Đôi
điều nhân một chuyến về
1.
Người thân tôi qua đời, chúng tôi về chỉ còn kịp đi thăm mộ cùng
với mẹ tôi vì hôm tang lễ mẹ tôi không đưa tiễn được.
Mới đó mà đã gần ba mươi năm, tôi mới đi lại lộ trình Sài
Gòn-Long An. Ngày trước đi Bến Lức là đi về miền quê, hai bên
đường ruộng lúa xanh ngát với những cánh cò trắng bay la đà.
Không khí nhàn nhã, êm đềm có tầm nhìn hút mắt đó đã tan biến
mất! Sài Gòn-Long An bây giờ là những khu phố san sát, bụi mù
và chật cứng! Sài Gòn như con quái vật chưa no mồi nên đã và
đang nuốt chửng từng thành phố nhỏ lân cận. Lộ trình Sài
Gòn-Long An lượng xe không dữ dội như xa lộ Biên Hòa nhưng cũng
phải chen lấn, luồn lách, chạy từ từ vì cứ phải ở trong thành
phố! Ngày xưa cây cầu Bến Lức xe chạy hai chiều, bằng bê tông
cốt sắt, khá “hoành tráng”, bây giờ chỉ dành để chạy một chiều
về hướng Sài Gòn, còn chiều kia đã có thêm một cây cầu mới song
song. Qua khỏi Bến Lức xe quẹo trái, bắt đầu vào đồng ruộng.
Được một đoạn không xa thì xe không còn đường chạy tiếp nên
chúng tôi lội bộ. Vẫn kinh rạch, vẫn những thân dừa ngã ngớn
soi bóng trên ao nhưng tôi chưa cảm thấy mùi ngai ngái thân
quen. Có thể tôi mang tâm trạng khác, nhưng cũng có thể bụi mù
phố thị đã ùa theo vào đây làm ô nhiễm không khí trong lành. Cô
em dẫn đường đi thoăn thoắt nên chốc chốc lại dừng chân đợi mẹ
tôi và tôi. Tôi chậm rãi đi sau cùng, cũng dành thời gian để
quan sát. Vào sâu, không khí thật sự vùng quê mới hiện ra. Qua
một xóm nhà lá có mấy người ngồi trước hiên, hình như đang uống
cà phê, màu da sạm nắng và mặc độc cái quần đùi đang phì phà
khói thuốc nhìn khách lạ. Tôi chụp ảnh đàn vịt con vàng mượt
lông tơ lem luốc sình, đang rúc rỉa bên bờ ao. Mấy căn nhà khác
trống hoang trống hoách, không rào giậu. Màu lá bần xanh ngắt,
rễ ngoằn ngoèo nổi trên mặt sình màu xám đậm. Bầy thòi lòi nằm
dương đôi mắt thao láo với trăm ngàn vết bò rối rắm như tranh ấn
tượng. Cái tĩnh mịch vùng quê
Nam
bộ phải giờ nầy tôi mới cảm nhận lại được.
Hai ngôi mộ người thân nằm chơ vơ trên đồng ruộng khô nước. Hai
cây mía (lau) cắm ở chân mộ vàng khô lá. Theo tục lệ, hình như
đây là loại gậy đuổi tà ma khi chôn cất(?) Vôi vữa còn vương vãi
đây đó nhưng chung quanh vắng ngắt. Em tôi cắm một bó hoa vào
chiếc bình mà thợ chưa kịp gắn vào bia mộ. Cái mới mẻ của ngôi
mộ vừa xây hình như chưa phù hợp được với cái mộc mạc yên lành
của quê nghèo. Ngày trước đi trên đường tôi vẫn thường thấy rải
rác những ngôi mộ nổi bật trên các thửa ruộng ngập nước ven
đường, và ở đâu đó (hình như đường đi Rạch Giá) lại có một ngôi
mộ xây kiên cố nhưng chôn theo thế đứng vì sợ nước làm ngập đầu
người chết(?) Người miền
Nam
vẫn thường chôn rải rác không có nghĩa địa, hai ngôi mộ người
thân của tôi cũng vậy. Hai cô em tôi lại băng qua bên kia cánh
đồng ruộng, xa lắc, đề thắp nhang cho vài ngôi mộ người quen
khác. Cảnh đồng không mông quạnh chợt biến đi khi tôi nhìn thấy
mấy cột lớn đang nhả khói của một nhà máy phía đường lộ chính
vừa đi vào.
Khi trở về, vì phải ghé thăm một gia đình bên quận 8, nên xe rẽ
vào một đoạn đường mà mỗi bên có 3 làn xe với vạch kẻ đứt đoạn
bằng sơn trắng dài mười mấy cây số và một cây cầu ngắn xây kiểu
cọ cho bắt mắt. Mặt đường đen bóng, rộng thênh thang. Đường
phân ranh ở giữa trồng cây và hoa khá đẹp, đang có công nhân
chăm sóc. Có nơi đủ rộng cho một ao cá hẹp đang phản chiếu mây
trời, chạy dài giữa hai dòng lộ, nhưng khu vực nầy lại rất ít xe
nên cho cảm tưởng như đang ở phương Tây. Anh tài xế cho biết
đây là đoạn đường chạy vào Phú Mỹ Hưng là khu vực xây cất đặc
biệt để rao bán cho Việt kiều được quảng cáo tràn lan trên Net.
Tôi chợt nghĩ đến cảnh chui rúc, bờ bụi, muỗi mòng, trốn tránh
khi vượt biên và ngày đó báo đài không ngớt kết án là bọn phản
động ôm chân đế quốc đi tìm bơ thừa, sữa cặn.
2.
Tôi và một người bạn đón taxi ra phố. Tôi nói với anh taxi:
“Anh chạy xuống hồ Con Rùa”. Nhìn chúng tôi, anh hỏi: “Hai chú
ở khách sạn Phạm Văn Hai hả?” Tôi cười, không trả lời. Tôi
đang mặc cái T-shirt trắng với cái logo nhỏ của hãng hàng không
Delta “đền” vì toàn bộ hành lý 3 cái valise của tôi bị hãng làm
thất lạc. Khi khai báo với cô phụ trách ở phi trường tôi được
trao cho một túi nhỏ trong đó có cái T-shirt nầy, một bàn chải
thật nhỏ với chút kem đánh răng loại dùng trên máy bay và một
lưỡi dao cạo râu. Không hiểu là khách đàn bà có khác hơn
không(?) Tôi mặc tuềnh toàng như vậy nhưng cũng lộ diện với anh
taxi trẻ! Chạy một quãng tôi khen anh taxi: “Anh lái như vậy
là đúng lộ trình ngắn nhất, khác với anh hôm qua cứ chạy lòng
vòng vì nghĩ là tôi không biết đường”. Anh trả lời: “Có gian
như vậy thì cũng chả được hơn bao nhiêu đâu chú ạ! Hãng tính
tỉ lệ Km thì cũng đâu có ăn cả được?”. - “Thế anh kiếm một ngày
được khoảng bao nhiêu?”. - “Dạ, không chừng chú ạ nhưng một
tháng cũng khoảng ba, bốn triệu. Một ca làm là 24 giờ”. Tôi
ngạc nhiên: “Anh bảo chạy 24 giờ liền?”. – “Họ chia ca như
vậy”. Nghe anh nói giọng Bắc 75 nên tôi hỏi: “Anh ở Bắc vào hay
sinh trong nầy?”. – “Dạ, cháu vào được hơn 4 năm rồi”. - “Bằng
lái của anh là thứ thiệt hay giả? Tôi nghe nói thời buổi nầy
thì đủ loại giả, kể cả vợ chồng”. Anh taxi cười: “Dạ, cháu thì
bằng thật nhưng người lái với bằng giả nhiều lắm chú ạ”. – “Tại
sao lại phải dùng bằng giả?”. – “Vì chạy làm bằng giả chỉ tốn 2
đến 3 triệu là có ngay, còn bằng thật thì khoảng 5, 6 triệu
nhưng phải chờ 6 tháng”. Tôi lại ngạc nhiên: - “Tại sao lại
phải chờ đến 6 tháng?”. - “Vì phải đăng ký và theo một khóa
học. Thủ tục rất nhiêu khê và nhiều khi mấy ổng bày vẽ ra để dễ
bán bằng giả cũng nên. Nhưng bằng giả hay thật cũng từ một gốc
mà ra cả đấy, chỉ khác là bằng giả thì không có hồ sơ gốc cho
nên nếu bình thường công an không thể phát hiện chỉ khi xảy ra
tai nạn lúc đó họ mới truy hồ sơ”. Tôi ngẫm nghĩ: “Phải chăng
vì bằng giả nhiều nên tỷ lệ tai nạn giao thông tại Việt
Nam
được coi là cao nhất?”. Anh taxi phân trần: “Cháu chịu thôi.
Nhưng theo cháu, dùng bằng giả thì phải chạy cẩn thận hơn chứ
chú ạ!”.
Đến hồ Con Rùa, tôi định vào một quán cà phê ngồi nhìn, vì ở đây
là trung tâm những biến động Hoàng Sa-Trường Sa vừa rồi. Tôi
cũng biết chắc những nơi như thế nầy đang đầy ắp công an chìm
nổi. Tôi muốn nghe cái hơi hướm chung vì lãnh sự quán Trung
cộng và Thành Đoàn thanh niên cộng sản Việt
Nam
cũng quanh đây. Nóng quá, anh bạn tôi cởi cái áo khoát vắt lên
vai đẩy tôi đi về hướng nhà thờ Đức Bà.
Hai, ba chiếc bus chở đầy du khách đổ xuống trước cửa chính nhà
thờ. Nghe ngôn ngữ lạ tai nên tôi đoán có thể số du khách nầy
đến từ Đông Âu. Hai cô hướng dẫn viên mặc áo dài màu sáng tươi
nhưng héo nhàu trên khuôn mặt. Trời nóng bức làm tóc, mồ hôi và
trang điểm dính vào nhau. Tà áo dài chỉ đẹp ở trời mát và gió
lộng còn hoàn cảnh như thế nầy thì chưa chắc đã gây được
“ấn-tượng-Việt-Nam” và biết đâu ngược lại? Tôi ngồi lại dưới
chân tượng Đức Mẹ nói chuyện với một anh thợ chụp hình về những
kỷ niệm cũ. Anh là hình bóng tôi hơn hai mươi năm trước. Ngày
đó tôi miệt mài nơi địa bàn nầy để kiếm sống khi ra khỏi tù. Số
thợ cũ đã tản mác không biết về đâu chỉ còn lại hai người nhưng
tôi không gặp. Chị Hai “dao lam” cũng còn bán cà phê bên kia
đường nhưng không có “quán” như trước. “Quán” cà phê của chị
bây giờ là chiếc ấm xách tay di động để né công an. Cái biệt
danh của chị là do đám thợ hình “ác ôn” chúng tôi đặt. Chị có
thân hình thật mảnh. Cà phê của chị thật ngon nên nổi tiếng với
biệt danh “cà phê nhà thờ” (khoảng thời gian 1983-86) mà giá
không đắt, nhưng vì đám thợ nghèo cứ uống ghi nợ, đến khi có
tiền trả thì số tiền đã lớn đến không ngờ và biệt danh “Hai dao
lam” ra đời! Chị thật kỳ lạ! Như một loài dây bám chặt vào hè
phố. Loài dây thật nhỏ, thật mảnh nhưng bền bỉ đến lạ thường.
Tôi không ngờ, hơn hai mươi năm gặp lại, chị vẫn vậy vậy cho dù
tóc đã trắng khá nhiều. Hay chị đã mảnh đến độ không thể mảnh
hơn nên bây giờ tôi vẫn nhận ra?
Hai chúng tôi la cà theo Tự Do, vào tiệm sách Xuân Thu chật cứng
sách vở và người, rồi ra trung tâm thành phố. Mặt tiền nhà hát
(Tòa nhà Quốc Hội thời Việt Nam Cộng Hòa) bây giờ có thêm mấy
bức tượng kiểu Hy Lạp đứng hai bên, nơi mà mới đây công an đàn
áp nhóm Nhà báo Tự Do căng biểu ngữ cầm tay bằng vải đen, nổi
trên đó là năm cái còng Olympic Bắc Kinh 2008, để phản đối Trung
cộng công khai hợp thức hóa việc lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa
nhưng nhà nước Việt Nam tùng phục một cách khiếp nhược nên cố
tình giấu kín. Hôm nay một tấm biểu ngữ khác hoan hô mấy trăm
người nào đó đậu được bằng “thông dịnh viên quốc tế” đang treo
ngang cửa ra vào! Không hiểu như vậy thì khi thi đỗ các bằng
cấp đại học có “oai” như bằng thông dịch viên đang được tổ chức
ra trường tại đây không?
Bức tượng lính
Thủy Quân Lục Chiến chỉa súng vào tòa nhà Quốc hội đã bị giựt
sụp ngay sau 30-4, bây giờ là cái hồ nước cạn màu rêu nhạt với
một bức tượng gây ấn tượng trông như mẹ bồng con. Tượng Đức
Trần Hưng Đạo chỉ tay ra biển vẫn còn đó. Bến Bạch Đằng không
thay đổi nhiều. Một quán nước tại đây, không được sạch sẽ mấy,
tôi uống một hộp coke 10oz, thay vì 12oz như thông lệ, 15.000
(tương đương 1 đô la) Bên Thủ Thiêm nổi lên mấy bảng quảng cáo
thương hiệu nước ngoài thật lớn. Hình như cái gì dính tới
ngoại quốc cũng có được một chỗ đứng tốt hơn, Việt
Nam
quả là một dân tộc sính ngoại! Bàn cạnh tôi, một ông ngoại quốc
đang cắm cúi gõ trên laptop còn đầu óc tôi chợt ráo hoảnh. Tôi
ngồi nhìn hai em bé khoảng chín mười tuổi đang bì bõm trên sình,
dưới chân đầu cầu, đưa vợt bắt từng con cá nhỏ tí xíu bỏ vào bọc
nylon, không biết hai em bắt cá làm mồi hay để ăn(?). Dòng sông
Bến Nghé đục ngầu vẫn cuồn cuộn trôi.
3.
Mua vé xe bus Phương Trang đi Đà Lạt, bến xe chính ngay tại khu
phố “Tây Ba Lô” Đề Thám. 90.000đ/vé. Người nhà cho biết đây là
loại xe “cao cấp” chỉ dành chở người nước ngoài nhưng mới mở
rộng thị trường để lấy thêm khách Việt
Nam.
Tôi đọc dòng chữ bằng inox bóng loáng bên hông xe, gần cửa lên
xuống: Aero Express High Class. Tài xế và lơ mặc đồng phục, cà
vạt. HH và tôi thủ sẳn nước khoáng với bánh mì vì ngại ăn dọc
đường nhưng vừa ngồi vào ghế mỗi người được trao thêm một chai
nước nước lọc, một khăn giấy ướp nước thơm đựng trong bọc
plastic mang tên hãng xe. Xe chạy đúng giờ, anh lơ thông báo lộ
trình nơi dừng xe giữa đường, nơi ăn trưa và ước tính giờ xe sẽ
đến Đà Lạt. Chuyến đi khá thoải mái. Có một điều đặc biệt là
tại một điểm dừng ngắn cho hành khách giải quyết nhu cầu, chúng
tôi theo đám đông và ngạc nhiên khi phải sắp hàng! Nhìn phía
trước có vẻ lộn xộn, thì ra là khách phải cởi bỏ giày dép để lại
ở bậc tam cấp và chỉ dùng dép riêng của nhà vệ sinh! Một anh
“Tây Ba Lô” lẹ tay buộc giày riêng lên ba lô đang đeo, trước khi
mang dép nhà vệ sinh, phải chăng đây là phản ứng “tự nhiên”
trước nạn cắp vặt(?) Tôi cũng hơi lo ngại nhưng không kịp phản
ứng. Vừa sợ mất giày, vừa sợ phải mang đôi dép ướt nhèm nhẹp
của nhà vệ sinh! Hú vía, mọi chuyện đều tốt đẹp và có người
giải thích là phải làm như vậy để nhà vệ sinh sạch sẽ hơn.
Chúng tôi xuống xe khi cách Đà Lạt gần 30 km. Đây là một vùng
quê nhưng cũng đã đổi thay khá nhiều nên khó nhận ra nếu không
có người nhà đứng đón. Tôi quyết định sẽ ở lại đây trọn tuần
với gia đình và cũng để biết thực tế đời sống của người nghèo.
Cầu Bồng Lai được đúc bê tông, đường đã tráng nhựa chạy thông
đến Đơn Dương. Đi đến mảnh đất cũ của gia đình, cái
“plantation” 8 mẫu vuông vức với ao cá, vườn cà phê, cây trái,
mà cả đời ba má chúng tôi đầu tư vào đấy từ đất rừng, đã bị cướp
trắng ngay sau 1975, lòng tôi quặn lên. Hết bị cưỡng bức “hiến
điền” lại đến bị hăm dọa đưa đi học tập cải tạo về tội “tư sản
mại bản”, cuối cùng gia đình phải chạy về miền Tây lánh nạn.
Chạy lòng vòng nên tán gia bại sản, đến năm 1991 mới dám quay về
lại thì không còn một chỗ để cắm dùi! Khiếu kiện liên tục mười
mấy năm, ba má chúng tôi mới cầm được “quyển sổ đỏ” mà “chính
quyền” vừa đền bù, là một miếng đất mặt tiền, dưới trũng sâu,
5x15 mét gần ngã ba Phi Nôm đi Đơn Dương! Ba má chúng tôi đang
ở tuổi 90, má tôi bỏm bẻm nhai trầu, tự an ủi: “Thôi, của đổ hốt
lại được gì hay nấy!”
4.
Tôi đến thác Prenn không phải để du lịch mà để tìm lại dấu vết
xưa. Đoạn đường từ Liên Khương đến Prenn nhà cửa san sát. Hai
ngôi làng K’long A, K’long B của người K’ho biến mất. Trước
1975 đây là đồng ruộng, là đoạn đường nguy hiểm nhất thường bị
du kích Việt cộng đắp mô, đặt mìn. Lúc đó những ai du lịch Đà
Lạt khi đi ngang qua địa điểm nầy đã thấy đồng bào người Thượng
mặc xà rông, đóng khố và phần nào nét sinh hoạt của họ qua hình
ảnh nhà sàn, heo gà chạy lông rông, là một báo hiệu đặc thù về
Đà Lạt. Hình ảnh tự nhiên đó đã mất. Nếu từ phi trường Liên
Khương đến Prenn có nhu cầu giao thông tăng vọt thì, thay vì mở
rộng con đường có sẳn, vừa tiện, vừa rẽ, người ta lại cầu kỳ đi
xẻ một con đường mới chạy dọc theo chân núi Voi. Con đường mới
như là một vết thẹo vĩnh viễn, tàn nhẫn trên khuôn mặt mĩ miều
của thiên nhiên để mặc cho nó một cái tên thời đại là “đường cao
tốc”! Đoạn đường cũ ôm ấp quanh mấy ngọn đồi nhỏ, quanh năm
xanh mát trước khi đến cầu Prenn là báo hiệu cảnh đồi núi nên
thơ của đường đèo trước mắt, người ta tàn phá không thương tiếc,
chỉ để cuối con đường cao tốc gặp nhau tại đầu cầu Prenn. Nơi
đây được mở thật rộng, mỗi bên 3 làn xe với cổng trả tiền toll
giống như chuẩn bị đi vào một đô thị công nghiệp lớn!
Thác Prenn không còn thiên nhiên. Cứ trông như một ngọn thác
giả, nước đục ngầu. Chủ trương khai thác thương mại tối đa nên
những quán nước, quán bán đồ lưu niệm, đặc biệt lại có một cầu
treo một buồng duy nhất (cable) chỉ dài vừa đủ chiều ngang thác
nước bon chen giữa cảnh trí thiên nhiên vốn dĩ đã thật hẹp. Đôi
vợ chồng đà điểu
cao quá đầu người có lông tơ xám mịn từ cổ trở lên với đôi mắt
ngơ ngác trông thật đáng yêu nhưng không phải được thong dong
cho khách thưởng ngoạn ném thức ăn! Đôi vợ chồng nầy đang phải
“lao động”(!) và bị nhốt vào vòng kẽm gai với chiếc yên da màu
đen đợi đưa du khách tham quan giá 20.000, cỡi chụp hình 10.000
một lần! Một chú ngựa tía được trang trí đặc biệt để khách trèo
lên ngồi chụp ảnh ngay chân thác. Nếu không trèo lên mà chỉ
đứng bên cạnh để chụp cũng phải trả 5.000. Nhìn về cuối khu vực
thác, tôi thấy trên lưng 2 chú voi đang lố nhố mấy người khách
nước ngoài! Khi tôi leo trở lên dốc đang phân vân nửa về, nửa ở
thì cùng lúc hệ thống cable vận chuyển, tiếng kêu như tiếng cưa
máy của ai đó đang tàn phá thiên nhiên! Bên cạnh đó một tấm
biển chỉ đường lên “Đền bà chúa thượng ngàn” độ dốc thật đứng.
Tò mò, tôi leo lên. Toàn bộ đỉnh một ngọn đồi thông thiên nhiên
bị cắt gọn! Một ngôi “đền” với võng lọng vàng son chật cứng
trong ba gian thờ, có một cái sân thật thoáng mát, trông còn
thật mới. “Đền” thật vắng, tôi hỏi người đàn ông duy nhất, (tôi
đoán) chủ ngôi đền, trạc 60, về lai lịch “bà chúa”. Ông giải
thích là bà chúa có từ đời vua Lê, chuyên bảo vệ núi rừng. Ông
hướng dẫn tôi quan sát quanh “đền”, chỉ tôi vị trí “long tàng”
là con suối đang chảy xuống thác, phía sau lưng và núi Voi
“phục” ngay trước mặt “đền” là địa lý có một không hai! Ông
khoe ba “Đền Hùng” cũng ở các đồi bên cạnh và thắng cảnh nầy đã
được ông Nguyễn Khoa Điềm (lúc bấy giờ đang là Trưởng ban Tư
tưởng, Văn hóa Trung ương Đảng) phong làm “thắng cảnh quốc
gia”! Bây giờ thì tôi mới hiểu ra chiếc xe jeep mui trần, gắn
loại vỏ đặc biệt để chạy trên đường ciment có lằn ngang làm sẳn,
đặt ở ngay chân thác dành cho du khách nào thích mướn để lên
“viếng Đền Hùng”!
Nếu có “Bà chúa thượng ngàn” là người bảo vệ thiên nhiên thì “bà
chúa” có đồng ý cho cắt ngang một ngọn đồi nguyên sinh để lập
đền thờ không? Đã là “bà chúa” thì có cần “long ẩn, voi phục”
để làm vua chúa người đời(?) hay đây là mộng vương tướng lỗi
thời của ai đó vào đầu thế kỷ 21? (Mong thay những dòng nầy đến
tay ông)
Đà Lạt là thành phố nổi tiếng về du lịch nhờ phong cảnh và khí
hậu nhưng người ta đã không bảo vệ, tôn tạo mà chỉ biết khai
thác thương mại như khai thác thân xác một cô gái nõn nà nơi
chốn lầu xanh!
Từ nơi tôi ở lên Đà Lạt bằng xe bus 9.000đ/vé. Ngày xưa, không
một góc phố, một con hẽm nào không có dấu chân HH và tôi nhưng
hiện tại chúng tôi đang thật sự là người khách xa lạ. Có gõ dấu
giày mình trên lối cũ mới thấm hết được cái hoang vắng trong tâm
hồn. Chúng tôi ghé thăm một người bạn cũ còn sót lại. Có lẽ
anh là con số hiếm hoi còn trụ lại! Nhìn anh, rồi nhìn hai tấm
ảnh lớn hơn phân nửa người thật, đang treo trong phòng ngủ, anh
mở cửa cho chúng tôi xem, mới thấy rõ hết dấu vết của thời
gian. Một tấm, anh trong bộ quân phục đại lễ trắng đỏ, áo có
ngù, dây biểu chương màu bảo quốc huân chương đang đứng thế
nghiêm với thanh kiếm chỉ thẳng lên trời, tấm kia, bộ nhung phục
dạo phố mùa Đông với nụ cười tự tin của tuổi trẻ. Giọng anh
trầm tĩnh: “Bất công và bạo ngược khắp xã hội nhưng mình già rồi
đâu còn làm gì được nữa! Mới hôm rồi tụi nó gọi cả lô
người vượt-tường-lửa lên làm việc, may quá mình không dính.”
Tôi tế nhị hỏi chuyện khác khi vừa nghe hai chữ “may quá”. Hai
chữ thật vô tình nhưng đã nói lên một sự thật: sự đầu hàng
nghịch cảnh. Tôi hỏi anh có nghe các vụ biểu tình của dân oan,
của sinh viên về Hoàng Sa-Trường Sa, anh bảo “có nghe” với một
thái độ thật thờ ơ! Quay qua chuyện con cái, anh nói: “chúng
cũng đỗ đạt và đang làm cho hãng xưởng nước ngoài. Thôi, cứ để
cho tụi nó yên, linh tinh một đời như tụi mình có được cái gì
đâu? Chỉ thiệt lấy thân!”
Ngọn lửa đấu tranh của người Việt hải ngoại, vốn đã yếu vì chia
năm xẻ bảy, liệu có làm ấm lại được nỗi giá băng trong tâm thức
của những người “bám trụ”? Khi còn trẻ nếu ai chê mình “hèn”
thì chắc chắn sẽ tranh cãi đến cùng, hoặc đưa đến xung đột tay
chân, nhưng hơn ba mươi năm vô vọng và phải ép mình chịu đựng,
“hèn” giờ đây đã trở thành một triết lý sống?
Chúng tôi trở lại Sài Gòn cũng bằng xe bus Phương Trang. Lần
nầy tôi mua vé trước một ngày để chọn hai ghế đầu vì chúng tôi
muốn dễ dàng ghi nhận phong cảnh. Đúng giờ thì có taxi đến đón
tận nhà và đưa chúng tôi đến bến. Hai ghế đầu phía bên kia của
hai người vừa quá tuổi trung niên, có vẽ có địa vị xã hội, vì
bên ngoài rất đàng hoàng và suốt lộ trình, dù không muốn, tôi
cũng phải nghe loáng thoáng chuyện họp hội và lệnh lạc cho nhiều
người qua cell phone. Chúng tôi lại cũng bị phát hiện là ở xa
về, một ông bắt chuyện trước: “Anh chị là Việt kiều Mỹ hay
Canada?”
Ông tiếp: “Tôi có mấy đứa bạn từ Mỹ về cứ rủ tôi đầu tư nuôi cá
ở bên đó để bán cá sống trực tiếp cho các chợ Việt
Nam.
Tụi nó về rủ tôi đi chơi hoài.” HH và tôi không biết việc
thương mại nên đề tài lan man chuyện khác. Những bảng hướng dẫn
trong xe toàn là chữ Đại Hàn, chỉ duy nhất một tấm biển tiếng
Việt gắn trước
xe, ngay chỗ cửa lên xuống: “Vì lý do an toàn lái xe Phương
Trang luôn chạy tốc độ đúng qui định xin quý khách lượng thứ”
Tôi chỉ vào đó hỏi ông: “Tôi từ xa về nên mới tò mò, ông xem câu
viết! Tại sao tài xế chấp hành tốt luật pháp, hãng xe lại phải
“xin quí khách lượng thứ”? Ông ngạc nhiên, đọc kỹ lại
câu “slogan” mới bật ngữa! Tôi tiếp: “Phải chăng chính câu viết
nầy đã phản ảnh đúng thực trạng xã hội?” Ông kia chen vào: “Anh
chị có thấy sự đổi thay và có biết những chương trình rất
hoành tráng của đất nước không?” Ông khoe nhờ “đổi mới” nên
tăng trưởng kinh tế hạng nhất Á châu! Tôi tế nhị hỏi lại: “Ông
có thấy hãng xe cho chiếu DVD ca nhạc suốt dọc đường là hoàn
toàn được sản xuất ở hải ngoại?” Lúc đó hình như ca sĩ Duy
Khánh(?) mặc quân phục Dù với bê rê đỏ vừa hát xong bản “Người ở
lại Charlie” có kèm cả hình ảnh khói lửa từ đại pháo và xe
tăng. Tôi thêm: “Trước 1975, Đà Lạt-Sài Gòn đã có hai hãng xe
bus là Thống Nhất và Thành Lợi, khách muốn đi giờ nào cũng có
vé, tuy lúc đó xe chưa có máy lạnh và không rộng như xe đang
chạy nhưng 1/3 thế kỷ trước đã văn minh như vậy thì hiện tại,
nói chung, phải gọi là “đổi cũ” chứ sao lại đổi mới? Ông kia
trả lời thế: “Thì với mấy ổng là đổi mới còn với mình
là đổi cũ!” Tôi tiếp: “Cái giá phải trả cho đổi cũ
là sinh mạng 4-5 triệu người trẻ Việt
Nam,
ai chịu trách nhiệm?”
Một tuần lễ tại vùng quê, tôi có thì giờ mở TV nhiều lần. Chiếc
TV màu, thật cũ, mà giờ phát hình bình thường chỉ có 2 đài. Em
tôi nói nếu muốn nhiều đài thì có TV Cable, phải trả thêm
30.000đ/tháng (tức khoảng 2 đô la). Đài VTV-1 về tin tức.
VTV-3 giải trí (bóng đá và phim truyện Đại Hàn chiếm đa số).
Đặc biệt xướng ngôn viên của cả 2 đài nầy đều nói giọng Bắc.
Tuyệt nhiên không có giọng
Nam!
Hiếm hoi lắm mới nghe được giọng
Nam
là nhờ các phỏng vấn về vụ lúa bị sâu, rầy. Theo dõi tin tức
(khá kỹ) tôi thấy không có lý do nào để phàn nàn chính phủ. Tin
nào cũng thành công tốt đẹp. Chính phủ lúc nào cũng lo cho
dân. Hình ảnh các cấp lãnh đạo Đảng lúc nào cũng bình dân và ân
cần khi tiếp xúc. Những tin tức và hình ảnh của các viên chức
ngoại quốc ca ngợi Việt
Nam
được đưa lên rất nhiều. Cũng nhờ cơ hội nầy tôi mới biết nhân
dáng ông Trương Tấn Sang, đặc biệt ông không có đôi vành môi mà
cả khi nói lẫn cười miệng ông đều có hình chữ C úp. Hôm đó ông
đang ban thông điệp cho giới làm báo, viết văn. Câu hỏi chưa có
câu trả lời trong tôi là tại sao hai đài TV nầy chỉ dành đặc
biệt cho những người không có TV cable, là thành phần nghèo khổ
và toàn giọng Bắc(?)
Báo chí đã nói nhiều đến chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh,
khoảng cách ngày một lớn nhưng chưa thấy ai lưu ý khoảng cách
thông tin chênh lệch cũng không kém! Những người nghèo khổ vẫn
hy vọng Đảng sẽ đem đến hạnh phúc! Vẫn sống trong chờ đợi! Ắt
hẳn những người nghèo, những em bé lam lủ quanh năm vẫn tưởng
đời mình long đong, lận đận là do số phận. Hiện tại gần 80% dân
số Việt Nam sống ở miền quê, dưới mức nghèo khổ, đang là chỗ dựa
của Đảng và liệu Đảng có dám cho họ một lượng thông tin cần
thiết để hiểu được sự thật và, ít nữa, cũng theo kịp một phần
nào đó của văn minh nhân loại?
5.
Trước khi ra đi, em gái tôi trao tôi một DVD và một xấp hình
chụp hôm tang lễ của người thân để phân phối cho con cháu. Em
tôi nói: “Tụi nhỏ tổ chức ma chay cho cậu cũng được lắm. Cũng
hoành tráng lắm”. Tôi ngạc nhiên đến mở tròn mắt, thao láo
nhìn cô em mà một thời cũng từng làm ở Giám Sát Viện số 27 đường
Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn. Thì ra, ngôn ngữ tự nó có khả năng
xâm thực khi mà nhà nước chủ trương. Cho dù thế giới đang thu
hẹp nhờ xa lộ thông tin internet nhưng thuyết tuyên truyền nhồi
sọ của Goebelbs không phải là không còn hiệu lực! Cơ quan văn
hóa của Đảng và nhà nước đã đặt vào miệng báo chí, TV hai chữ
hoành tráng. Nhà nước muốn hoành tráng là thành quả
của đổi mới! Làm gì cũng nghe hoành tráng,
đọc gì cũng thấy hoành tráng. Tôi chợt nghĩ đến 4 chữ
phồn vinh giả tạo tại miền
Nam
sau ngày 30-4-1975!
Ngày đó bất cứ cái gì tốt đẹp đều là phồn vinh giả tạo!
(March, 08)
|