ở lại Lhassa năm này qua năm nọ.

Người Tàu đã dẹp bỏ những mạng đường lịch sử của thủ đô Tây Tạng, những con đường hẻm nhỏ hẹp trải đá, hai bên là những dãy nhà quét vôi trắng xưa cũ hằng bốn thế kỷ. Hàng loạt các khu phố đã bị thay thế bằng những tòa nhà, trụ sở văn phòng và hàng quán thương mại lạnh lùng, xây cất vội vàng và theo kiểu cách "kho hàng" thật khắc khổ, khô khan. Một trung tâm thương mại trị giá mười triệu đô la, cao năm từng lầu, với những tủ kính bày hàng có những cô người tượng chiêu hàng đồ lót táo bạo, cách khu Jokhang (trung tâm thương mại trước kia đã bị thiêu hủy) chừng vài khu phố.

Từ nay, người Tàu cầm đầu hết mọi lãnh vực thương mại, mua bán tất cả các thứ trái cây, lái hầu hết các xe taxi và khai thác loại quặng chủ yếu. Và cuối cùng, hồi tháng Bảy năm 2006, khoảng đường sắt nổi tiếng từ tỉnh Thanh Hải tới Tây Tạng đã chạy suốt. Cơ cấu hạ từng cơ sở này loại bỏ những rào cản cuối cùng, đã từng cô lập Tây Tạng.

Hình ảnh cổ kính mà Tây phương thường hình dung về Tây Tạng đã làm trở ngại cho việc phát triển kinh tế của vùng tự trị này, vì người ta có cảm tưởng là miền đất nước này cứ phải như vậy hoài, như cách nay hàng nghìn năm, như là một chỗ ẩn mình cho cảnh thanh bình thơ mộng. Vùng đất nghèo nàn thì đúng rồi, nhưng vô cùng tình tứ. Hình ảnh đó lại làm cho thiên hạ nghĩ đến cái khuôn mẫu chơn chất của người dân Tây Tạng ôn hòa, tôn thờ Đức Phật và bị một nước Trung Hoa vô thần áp bức. Và cứ như vậy mà người ta ôm lấy cái nguyên tắc cho rằng chính người Tây Tạng cũng đồng ý với quan điểm đó.

Thế nhưng, khi thảo luận với một số người Tây Tạng thì không phải vậy. Nhiều người Tây Tạng cũng ước mơ được hiện đại hóa, cũng ao ước có được những gì làm cho họ sáng giá ra, như một mức sống tốt đẹp hơn, được học hành nhiều hơn và có công ăn việc làm khá hơn. Trong bước đầu, họ vui mừng khi thấy vật giá giảm xuống, một chiều hướng được cho là nhờ có mối liên lạc đường sắt mới đây. Thế nhưng, những cải thiện chờ hoài không thấy đến, thế là người dân Tây Tạng mất hết tin tưởng ở cái hệ thống được hình hành để loại bỏ họ qua một bên một cách trơ trẽn.

Một chiều đông giá lạnh ở thủ đô Lhassa, một nhà kinh doanh trẻ tuổi người Tây Tạng tâm sự: "Hãy trông kìa, những bảng hiệu buôn ngời sáng ngút ngàn và sinh hoạt thương mại năng nỗ chung quanh ta, đó là xu thế của thời đại. Dẫu cho do người Tàu làm ra hay người Tây Tạng lập nên thì cũng vậy thôi."

Con người trẻ tuổi đó, nói được ba thứ tiếng, tốt nghiệp ở một trong những trường đại học lừng danh của Bắc Kinh. Nhưng, cũng như bao nhiêu người Tây Tạng khác, anh ta khó tìm ra được một vị trí trong nền kinh tế mới mẽ này. Một anh khác than phiền là đã bị mất bằng hướng dẫn viên từ khi công an quyết định kiểm soát quy chế hành nghề, bắt buộc những hướng dẫn viên phải thi hàng năm, một cuộc thi bằng tiếng quan thoại. Lại có một người khác phải đổi thương hiệu vì có một nhà đầu tư, người Hán đã chọn cùng thương hiệu với anh. Bảng hiệu của các doanh nghiệp Tây Tạng đều phải được dịch ra tiếng Tàu và thương hiệu bằng tiếng Tây Tạng chỉ được xuất hiện bằng chữ bé tí, hầu như là thứ yếu. Lần hồi bản sắc Tây Tạng bị gậm nhấm, bị làn sóng ô hợp của những ngành kinh doanh mới, của những sáng kiến mới và những luật lệ mới quét sạch.

Tháng Mười năm 2006, mấy trăm người trẻ có học thức và những người Tây Tạng "hiện đại" khác, tụ tập lại trước ủy ban hành chánh của chánh quyền địa phương ở Lhassa, một cuộc tập họp mà ngày nay người ta có thể coi như là dấu hiệu tiên phong của những xáo trộn ồ ạt hồi tuần lễ vừa qua. Những người biểu tình, có ăn học và xuất thân từ giai cấp trung lưu, không chống đối lại những vụ đàn áp tôn giáo, mà cũng chẳng phải phản bác lại những trường hợp vi phạm nhơn quyền, nhưng để chống lại sự bất công trong nền kinh tế mới của họ. Họ cho phần lớn những công ăn việc làm đều được phân chia cho người Hán là điều không thể chấp nhận được.

Bắc Kinh cho những gì đang diễn tiến ở Tây Tạng như là sự tiến bộ, coi tỷ lệ tăng trưởng từ 12 đến 15 phần trăm trong thu nhập quốc dân mấy năm qua như là mức đóng góp hào hùng của Trung Quốc cho nền văn hóa Tây Tạng. Thế nhưng, chánh sách của Trung Nam Hải dường như nhằm vào những mục tiêu nào hoàn toàn khác biệt.

Trung Quốc thường xuyên theo đuổi một chánh sách "thuần hóa" những vùng "viễn Tây" của mình, thông qua biện pháp đồng hóa bằng kinh tế và di dân. Bắc Kinh đã áp dụng chánh sách thuế khóa đặc biệt để khuyến khích những nhà kinh doanh Tàu từ miền Đông đổ về miền Tây và đã nới rộng quy luật di dân. Khẩu hiệu "Thanh niên người Hán hãy Tây tiến" đã có thời vang dội. Những công ty quốc doanh đã đảm đương nhiều dự án xây dựng kết xù, như làm đường xe lửa hoặc xây dựng xa lộ với những nhà thầu và nhơn viên người Hán. Tiền thu nhập đều gởi về quê ở Trung Quốc, để làm giàu cho qưê cha đất tổ.

Những việc mở mang cũng như tài sản đổ vào Tây Tạng, người dân vùng này đâu có hưởng được bao nhiêu. Dẫu cho hàng mấy mươi năm đầu tư cho Tây Tạng mà tỷ lệ mù chữ vẫn còn nhiều hơn tỉnh Tứ Xuyên kế cận gấp bốn lần và số trường học cơ sở chỉ bằng một phần tư của những nơi khác trên đất nước Trung Quốc.

Thế Vận Hội tháng Tám tạo cho người Tây Tạng – cũng như nhiều dân tộc bị áp bức khác ở Trung Quốc – cơ hội thuận lợi to lớn nhứt, có thể là lần cuối cùng, để chứng minh cho thế giới thấy nền kinh tế huyền dịu của Trung Quốc còn nhiều bất công. Đối với người Tây Tạng, có thể đây là dịp may cuối cùng để giữ gìn quê cha đất tổ bằng ba phương diện dân tộc, tôn giáo và kinh tế, bằng không thì sẽ vĩnh viễn mất đi. Vì vậy nên cuộc vùng lên năm 2008 này khác hẵn hồi 1989, và đó cũng là lý do đưa thày tu và dân chúng Tây Tạng xuống đường.

Được hỏi xem sự bất công đang nổi lên có đáng ngại hay không thì người Hán trẻ tuổi, chủ nhơn của hộp đêm, trả lời một cách lạc quan, tin tưởng vào cung cách sử dụng người Hoa để lập lại ổn định: "Chỉ toàn người Hoa. Giờ thì có nhiều người Tứ Xuyên, tôi cảm thấy yên lòng."

Như vậy, đây là trận đánh cuối cùng, một mất một còn của người Tây Tạng. Một trận đánh hợp thời, đúng lúc lại thuận lòng người. Với chiến thuật "ba mặt giáp công" chắc là Tây Tạng phải thắng. Dứt khoát là, trong chiến lược có nhiều dạng thắng lợi.

 

Cố Nhân

Bài viết tổng hợp từ:

1.- "What They're Really Fighting for in Tibet" của Abrahm Lusgarten, Washington Post, March 19, 2008;
[http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2008/03/19/AR2008031903053.html?hpid=opinionsbox1]

2.- "Tibet – Il s'agit aussi d'économie", Corrier international, 21 mars 2008.
[http://www.courrierinternational.com/article.asp?obj_id=83912#]

 


SỰ
XÃ HỘI



TỦ SÁCH

Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

Mao, câu chuyện không được biết

Gene Sharp : Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên : Đêm giữa ban ngày

TRANG NGOÀI PHÙ SA

Việt nam Chiến tranh và Lịch sử

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.