Tây Tạng bất diệt
Trong
ba chục năm qua, lãnh đạo Trung Quốc đã cho thấy có khả năng đối
phó lại diễn biến của tình hình một cách trên mức trung bình.
Đảng cộng sản cầm quyền của Tàu đã có một thái độ thực tiễn và
linh động để duy trì quyền lực, trong lúc bức Màn Sắt của Liên
Xô cũ đã bị sụp đổ nhiều mảng đáng kể dọc theo biên giới Trung
Quốc. Vậy mà trong khi Đảng cộng sản Trung Quốc đã chứng minh
được là có khả năng nhận diện và giải quyết được một số lớn vấn
đề - từ nhu cầu cải tổ kinh tế một cách kiên quyết, chí đến nhu
cầu cân bằng tăng trưởng kinh tế giữa nông thôn và thành thị -
vùng đất Tây Tạng vẫn còn là nhược điểm của họ.
Sau gần hai mươi năm tình hình Tây Tạng được tương đối im lìm
thì những cuộc phản kháng mới đây, xuyên suốt những phần đất Tây
Tạng thuộc Trung Quốc đã làm cho Bắc Kinh bị hụt hẫng. Sau những
cuộc xáo trộn hồi năm 1980, chánh sách của Đảng cộng sản Trung
Quốc đối với Tây Tạng là xử sự nghiêm khắc với thành phần bất
đồng chánh kiến, đồng thời tìm cách phát triển kinh tế cho khu
vực. Tập đoàn lãnh đạo Trung Quốc hy vọng là khi cuộc sống được
thạnh vượng thì người Tây Tạng sẽ gần với trung ương hơn và sẽ
cho người Tây Tạng thấy rằng Đảng cộng sản Trung Quốc, chớ không
phải Đức Đạt Lai Lạt Ma, làm cho đời sống của họ sung sướng hơn.
Trường hợp mở đường xe lửa Bắc Kinh-Lhassa chỉ là một trong các
điển hình của biện pháp nói trên. Tuyến đường sắt đó cũng là một
bằng chứng cho thấy Bắc Kinh tin tưởng rằng giải pháp của mình
đã thành công. Ngày một ngày hai, Khu Tự Trị Tây Tạng đã được mở
cửa đón du khách, và đền thờ, chùa chiền, một thời là sào huyệt
của những nhóm đối kháng, nay đã được phép sinh hoạt trở lại.
Tuy vậy, những biến cố trong thời gian vừa qua chứng minh rằng
nhà cầm quyền Trung Quốc đã không bắt mạch được nhân dân Tây
Tạng một cách chính xác. Sự thiếu sót đó chung quy là do Trung
Nam Hải không thấu hiểu được một xã hội coi trọng vấn đề tinh
thần hơn điều kiện vật chất.
Dẫu cho Trung Quốc có coi Đức Đạt Lai Lạt Ma là gì đi nữa, là
"kẻ hiểm độc cố tình gây chia rẻ", người Tây Tạng trung bình vẫn
tin tưởng rằng nhà lãnh đạo tinh thần của họ là "Đức Phật Sống",
một niềm tin tưởng sắt đá, không một bả lợi danh nào, kể cả "xe
lửa lên Trời", cũng không đổi lấy được. Vấn đề của Tây Tạng, do
vậy, đâu phải là chuyện độc lập hay đô hộ, như người ta thường
suy diễn, nhưng là tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng. Ở Tây
Tạng, một niềm tự do như vậy đồng nghĩa với tôn sùng Đức Đạt Lai
Lạt Ma.
Ở Tây Tạng, có một tấm lòng sùng đạo thầm kín, được thể hiện qua
những cây cờ của những người cầu kinh phất phơ theo gió, qua mùi
hương khói và mùi đèn mỡ bò Tây Tạng lảng vảng trong không gian
và qua tiếng cầu kinh của người hành hương đi quanh những đền
chùa của Lhassa, bất cứ lúc nào trong ngày. Ngoài ra, lòng sùng
đạo này đã làm cho Tây Tạng khác hẳn với phần còn lại cùa đất
nước Trung Quốc, vốn theo chủ nghĩa thế tục một cách khác
thường.
Ngay trước khi cộng sản chiếm Hoa Lục hồi năm 1949 – sau đó
chuyện thờ cúng đi đạo đã bị phê phán, coi như là tin tưởng dị
đoan theo kiểu phong kiến - chuyện tôn giáo của nước Trung Hoa
người Hán cũng khác biệt với Phật giáo Tây Tạng. Khổng Giáo và
triết thuyết nhà nước đã tạo ra lối suy nghĩ chủ đạo của Trung
Quốc, chủ yếu bám chặt vào những vấn đề thường tình của hiện
tại, ít khi quan tâm tới những vấn đề siêu hình hay linh thiêng.
Người Trung Hoa có một truyền thống Phật Giáo - được du nhập vào
Trung Quốc từ Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ I Công Nguyên - trên
bình diện thực hành nhiều hơn là trên phương diện tâm linh. Nên
chi, Phật Giáo không có một địa vị ưu thế trong tín ngưỡng của
Tàu. Dẫu sao đi nữa, lịch sử triết học và tôn giáo đa dạng của
Trung Quốc cũng đột nhiên bị tan rã trong thời Cách Mạng Văn Hóa
(1966-76), khi đền, chùa và những nơi thờ phượng trên khắp đất
nước đều bị đập phá và sư sãi bị đưa đi rong và bị đánh đập
ngoài đường phố. Nhân dân bị bắt phải học tập và tin tưởng vào ý
thức hệ cộng sản, thay vì những ý tưởng tôn giáo.
Đã có nhiều thay đổi sau này, trong thời kỳ hậu đổi mới chạy
theo kinh tế thị trường với mô hình cộng sản, "mèo trắng mèo đen
gì cũng 'mấm-sốt', miễn là bắt chuột". Thiên hạ chạy theo mãnh
lực của đồng nhân dân tệ, chỉ còn biết "lễ bái" ngân hàng và
những máy rút tiền. Nhưng trong khi tinh thần trọng ngân có thể
đã thay thế phần nào nhiệt tình cách mạng thì một niềm tin đích
thực mới cũng đã xuất hiện và được Đảng tán thành. Dù trên danh
nghĩa vô thần, Đảng cộng sản Trung Quốc đã chuyển hóa từ tình
trạng cách mạng thành một thế lực thực tế và thực tiễn, coi
những triết thuyết truyền thống, như Khổng Giáo và Phật Giáo,
với những chủ trương coi trọng sự hài hòa và trật tự, là vô tích
sự, chẳng ích lợi gì.
Dẫu cho vấn đề tự do tôn giáo từng bước lần hồi nẩy nở ở Trung
Quốc, Bắc Kinh vẫn áp đặt nhiều luật lệ khắt khe để gò bó những
loại tự do đó. Những bậc giáo phẩm chùa chiền, đền thờ và thánh
đường đều phải được Đảng chỉ định và bổ nhiệm. Mọi địa điểm thờ
cúng, tụng niệm phải được "đăng ký" với chánh quyền. Hơn thế
nữa, dân chúng chỉ được tự do đi đạo, nếu như tiếp tục nhìn nhận
bộ chánh trị là thẩm quyền tối thượng, thay vì lãnh tụ của tôn
giáo mình.
Ky Tô Giáo, với tư cách sùng đạo vượt ra ngoài vòng cương tỏa
của nhà nước, phải bị kiểm soát gắt gao và bang giao giữa Bắc
Kinh với Tòa Thánh Vatican đã có vấn đề từ năm 1951. Những tín
đồ của Nhà thờ Tin Lành thường hay tập họp không chánh thức ở
những tư gia hoặc những địa điểm khác hơn những thánh đường đã
được "đăng ký" dễ bị giải tán. Những con chiên thuộc tín ngưỡng
khác hơn năm tôn giáo đã được chánh thức công nhận như, Phật
Giáo, Hồi Giáo, Lão Giáo, Tin Lành và Ky Tô Giáo đều bị nghi
ngờ.
Vì Đảng cộng sản Trung Quốc không cho phép người ta sùng đạo,
nếu không tiếp tục thần phục Đảng nên người dân Tây Tạng, với
bản chất tôn thờ đạo giáo và tin tưởng vô biên ở Đức Đạt Lai Lạt
Ma, đã trở nên vấn đề phiền toái cho Trung Quốc.
Mùa
hè năm 2006, một nhà báo người Ấn đi thăm Lhassa, trong phái
đoàn ký giả trên chuyến tàu đầu tiên, nối liền Bắc Kinh với
Lhassa. Nơi nào ông đi qua trong thành phố, ông cũng cảm thấy
như râm ran một niềm hứng khởi, chỉ vì màu da và quốc tịch Ấn
của ông. Những người bán hàng kỷ niệm bên đường, những nhà sư
trong đền Potala, các hướng dẫn viên du lịch, những vị khách
hành hương có tuổi, tất cả những người dân với áo quần màu sắc
sặc sỡ của Lhassa đó đều có một ước muốn như nhau là hỏi chuyện
nhà báo về Đức Đạt Lai Lạt Ma của họ.
Cặp mắt long lanh đầy tính hiếu kỳ, những người đó vồn vã hỏi
nhà báo đã đến Dharamsala chưa, vì đó là nơi tạm dung của Đức
Đạt Lai Lạt Ma và chánh phủ Tây Tạng lưu vong. Có người hỏi nhà
báo có gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma không? Nhiều người còn đưa cho ông
ký giả xem ảnh của nhà lãnh đạo tinh thần, dẫu cho Bắc Kinh cấm
dân chúng mang trong người "thánh tượng" đó.
Điều hiển nhiên là cho tự do tôn giáo ở Tây Tạng mà lại không
cho giáo dân tự do tin tưởng ở Đức Đạt Lai Lạt Ma là chuyện phi
lý. Đối với hàng trăm nhà sư ở Tây Tạng bị ép buộc phải tố giác
Đức Đạt Lai Lạt Ma, Đức Phật Sống của họ, là điều bắt buộc phải
làm thường ngày. Đảng cộng sản Trung Quốc cũng tìm cách xâm nhập
vào những nghi thức tôn giáo Tây Tạng bằng phương cách riêng của
mình.
Hồi gần đây, Bắc Kinh có tuyên bố là chỉ có Đảng mới có thẩm
quyền chấp nhận chuyện hiện thân, một tiến trình chọn lựa "Đức
Phật Sống" từ tuổi ấu thơ. Qua bài diễn văn đọc hồi năm ngoái,
Bí Thơ Đảng Ủy Khu Tự Trị Tây Tạng, còn lớn tiếng, mạnh miệng
cho rằng "Ủy ban trung ương Đảng là Đức Phật thật sự của Tây
Tạng"! Nhưng, dường như Bắc Kinh không nắm bắt được cơn phẫn nộ
tột cùng mà lời nói báng bổ như vậy đã tạo nên trong lòng của
những người tràn đầy tín ngưỡng.
Ở Ấn Độ, chỉ mổ thịt một con bò không thôi cũng có thể gây nên
một cuộc xáo trộn, trong khi hàng trăm con bò bị bỏ chết ngoài
thiên nhiên. Mới đây, báo chí đăng biếm họa xiên xỏ Giáo chủ
Mahomet đã làm nổi lên làn sóng phản đối trên khắp thế giới.
Nhiều người nghĩ rằng chuyện phỉ báng và cố tình chỉ trích vị
lãnh đạo tinh thần Tây Tạng cũng phải được xử sự như vậy.
Chiến lược của Bắc Kinh về vấn đề Tây Tạng là chờ cho Đức Đạt
Lai Lạt Ma viên tịch, vì Trung Nam Hải tin tưởng rằng khi Ngài
không còn nữa thì người Tây Tạng sẽ nghĩ đến phồn vinh vật chất
mà nhà nước Tàu hứa hẹn đem lại, rồi ít quan tâm đến việc sùng
bái vị "vương thánh", một nhơn vật chẳng đem đến cho họ bao
nhiêu lợi ích cụ thể. Vậy mà, đâu có bao nhiêu chỉ dấu cho thấy
là tình hình đó sẽ xảy ra. Một cư dân Tây Tạng sinh sống ở Bắc
Kinh nói rằng: "Chúng tôi, người Tây Tạng, sẽ không bao giờ tự
bán mình. Linh hồn chúng tôi đâu phải là một món hàng."
Cung cách theo đó người dân Tây Tạng phản ứng lại đường lối mở
cữa của Bắc Kinh trong vòng ba mươi năm qua cho thấy rằng Đảng
cộng sản Trung Quốc phải biết nhận thức đời sống tâm linh của
dân Tây Tạng. Người dân trên đỉnh cao của "nóc nhà thế giới"
sống vì tín ngưỡng và tâm linh nhiều hơn, chớ không phải như
những người Hán cộng sản, chỉ biết có vật chất.
Cố Nhân
Viết phỏng theo bài "Why Beijing just can't grasp Tibet"
của Pallavi Aiyar, Asia Times, ngày 10.4.2008.
[http://www.atimes.com/atimes/China/JD10Ad01.html]
|