Sự khác nhau giữa Dân chủ và Tự do
-
PSN -
30.05.2009 | Hà Sĩ Phu
Hai
khái niệm Tự do (Liberty)
và Dân chủ (Democracy) xưa nay thường được hiểu là tương tự,
hoặc ít ra thì cũng rất gần nhau, theo hướng giải phóng con
người. Quả thực, trong các nước dân chủ phương Tây thì hai
yếu tố ấy cũng bện chặt vào nhau để tạo nên một nền Dân
chủ - Tự do (liberal democrcy). Hầu hết chúng ta đều
hiểu Dân chủ và Tự do là hai yếu tố biến thiên cùng chiều
như một cặp bài trùng. Vì thế cũng không ai mổ xẻ tách bạch
sự khác nhau giữa hai khái niệm ấy làm gì.
Song thực tiễn chính trị đã khiến cho hai từ Dân chủ và Tự
do buộc phải được hiểu môt cách chính xác hơn (nhưng vẫn
cùng chiều), rồi thật bất ngờ, dưới bàn tay nhào nặn khéo
léo của một số nhà chính trị ở một số quốc gia, Dân chủ và
Tự do không bện chặt vào nhau nữa, chẳng những rời nhau ra
mà có thể còn chống lại nhau. Từ đó hình thành và phát triển
những hệ thống chính trị Dân chủ- nhưng không Tự do
(illiberal democracy).
“Nhiều chính quyền được bầu lên một cách dân chủ, thậm
chí các chính quyền được bầu lại hoặc được tái xác nhận
thông qua trưng cầu dân ý, lại càng bất chấp các giới hạn
quyền lực do hiến pháp qui định và thường tước đi các quyền
và những tự do căn bản của người dân”.
Sự phát hiện điều nghịch lý và khái quát thành lý luận này
của Fareed Zakaria, một nhà báo, nhà triết học chính trị với
vốn sống chính trị phong phú, thuộc số những nhà trí thức
hàng đầu có nhiều ảnh hưởng nhất hiện nay
[1],
theo tôi là một phát kiến rất lớn, mặc dù nhiều học giả của
thế kỷ 18 và 19 cũng đã bắt đầu “nhìn thấy trong Dân chủ
một sức mạnh có thể gây tổn hại cho Tự do”.
Thật vậy, Dân chủ trước hết và chủ yếu được hiểu là quyền
làm chủ của dân, là sự can dự của dân vào quá trình hình
thành bộ máy cai trị. Khi một quốc gia tổ chức các cuộc bầu
cử đa đảng, có cạnh tranh, bộ máy cầm quyền do lá phiếu của
người dân bầu ra, không ai áp đặt, chúng ta gọi quốc gia đó
là dân chủ.
Còn Tự do, theo nghĩa truyền thống và thường được hiến định,
là các quyền tự nhiên, bất khả nhượng nên còn gọi là Tự
do hiến định (constitutional liberalism), nhằm bảo vệ
tính độc lập tự chủ và nhân phẩm của con người trước những
chèn ép về chính trị, xã hội, tôn giáo và những cái khác.
Nếu muốn coi Dân chủ cũng là biểu hiện của Tự do thì đó là
Tự do chính trị, còn quyền Tự do hiến định chính là
Tự do dân sự; một đằng tạo ra chính quyền, một đằng
không ngừng chỉnh lý, khống chế chính quyền ấy. Vì Tự do là
nền tảng, Dân chủ là thượng tầng nên quan hệ giữa Tự do và
Dân chủ là quan hệ hầu như một chiều : Chủ nghĩa Tự do hiến
định dẫn đến Dân chủ, nhưng Dân chủ thì dường như không mang
lại chủ nghĩa tự do hiến định. Gốc nào thì quả ấy, cho nên “Cái
làm thành nét đặc trưng và tạo ra sự khác biệt giữa các
chính quyền tại châu Âu và Bắc Mỹ với các chính quyền khác
trên toàn thế giới không phải là dân chủ mà chính là chủ
nghĩa tự do hiến định. Biểu tượng tốt nhất của “Mô hình
phương Tây” không phải là hệ thống bầu cử đại chúng mà chính
là vị quan tòa không thiên vị” (Zakaria).
Nếu vội vàng tạo lập Dân chủ nơi chính quyền trong khi chưa
giành được những quyền tự do dân sự trong dân chúng
thì đó là thứ Dân chủ không có gốc, nó dễ dàng trở thành
phản bội .
Chúng ta vẫn thường nghĩ một cách đạo đức và đơn giản rằng:
sự cảnh giác chỉ cần khi chính quyền đối lập với nhân dân,
chứ khi nhân dân đã tự gánh vác trách nhiệm thì sự thận
trọng là không còn cần thiết. Xin thưa, Alexandr Lukashenko
sau khi được bầu làm Tổng thống
Belarus
một cách dân chủ với đa số phiếu áp đảo trong cuộc bầu cử tự
do năm 1994, khi được hỏi về việc giới hạn quyền lực của ông
ta, thì chính nhà độc tài này đã tuyên bố “Chế độ độc tài
sẽ không có ở đây. Tôi thuộc về nhân dân, vì vậy tôi sẽ cống
hiến vì nhân dân !”.
Cũng đừng tưởng rằng khi người cầm quyền do dân bầu ra mà
chống lại tự do của dân thì dân sẽ không bầu nữa. Trái lại
có thể dân vẫn bầu, mà còn bầu với số phiếu cao nữa kia !
Bởi nếu những quyền tự do hiến định không được thực hiện thì
những thủ thuật để chiếm lòng dân, để tạơ sức mạnh của số
đông, để dân lại tiếp tục bầu là điều không khó khăn gì.
Đối với pháp trị, lòng tin dễ thành thuốc độc, bởi tinh thần
căn bản của luật pháp là dựa trên sự nghi ngờ. Khi đã cố xây
dựng lòng tin làm cẩm nang, làm tiên đề để điều hành xã hội
thì luật pháp sẽ bị vận dụng méo mó, sẽ mất hiệu năng và đó
là mầm mống bành trướng của quyền lực tuyệt đối.
Sau một diễn tiến Dân chủ thường tạo được lòng tin,
nhưng lòng tin lại gây mất cảnh giác nơi dân chúng và là
mảnh đất phát sinh lạm quyền, rồi sự lạm quyền sẽ quay lại
chống Tự do. Con đường Dân chủ chống lại Tự do cứ
khép một đường vòng như vậy. Đừng bao giờ quên rằng
khi có quyền trong tay người ta có thể biến thành một người
hoàn toàn khác. Chỉ trong một xã hội có Tự do dân sự
vững chắc thì sự tha hoá của quyền lực mới được kiềm chế và
đường vòng phản hồi chống dân chủ kia mới có khả năng ngăn
chặn. Biết đặt sự nghi ngờ lên trước để xử lý thì lòng tin
sẽ đến theo sau.
Bằng con mắt tinh tường và với một quan điểm lý luận có hệ
thống, Zakaria đã điểm mặt những vùng địa lý chính trị, nơi
nào có Dân chủ-Tự do điển hình, nơi nào tuy chưa thật dân
chủ nhưng lại có Tự do, ngược lại nhiều nơi chưa có Tự do
nhưng lại được xếp vào nước có Dân chủ…
Đặc biệt ông đã nhận ra sự trỗi dậy mạnh mẽ của xu thế
Dân chủ phi Tự do (illiberal democracy), như một lối
thoát được ngụy trang rất khôn ngoan của những chính quyền
cố giữ cho được sự cai trị độc đoán trước một trào lưu dân
chủ toàn cầu không thể chống lại. Những chính quyền ở Peru,
Palestin, Sierra Leon, Slovakia, Kazakstan, Kyrgystan,
Pakistan, Belarus,… và những nhân vật chính trị như Boris
Yeltsin, Alexandr Lukashenko, Alberto Fujimori, Carlos
Menem, … là những ví dụ điển hình (khi ấy là năm 1997, sau
này phải kể thêm Vladimir Putin ). Theo Zakaria thì lúc ấy
một nửa số các quốc gia đang dân chủ hoá lại là các chế độ
Dân chủ phi tự do (illiberal democracy).
Trước sự trỗi dậy của xu thế có Dân chủ nhưng không có Tự
do như thế dân Việt
Nam
phải làm gì để khỏi sa vào?
Chính trị cũng như thị trường, chẳng qua cũng một Quy
luật cung cầu chi phối cả. Có “cầu’ ắt có “cung”,
và thế nào cũng xuất hiện bọn “cung đểu” (bọn làm
hàng giả), quy luật cạnh tranh sinh tồn vốn tiềm tàng tính
“bất thiện” như thế. Nhân dân cần Dân chủ và Tự do ư ? (và
nghĩ rằng hai thứ đó giống nhau), thì sẽ có giới cầm quyền
đứng ra nhận thoả mãn nhu cầu ấy. Nhưng đối với giới cầm
quyền thì món hàng Dân chủ có “giá thành” rẻ hơn lại ít nguy
hiểm hơn so với Tự do, nên họ cứ trưng cái nửa Dân chủ ra
trước đã. Nếu dân là người tiêu dùng hồn nhiên, gặp kẻ tiếp
thị có nghề là “bập” vào ngay. Thế là dân hoan nghênh, dân
bầu ngay, tín nhiệm ngay, rất tự giác, rất dân chủ.
Nhưng như thế là “thượng đế” bị sa bẫy rồi, cái bẫy có tên
là Dân chủ phi Tự do!. Khi cái ghế quyền lực đã “đúc
bê tông” thì số phận cái nửa Tự do kia sẽ thế nào là
chuyện “hạ hồi phân giải” !
Chỉ khi nào dân trí đã khôn, đã từng trải, mới biết “nắm
đằng chuôi”, mới biết khước từ món “mì chính trị ăn liền”
thường rất đậm đà màu sắc địa phương, mà đòi cho được quyền
Tự do hiến định, tức Tự do dân sự như dân các
nước văn minh được hưởng. Điều tưởng như rất bình dị này mới
chính là sản phẩm quốc tế chất lượng cao, đã được lịch sử
kiểm định ! Người khôn ngoan không đòi ngay con cá mà cố
giành lấy chiếc cần câu chính là như vậy.
Trong lúc tôi đang băn khoăn, thai nghén những ý tưởng về
chủ đề này thì may mắn thay, cùng một lúc tôi được đọc hai
tài liệu cùng của Fareed Zakaria. Một cuốn
Tương lai của Tự do (The
Future of Freedom) do trang mạng X-café dịch và đăng
nhiều kỳ. Một bài tiểu luận
“Sự trỗi dậy của các chế độ Dân chủ phi tự do”
do Phạm Hồng Sơn dịch
và Mai Thái Lĩnh hiệu đính (và được phép chính thức của tạp
chí Foreign Affairs) . Bài tiểu luận này viết năm 1997 chính
là nòng cốt để tác giả phát triển thành cuốn
The Future of Freedom
năm 2003.
Với những độc giả không có nhu cầu tìm hiểu rộng và chi
tiết, chỉ cần nắm được luận điểm chính và những ví dụ điển
hình, tôi nghĩ đọc bài tiểu luận Sự trỗi dậy của các chế
độ Dân chủ phi tự do là thích hợp, trong đó tác giả
trình bày ý tưởng một cách ngắn gọn, xúc tích và sắc xảo.
Xin chân thành cảm ơn cả hai dịch giả của hai tác phẩm nói
trên .
[1]
Fareed Zakaria là một nhà báo Mỹ
gốc Ấn Độ. Ông sinh năm 1964 tại thành phố Mumbai (tên cũ là
Bombay)
thuộc bang
Maharashtra
- Ấn Độ, trong một gia đình Hồi giáo. Cha ông là Rafiq
Zakaria (1920-2005), một học giả Hồi giáo và là một chính
trị gia của Đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress).
Mẹ ông, Fatima Zakaria, đã có thời là biên tập viên của tuần
báo Times of India (Thời báo Ấn độ). Sau khi học
trung học tại Ấn Độ, Zakaria du học tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp
Cử nhân (B.A.) tại đại học Yale và lấy bằng tiến sĩ chính
trị học (Ph.D. in Political Science) tại đại học Havard –
nơi đây ông được hướng dẫn bởi các vị giáo sư chính trị học
nổi tiếng như Samuel P. Huntington và Stanley Hoffmann. Ông
nhập quốc tịch Hoa Kỳ vào năm 2001.
Sau khi tham gia một công trình nghiên cứu của Đại học
Havard về chính sách đối ngọai của Hoa Kỳ, Zakaria trở thành
biên tập viên điều hành (managing editor) của tạp chí
Foreign Affairs (Các vấn đề đối ngọai) và giữ chức vụ
này trong 7 năm (từ năm 1993 đến năm 2000). Tạp chí này là
một tập san chuyên đề bàn về các quan hệ quốc tế và chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, được phát hành hai tháng một lần
bởi Hội đồng về Các quan hệ đối ngoại (Council
on Foreign Relations, CFR) . Tháng 10 năm 2000,
ông được bổ nhiệm làm tổng biên tập (editor) của tạp chí
Newsweek International (tức ấn bản quốc tế của tạp chí
Newsweek). Với chức vụ này, ông chịu trách nhiệm
trông nom các ấn bản tiếng Anh ở hải ngọai của tờ tạp chí
nổi tiếng này, được phát hành khắp châu Âu, châu Á, châu Phi
và vùng Trung Đông với trên 3 triệu ruỡi độc giả. Ngoài
nhiệm vụ đó, ông còn thường xuyên viết bài cho các tờ báo
nổi tiếng ở Mỹ như New York Times, Wall Street Journal,
Washington Post, và New Republic, v.v…Ông còn cộng tác với
nhiều đài truyền hình nổi tiếng như PBS (2005-2007), ABC
(2002-2007) và CNN (từ tháng 6 năm 2008). Không chỉ là nhà
báo, Zakaria còn là tác giả của một số cuốn sách nổi tiếng
như: The Future of Freedom (Tương lai của Tự do,
2003) và The Post-American World (Thế giới hậu -
Hoa Kỳ, 2008).
Năm 1999, tạp chí Esquire vinh danh ông là «một trong 21
nhân vật quan trọng của thế kỷ 21». Năm 2007 ông được các
tạp chí Foreign Policy và Prospect xếp vào danh sách 100 nhà
trí thức hàng đầu được nhiều người biết đến của thế giới.
Tháng 1 năm 2009, tạp chí Forbes xếp Zakaria vào danh sách
25 nhà tự do (liberals) có ảnh hưởng nhất trong giới truyền
thông Hoa Kỳ.
Bài báo “Sự trỗi dậy của nền dân chủ phi-tự do” (The Rise of
Illiberal Democracy) công bố trên tạp chí Foreign Affairs
vào tháng 11 năm 1997 là tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất của
Zakaria.
(Tư liệu do nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh cung cấp)
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|