Tinh thần thượng võ
Trước
1975, không ít lần người ta nghe ông Huyền Vũ nói trên đài phát
thanh hay trong tờ báo Thể Thao của ông bốn chữ “Tinh Thần
Thượng Võ” khi ông bàn tới những cuộc tranh tài thể thao.
Tinh thần thhượng võ là cái gì?
Theo Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh thì tinh là sao, thần là
ngôi thứ của vì sao. Tinh thần là linh hồn, gọi chung những gì
thuộc vô hình, trái với vật chất là hữu hình. Thượng võ là
chuộng về võ, chú trọng về võ lực.
Đem cái ý nghĩa ấy mà so với tinh thần thượng võ trong thể thao
thì
nó không đúng hẳn. Vẫn biết các lực sĩ tranh tài thể thao
cần có sức mạnh,
vật chất, thể lực, nhưng tài năng mới
là tính chất căn bản của nó. Cho nên các cuộc thi thể thao người
ta không gọi là tranh chấp, tranh đấu mà gọi là tranh tài
(năng). “Tranh tài cao thấp” là thành ngữ giới thể thao và yêu
chuộng thể thao thường dùng.
Trong ý nghĩa đó thì việc tranh tài giữa các lực sĩ, trong các
đại hội thể thao quốc gia hay quốc tế, sự tranh tài là quan
trọng, được thể hiện qua “tinh thần thượng võ”, lấy cái tinh
thần giữa con người và con người, giữa một nhóm, một đoàn thể
thao, hay giữa các quốc gia với nhau là quan trọng. Qua những
cuộc tranh tài thể thao như thế, tình thân hữu, (bè bạn) hay hữu
nghị giữa con người và con người thắt chặt với nhau hơn, các dân
tộc, các quốc gia gần gũi với nhau hơn, và tình nhân loại thêm
sáng chói, đẹp đẽ hơn, cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Vì vậy, trong nhiều trường hợp, khi hai hay nhiều lực sĩ, đấu sĩ
hoặc hai hay nhiều đội tranh tài với nhau,
không kịch liệt như
khi tranh huy chương, thì gọi là đấu giao hữu, hữu nghị. Hữu có
nghĩa là bạn, như bằng hữu vậy.
Trong viễn tượng đó thì việc tranh tài, dù ở phạm vi lớn nhỏ như
thế nào, quốc gia hay quốc tế, thì ý nghĩa của nó là làm cho cái
tình người, tình dân tộc sáng tỏ lên, đẹp đẽ hơn lên, có khi làm
nhẹ bớt hay xóa sạch (may mắn hơn) những gì ghét bỏ, thù hận,
làm cho nhiều dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau hơn.
Khi còn ở trại cải tạo L3-T3, Trảng Lớn, “cán bộ giáo dục” của
Việt Cộng bắt buộc tù cải tạo phải xác định “Mỗi người đều có
tội với cách mạng”, “đánh phá cách mạng”, cũng có nghĩa là chống
lại dân tộc, tổ quốc. Ai ai cũng làm theo, răm rắp, cho xong
chuyện để “mau trở về sum họp với gia đình như cách mạng mong
muốn.” Nghe bùi lỗ tai dữ! Ai khôn ra thì vừa khai vừa dấu, ai
dại hơn thì “Có gì khai nấy”. Dĩ nhiên cũng có người là “Con
cháu Hồ Quí Ly, gốc nước Ngu bên Tầu” nên không khôn (tức là
Ngu), khai hết, có cũng khai, không có cũng khai, khai cả những
chuyện đi đánh Việt Minh hồi năm 1949, 50, ở ngoài Bắc, trước
khi di cư 1954. Việt Cộng biết cóc gì mà cũng khai ra, không có
cũng khai, bày đặt ra để khai để cho cán bộ Việt Cộng thấy mình
thành khẩn, “thành thật khai báo”. Kết quả là “Cách mạng cho đi
thăm lăng bác Hồ” (Câu chúng tôi thường đùa về việc tù cải tạo
bị đưa ra
Bắc), không biết có còn sống mà về lại miền
Nam
hay không!
Toàn bộ nhân số L3- T3 của chúng tôi là hơn 700 người, có Lê Văn
Cư là khai không giống ai. Lê Văn Cư là thiếu úy Quân Đội Việt
Nam Cộng Hòa, cầu thủ bóng đá đội Tổng Tham Mưu. Anh ta khai:
Chỉ có một cái tội duy nhứt là tham gia các trận đấu quốc tế,
giương cao màu cờ sắc áo, tinh thần thể thao của miền
Nam.
Đó là tinh thần thượng võ. Giương cao tinh thần thượng võ thì có
tội gì?
Cán bộ Việt Cộng giận lắm, cứ gọi anh ta “lên làm việc” hoài,
nhưng Cư vẫn cứ lý luận ấy mà tranh cãi với cán bộ Cộng Sản.
Những tưởng anh ta ở tù “Mút mùa Lệ Thủy” ai ngờ chỉ một năm anh
ta được về. Lý do: Anh có một người cô là y sĩ của Quân Khu 7
Việt Cộng (Nghe đồn như thế). Bấy giờ có người thấy mình ngu,
khai hết cho Việt Cộng, biết thì cũng đã trễ rồi.
Tinh thần thượng võ là động cơ (hay cái áo ngoài?) khiến Trung
Cộng và Hoa Kỳ xáp lại gần nhau bằng một cuộc thi đấu “bóng bàn
ngoại giao” (pingpong diplomacy) xảy ra hồi năm 1971. Đang khi
đoàn bóng bàn Mỹ đang thi đấu giao hữu ở Nhật Bản, bỗng có “ai
đó” gợi ý mời đoàn bóng bàn Mỹ sang đấu “hữu nghị” với đoàn bóng
bàn Trung Cộng ở Bắc Kinh.
Vậy là đoàn bóng bàn Mỹ đi Bắc Kinh, Trung Cộng mở cửa nghinh
đón. Trận thi đấu diễn ra vào tháng Tư năm 1971. Tuyển thủ Tim
Boggan của Mỹ giao đấu với đấu thủ Trung Cộng. Hồi ấy, đài BBC
loan tin: Liệu đàng sau tiếng banh nhựa gõ lóc cóc trên mặt bàn
gỗ, ai có thể nghe được tiếng thì thầm của đại diện Mỹ và Trung
Quốc bàn bạc với nhau?
Sáng kiến ngoại giao nầy (khơi mào một cuộc đấu bóng bàn giao
hữu) có phải phát xuất từ tòa Bạch Ốc, giữa sự bàn thảo của
Nixon và Kissinger? Bởi vì ba tháng sau, khi Kissinger đến
Nepal,
giả bộ đi nghỉ sớm ở một nhà nghỉ trên núi vì mệt. Nửa đêm,
Kissinger lẻn ra khỏi nhà, lên chuyến bay đặc biệt. Sau khi rời
phi đạo, phi công đoàn mới được lệnh trực chỉ Bắc Kinh. Cũng từ
đó, nửa năm sau, Nixon đi Bắc Kinh ngày 21 tháng 2 năm 1973. Hai
nhà lãnh đạo hai cường quốc địch thủ, bây giờ bắt tay nhau, “mở
ra một trang sử mới” (lời Nixon) của thế giới. Tầu Mỹ đi với
nhau để chống Liên Xô. Và cũng từ hôm Nixon đi Bắc Kinh, Việt
Nam Công Hòa cũng bước vào một trang sử mới: Con đường tiêu vong
vì bị Mỹ bỏ rơi. Số phận lưu vong của chúng ta ngày hôm nay, có
ai ngờ, bắt đầu từ trận đấu bóng bàn giao hữu giữ Mỹ và Tầu vào
tháng Tư - 1971.
Với Trung Hoa và Mỹ, thể thao làm cho chính quyền và dân tộc hai
nước ấy xích lại gần nhau, và đáng thương thay cho số phận những
quốc gia nhược tiểu, như Việt Nam Cộng Hòa bị “đem con bỏ chợ!”
Cái gọi là tinh thần Olympic, bốn năm tổ chức một lần đã có ích
hay có lợi gì cho nhân loại?
Ý
nghĩa là đã trình bày ở trên, và thực tế cũng đã chứng minh như
thế. Tuy nhiên, khi Thế Vận Hội được tổ chức ở một quốc gia nào
đó, có dính líu đến chính trị, hay nói rõ hơn là quốc gia của
nước tổ chức muốn đưa chính trị vào thể thao thì mọi chuyện sinh
ra bậy bạ.
Ví dụ:
Thế Vận Hội mùa hè năm 1936 được tổ chức ở Đức. Sau khi
lên cầm quyền, Hitler muốn dùng thế vận hội làm một cơ hội để tỏ
rõ sức mạnh của nước Đức đã phục hồi sau khi Thế Giới Chiến
Tranh Thứ Nhất chấm dứt. Để làm chi: Thực hiện mưu đồ điên rồ
trong cuốn sách ruột của y: Cuốn Mein Kampf
(Cuộc chiến đấu của tôi), trong đó Hitler nói rằng chỉ có dân
tộc Aryan của y là siêu việt, nhất đẳng
thiên hạ. Các dân tộc khác không thể ngang bằng, chỉ làm tay sai
cho dân tộc nầy, nhất là dân Do Thái thì phải bị tiêu trừ.
Kết quả Thế Vận Hội lại ngược lại. Lực sĩ Jesse Owens, không
phải người cùng chủng tộc với Hitler đã chiếm nhiều huy chương
nhất trong thế vận nầy.
Hồi đó, nhiều nhà lãnh đạo các nước Châu Âu muốn khuyên nhủ,
nhắc nhở Hitler về việc
sử dụng thế vận với một mưu đồ như thế,
nhưng những tay độc tài từ xưa tới nay, chẳng chịu nghe ai bao
giờ!
Năm 1956, sau khi Do Thái mở cuộc xâm lăng Ai Cập, các
nước Ai Cập, I-Rắq, Li Băng tẩy chay Thế Vận Hội Melbourne vì Do
Thái tham gia Thế Vận Hội nầy.
Cũng năm đó, vì Liên Xô đem quân đàn áp cuộc nổi dậy của nhân
dân Hungary, do Imre Nagy lãnh đạo, chống ách cai trị của Liên
Xô, thì các quốc gia như Hòa Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ tẩy chay
Thế Vận Hội vì sự có mặt của đoàn Liên Xô trong đó.
Cuộc xung đột chính trị và đàn áp quân sự nầy làm cho lực sĩ bơi
lội của Liên Xô và
Hungary
choảng nhau trong khi tranh tài, khiến hai bên u đầu chảy máu.
Vì vậy, cuộc tranh tài nầy được gọi là “Cuộc tranh tài đổ máu ở
dưới nước.”
Thế Vận hội Olympic 1968 diễn ra ở
Mexico City.
Các lực sĩ da đen Mỹ đoạt huy chương vàng, đồng và bạc.
Năm nầy, ở Mỹ phong trào nhân quyền do mục su Luther King lãnh
đạo lên rất cao, gây nhiều phản ứng tiêu cực từ một số người da
trắng. Khi ba lực sĩ nầy lên khán đài nhận huy chương, quốc
thiều Mỹ trỗi lên, làm một số người da trắng cực đoan khó chịu.
Sau đó các lực sĩ bị hành hung. Sự lộn xộn đưa tới việc sinh
viên tổ chức những cuộc biểu tình chống chính phủ
Mexico,
bị sinh viên lên án thiên vị. Chính phủ cho quân đội đàn áp, gây
nên nhiều thương vong cho sinh viên.
Thế Vận Hội năm 1972 diễn ra ở
Munich,
Tây Đức. Bọn khủng bố
Palestine
thuộc nhóm Fatah của Arafat lẻn vào làng thế vận bắt cóc 11 lực
sĩ Do Thái làm con tin. Cuối cùng, chúng đã giết hết những con
tin nầy.
Phản ứng của Do Thái là tấn công vào lãnh thổ
Palestine,
nhiều tên khủng bố bị giết cùng một số dân thường.
Thế Vận Hội năm 1976 được tổ chức tại
Montreal
Canada
cũng diễn ra dưới bầu không khí chính trị u ám. 26 nước Phi châu
tẩy chay vì đoàn cầu bầu dục Tân Tây Lan ghé thăm Nam Phi.
Đài
Loan bị loại vì chính phủ Trung Hoa Quốc Gia với Canada không
lập quan hệ ngoại giao. Kết quả,
Canada
“tọa họa nợ” 1 tỷ rưỡi đôla Mỹ.
Thế Vận Hội Mút-Cu năm 1980 bị Mỹ
tẩy chay, kèm theo Mỹ
là một cái đuôi dài gồm 61 quốc gia khác nữa. Lý do: Liên Xô đem
quân xâm lăng
Afghanistan.
Dĩ nhiên, bốn năm sau, khi Thế Vận Hội 1984 được tổ chức
ở Los Angeles thì Liên Xô trả đũa. Liên Xô lôi kéo theo 14 nước
khác cùng tẩy chay thế vận hội nầy.
Nhìn chung, người ta thấy có một điều buồn cười. Kể từ 1956, Thế
Vận Hội cũng “ấm lạnh” theo chiến tranh lạnh. Việc tẩy chay cũng
chấm dứt sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), chiến tranh lạnh chấm
dứt.
Từ sau Thế Vận Hội bị tẩy chay 1984, các lần sau đều bình
thường, nhưng bỗng Thế Vận Hội 2008 lại nảy sinh lắm chuyện.
Trung Cộng bỏ công, bỏ của đầu tư cho thế vận từ rất lâu và khá
bộn tiền (43tỷ).
Thông thường, ở các nước tự do, việc luyện tập để trở thành lực
sĩ có khả năng tham gia thế vận là chuyện của từng người, từng
gia đình. Ai muốn thì cứ tự tìm thầy, tìm trường và tự rèn luyện
lấy. Chính quyền khuyến khích nhưng không can dự, không chỉ huy,
không lãnh đạo.
Các nước Cộng Sản thì khác. Cá nhân chỉ nhận lệnh, lo luyện tập
để được lòng nhà nước (quản lý). Chính phủ đứng ra lo mọi
chuyện, từ tuyển chọn lực sĩ mầm non, xây dựng trường ốc và
huấn luyện với mục đích đạt cho được huy chương vàng.
Chính sách ấy đem lại nhiều khốn khổ cho lực sĩ mầm non và gia
đình. Có những em bé được chuẩn bị từ khi 3 hoặc 4 tuổi, có
nghĩa là từ tuổi ấy chúng đã vào ở trong trường để luyện tập
hằng ngày, không được gặp cha mẹ, và cũng không ít khi cha mẹ bị
cấm đến thăm.
Nói trắng ra, đó là một sự bóc lột sức khỏe và tài năng của đứa
bé. Xem màn các em bé gái biểu diễn thể dục dụng cụ, có em mới
13 tuổi, nét mặt “không có mùa xuân”, thân thể gầy ốm, thái độ
tác phong thiếu sự vui tươi. Các lực sĩ Trung Cộng tham gia thi
đấu với một vẻ tranh đấu hơn là tranh tài nên trông gay gắt,
thậm chí hung bạo.
Việc rước đuốc cũng là một sự kiện đáng nói, thiếu tính cách vận
động, quảng cáo mà nặng tính chất trình diễn sức mạnh và bá
quyền. Tính chất đó, tỏ lộ rõ nhất khi ngọn đuốc tới
Saigon
(Tp HCM). Ngọn đuốc mang ý nghĩa quyền lực của Trung Cộng đối
với nước Việt
Nam
hơn là hữu nghị hay Tinh thần Thượng Võ như trong thể thao. Việc
đàn áp các cuộc biểu tình ở Tây Tạng, Tân Cương lại xác định rõ
hơn tính chất bá quyền của người Tầu.
Chính quyền Trung Quốc, tuy là một chính quyền Cộng Sản, nhưng
tin vào những gì huyền bí, nên đã chọn ngày giờ khai mạc vào lúc
8 giờ 8 phút ngày 8 tháng 8 năm 2008.
Trước kia, người Tầu tin vào số 9 là số may. Trước 1975, xe hơi,
xe gắn máy của mấy chú Ba ở Chợ lớn thường mang số 9 hay cộng
các số lại là 9 như 18, 27, 36, 45,v.v… Nay họ chọn số 8 cho là
số may. Số 8, phát âm là bát. Nói ngọng như người Tầu thì bát và
phát (phát triển, phát tài, phát lộc) nghe giống nhau.
Nhưng số 8 cũng là dạng cái còng. Cái còng police hay dùng còng
tay người phạm tội được gọi là còng số 8. Vậy thì chính quyền
Trung Cộng chọn cái còng số 8 với ý nghĩa gì? Người Tầu sẽ còng
đầu những ai chống lại họ như nhóm Pháp Luân Công hay những tên
đầu sỏ ở Hà Nội nghiêng về Mỹ mà không nghiêng theo Tầu.
Nhưng biết đâu, “gậy ông đập lưng ông”, những cái còng ấy lại
còng ngay đám Cộng Sản Tầu Hồ Cẩm Đào.
Những việc làm của chính quyền Trung Cộng bây giờ khiến người ta
nhớ lại và so sánh với Thế Vậi Hội ở Đức năm 1936, thời kỳ
Hitler. Cả hai đều có âm mưu và tham vọng như nhau.
Tham vọng đó đã khiến Hitler châm ngòi lửa Thế Giới Chiến Tranh
Thứ Hai và nước Đức đại bại! Liệu các tay lãnh đạo ở Bắc Kinh có
thành công hay chăng?
Nếu người ta thông cảm người Tầu một chút thì thấy rằng họ phải
lấy lại những gì Hán tộc đã tạo dựng nên. Sau khi Tần Thủy Hoàng
tóm thâu lục quốc, dựng nên nước Tần vĩ đại, cũng chính là dựng
nên một “Đế Quốc Tầu” đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Bao
nhiêu đế quốc đã hình thành rồi tiêu vong, như đế quốc La Mã, Ai
Cập, Ottoman, v.v… Đế Quốc Tầu suy bại từ cuối đời nhà Thanh,
nước Tầu trở thành miếng mồi cho Bát Quốc Liên Minh. Kể từ đó,
người Anh gọi nước Tầu là “con sư tử ngủ”. Nay nó phải vươn vai
đứng dậy, nhe răng bên nầy, gầm gừ bên kia, để cho thiên hạ nhớ
rằng hậu duệ của Tần Thủy Hoàng vẫn còn đây, chưa chết hẳn.
Sư Tử là chúa sơn lâm, không ai đánh bại nó được. Tuy nhiên,
không phải là nó không chết. nó sẽ chết đấy chính vì những con
vi trùng đang đục khoét thân mình nó. Vì vậy, ….
Khi thế vận hội qua rồi, mọi sự lắng xuống và kinh tế phát triển
chạy vòng quanh theo cái dạng còng số 8. Bấy giờ người Tầu nhận
ra rằng thế vận hội đã nổ ra như một cái bong bóng. Thiên hạ
thấy rằng Trung Cộng xài nhiều đồ giả, không như tinh thần thế
vận. Họ đã cháy 43 tỷ một cách vô ích. Bấy giờ, đối diện với
những khó khăn kinh tế vẫn còn tồn tại đó, không giải quyết
được, giá dầu vẫn gia tăng, lương thực càng ngày càng thiếu trầm
trọng, không đủ ăn cho 1 tỷ 300 triệu dân. Con cóc cố rán bụng
cho thật to và nổ một cái bình như trong truyện ngụ ngôn của La
Fontaine. Tới lúc đó, một thời kỳ tan rã nước Tầu lại bắt đầu.
Thiên hạ ai là người sẽ vui mừng?
Một điều đáng nói nữa, xin nhắc lại quí độc giả nhớ lại. Dị đoan
hay không dị đoan, người Tầu chẳng cần lưu tâm. Đặng Tiểu Bình
đã nói lên cái bá đạo ấy của mấy chú Ba ở Bắc Kinh: “Mèo trắng
mèo đen miễn là bắt được chuột.” Vậy thì dị đoan hay không dị
đoan, chủ nghĩa Cộng Sản hay không, không cần thiết, miễn là có
lợi cho nước Tầu, dân Tầu. Điều ấy làm cho chúng ta nhớ lại một
câu nói thâm thúy của Nixon: “Người Tầu dùng chủ nghĩa xã hội để
xây dựng đất nước; người Việt
Nam
đem đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội.”
Theo đuôi Cộng Sản Tầu, chính phủ Bắc Bộ Phủ cũng bày trò mánh
mung. Không thế, tại sao họ cho cô bé Ngân Thương 19 tuổi xài
doping?
hoànglonghải |