.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                           TRANG CHÍNH

Không tự do chê trách, chẳng bao giờ có lời khen mát lòng - Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge flatteur " (Beaumarchais)
 CHƯƠNG MỤC

Tư Tưởng

Văn hóa

Giáo Dục

n Học

Diễn Đàn

Chính Luận

Ký Sự - Xã Hội

Khoa Học & Môi Trường

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TỦ SÁCH

Sophie Quinn-Judge: Hồ Chí Minh những năm chưa được biết đến

Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa

Lê Minh Văn: Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

Mao, câu chuyện không được biết

Gene Sharp: Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày

 CHÍNH LUẬN


Sơn hà nguy biến

  • PSN - 21.06.2009 | Lê Minh Nguyên
     

Bóng chúng – Đè lên – Số phận – Từng người (thơ Trần Dần)

Báo Viễn Đông Kinh Tế ngày 2/5/08 có bài “Bắc Kinh Theo Chủ Nghĩa Phát Xít Cổ Điển” nhận xét rằng bản chất của các chế độ Phát Xít là độc tài toàn diện về chính trị nhưng tương đối cho tự do kinh tế, và bành trướng chinh phục là Đông Nam Á trong tế bào của chế độ. Các quốc gia dân chủ cần điều chỉnh lại quan niệm sai lầm là sự giàu có mang lại hòa bình. Bài báo cho rằng quyền lợi lâu dài của người dân Trung Quốc là sự tự do chính trị dù đôi khi có rối rắm hay hỗn độn. Trung Quốc bành trướng chỉ là vấn đề thời gian, bước đầu tiên là các nước chư hầu triều cống và sáp nhập Đài Loan. Chế độ Trung Quốc ngày hôm nay là hậu duệ của hai cuộc cách mạng khác nhau (1) Mao là kinh nghiệm thất bại của chủ nghĩa cộng sản và (2) Đặng là sự hóa thân đi vào chủ nghĩa Phát Xít. Sách trắng Quốc Phòng năm 2008 của Trung Quốc xác nhận là cần tăng tốc việc tranh đấu cho tài nguyên chiến lược, cần tung lực lượng ra ngoài để hỗ trợ đòi hỏi biển, sử dụng chính sách ngoại giao với sự cưỡng bách quân sự.

Theo báo Economist, ngân sách quốc phòng Trung Quốc năm 2008 là 85 tỷ đô la, đứng thứ nhì sau Hoa Kỳ. Với Project 048, Trung Quốc đang xây hàng không mẫu hạm ở đảo Changxinh cạnh Thượng Hải và sẽ có 2 chiếc hoạt động vào năm 2015. Lực lượng hải quân có khoảng 55 tàu ngầm, 70 khu trục hạm, 50 tàu đổ bộ và 40 tàu chiến ven bờ. Trung Quốc đã chế xong 2 trong 6 chiếc tàu ngầm nguyên tử lực tối tân, loại Jin-class (094) và trang bị hỏa tiển JL-2 có tầm xa 7,200km. Trên bộ, Trung Quốc trang bị hỏa tiễn nguyên tử di động DF-31 và DF-31A. Trung Quốc sắp sử dụng hàng không mẫu hạm NAe Sao Paulo của Brazil để thực tập bay/đáp theo kỹ thuật CATOBAR (phóng khi lên, dùng giây móc khi xuống). Còn Việt Nam vừa mua của Nga 6 tàu ngầm Kilo ($1.8 tỷ đô la) và 8 máy bay Su-30MK2 ($400 triệu đô la) không kèm vũ khí hay thiết bị kỹ thuật, khác nào chim ưng không móng (máy bay mới của Nga là Su-35), so ra khó thể làm cho Trung Quốc ngại ngùng khi tính toán chiến tranh. Cuối năm 2009, Trung Quốc sẽ thao diễn quân sự đại quy mô kéo dài 2 tháng có tên “Tiến Bước-2009”, sử dụng quân sĩ của 4 trong tổng số 7 quân đoàn với 50,000 quân thao tập, huy động 60,000 xe, sử dụng vũ khí nặng, điều kiện đánh trận thật, bắn đạn thật, di chuyển trường chinh với 50,000km đường, mỗi tiểu đơn vị di chuyển một tuyến đường dài hơn 2,400km, tiến quân cùng một lúc từ 4 đại bản doanh của 4 tỉnh Thẩm Dương, Lan Châu, Tế Nam và Quảng Châu. Việc thao diễn nhằm phối hợp lục và không quân để đạt 6 chỉ tiêu là kiện toàn chỉ huy, phối hợp binh chủng, sử dụng kỹ thuật điện-từ, tấn công, giao chiến, và sử dụng lực lượng đặc nhiệm (Jamestown.org 15/5 và 12/6/2009). 

Trung Quốc đang trong chiều hướng chuẩn bị dư luận nếu chiến tranh bành trướng xẩy ra trong tương lai. Trong tháng 3/2009 vừa qua, quyển sách “Trung Quốc Bất Cao Hứng” bán chạy nhất ở Trung Quốc với số in 180,000 cuốn bán sạch (và in thêm với số bán hơn nửa triệu) của 5 tác giả Vương Tiểu Đông, Tống Hiểu Quân, Hoàng Kỉ Tô, Tống Cường và Lưu Ngưỡng đưa ra viễn kiến cho Trung Quốc trong 30 năm tới, cho rằng Trung Quốc phải có chí lớn, đã đến lúc Trung Quốc phải “thay Trời hành đạo”, lãnh đạo thế giới, phải cầm gươm kinh doanh, tận dụng tài nguyên thế giới, Giải Phóng Quân phải bám sát lợi ích nồng cốt của Trung Quốc trên thế giới (hoinhavanvietnam.vn 4/14/2009). Đây là hình ảnh của anh thương gia tay xách túi tiền và trên vai có mang theo khẩu súng.

Trung Quốc coi các quốc gia xung quanh là sợi dây chuyền trân châu đeo trên cổ của họ, vòng đay chư hầu để Trung Quốc khai thác tài nguyên và làm phên dậu, từ Mông Cổ, Bắc Hàn, Việt Nam, Lào, Cam Bốt, Miến Điện, Bangladesh, Pakistan, Sri-Lanka. Họ đã bỏ ra $1 tỷ đô la để xây hải cảng Hambantota phía Đông Bắc Sri-Lanka, kiểm soát Ấn Độ Dương, thọc vào nách Ấn Độ, tạo quân cảng 2 bên vùng vịnh Bengal từ Sri Lanka qua Miến Điện (UPI Asia 13/5/09). Chuyên gia Nga về Việt Nam, tiến sĩ Vladimir Kolotov nhận xét rằng chiến lược dài hạn của Trung Quốc rất rõ ràng là kiểm soát vùng Đông Nam Á (ĐNÁ), ban đầu gián tiếp sau đó trực tiếp, và hàm ý Trung Quốc muốn lập chế độ bù nhìn ở Việt Nam. Trung Quốc hứa hẹn với Việt Nam hợp tác khai thác chung ở những vùng biển tranh chấp, nhưng theo ông, hợp tác khai thác là phải cùng đầu tư. Công ty dầu China National Offshore Corp. đã bỏ ra $30 tỷ đô la để khai thác quanh Trường Sa, Việt Nam có bỏ ra được $10 tỷ hay không? Ông nhận xét là trong lịch sử mỗi khi Trung Quốc mạnh, lần nào cũng là một vấn đề lớn cho Việt Nam (BBC 14/5/09 23/12/08). Tuần dương hạm Trịnh Hòa của Trung Quốc ghé cảng Đà Nẵng ngày 18/11/08 và Trung Tướng CS Việt Nam Vũ XuânVinh nói trong dịp này là “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Với tàu Trịnh Hòa, Trung Quốc gởi đến Việt Nam một tín hiệu của sự đe dọa, nhắc nhở cho Việt Nam rằng Trịnh Hòa (1371-1433) là Thủy Sư Đô Đốc thời nhà Minh cường thịnh và xăm lăng Việt Nam, đưa đến cuộc khởi nghĩa của anh hùng áo vải Lam Sơn (BBC 18/11/08).

Hiện nay ở Trung Quốc, các tờ Đông Phương Nhật Báo, China Daily, website quân sự chính trị Thiết Huyết ở Bắc Kinh đều có chủ trương muốn thôn tính Việt Nam bằng vũ lực trong một cuộc chiến tranh cục bộ để mở rộng không gian của mình (lý luận của Phát Xít Đức-Ý trước kia), vì Việt Nam là hòn đá cản đường sự phát triển của Trung Quốc, và tình hình hiện nay là cơ hội lịch sử, cần đánh nhanh. Trung Quốc đã giấu khả năng và chần chờ quá lâu, Việt Nam là nước mà Trung Quốc cần nên đánh trước. Trung Quốc cần gấp một chiến thắng để gởi tín hiệu cho thế giới về vị thế cường quốc của mình và khích lệ nhân dân Trung Quốc. Họ nói Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gates ở hội nghị Đối Thoại Shangri-La, Singapore 31/5/09 đã bật đèn xanh cho Trung Quốc khi nói rằng Mỹ không có quan điểm gì về các tranh chấp chủ quyền tại biển Đông (BBC 2/6 và 11/6/09). Tâm lý này của Trung Quốc được phản ảnh qua việc họ đồng tình với Nga khi Nga chiếm 2 tỉnh South Ossetia và Abkhazia của Georgia, lập thành 2 nước thân Nga, trong khi thế giới chỉ lên tiếng suông chứ không có một hành động cụ thể nào để bảo vệ Georgia. Liệu rằng với sự hiện diện của Trung Quốc ở Tây Nguyên và các vùng có dân tộc thiểu số để khai thác quặng mỏ, có ai bảo đảm rằng Trung Quốc sẽ không làm như Nga ở Georgia?

Chúng ta còn nhớ vào đầu tháng 8/2008 và kéo dài đến tháng 9/2008, mạng Sina.com cùng 3 mạng khác ở Trung Quốc đăng kế hoạch cùng bản đồ đánh chiếm Việt Nam trong 31 ngày với 310,000 quân hải lục tiến từ Vân Nam, Quảng Tây và Vịnh Bắc Bộ, dùng hỏa tiển tầm xa bắn phá 5 ngày đầu để làm tê liệt hóa khả năng truyền thông của Việt Nam. Theo Giáo sư Ngô Vĩnh Long ở Đại Học Maine, là có sự nhúng tay của Bắc Kinh, vì thường những thông tin chính quyền ngăn cấm không thể xuất hiện quá 3 ngày. Giáo sư Long cho rằng nếu Việt Nam lo sợ thì Trung Quốc lấn hơn, nếu mạnh mẽ thì Trung Quốc dè dặt. Các mạng này cho rằng Việt Nam là mối đe dọa chủ yếu nhất đối với an ninh Trung Quốc, là trở ngại lớn nhất đối với sự trổi dậy của Trung Quốc, là đầu mối và trọng tâm chiến lược của toàn bộ khu vực ĐNÁ, muốn kiểm soát ĐNÁ cần chinh phục Việt Nam và Việt Nam là một cái xương khó nuốt (BBC 8/2008). Chủ Tịch Quốc Hội Nhật, ông Tamisuke Watanuki khi viếng Hà Nội ngày 10/1/2002 đã nói với ông Nguyễn Văn An, Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam lúc bấy giờ là “mối đe dọa đang nằm ở kế bên” (Asia Times 1/2/06). 

Với chính sách cưỡng bách là mỗi gia đình chỉ có một con và văn hóa trọng nam khinh nữ, xã hội Trung Quốc hiện nay có khoảng 37 triệu trai thừa và sẽ tăng lên khoảng 40 triệu vào năm 2020 (english.peopledaily.com.cn 10/7/07 và Wikipedia). Tầng lớp này hiện đang bước dần vào hạng tuổi lãnh đạo ở các cấp chính quyền Trung Quốc. Nhiều nhà xã hội học lo lắng rằng thành phần này có tâm lý phiêu lưu, họ dễ đưa Trung Quốc vào con đường mạo hiểm và sẽ tạo bất ổn cho thế giới. Nhìn cách Trung Quốc cư xử trịch thượng đối với Việt Nam trong những năm gần đây thì dù thờ ơ đến đâu chúng ta cũng phải bắt đầu lo lắng. Mặc dù Bộ Chính Trị Đảng CSViệt Nam đã hết sức quỵ lụy, một lòng theo chủ trương “nhất biên đảo” (ngã hẳn về một bên thân Trung Quốc), nhưng Việt Nam càng khiếp nhược nhường nhịn thì Trung Quốc càng “được đằng chân lân đằng đầu,” càng gia tăng sự lấn áp để bành trướng.

Trung Quốc là một quốc gia độc tài toàn diện và đang có tham vọng bá quyền. Trong chế độ độc tài, các lãnh tụ nếu muốn củng cố địa vị lãnh đạo của mình thường lúc nào cũng phải hát giọng cao như Đại Hán, ái quốc, bành trướng không gian sinh tồn, hùng mạnh, đánh Đài Loan, dạy cho Việt Nam một bài học, đánh Ấn Độ lấy tỉnh Arunachal Pradesh, chứng tỏ sức mạnh cường quốc của mình cho thế giới kính sợ v.v... Nếu ai hát giọng thấp thì sẽ bị mất quyền lực ngay. Biến cố Thiên An Môn 1989 đã thể hiện rõ điều này khi những người lãnh đạo ôn hòa muốn thương thảo với sinh viên đều bị hạ bệ. Trung Quốc đang có nhu cầu đánh một trận lấy chiến thắng để thị uy cùng thế giới và họ đã chọn chiến trường đầu tiên là Việt Nam, vì nó hội đủ tất cả mọi điều kiện để Trung Quốc chiến thắng dễ dàng, nhanh chóng, thu được các mối lợi cao như biển Đông, tài nguyên, và mở được cửa ngõ chiến lược để bành trướng xuống vùng ĐNÁ. Do đó, vấn đề Đánh Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn mà thôi. Trung Quốc đã gài được cái thế tương quan để Việt Nam đi từ một quốc gia có chủ quyền (trước 1991 với sự độc lập tương đối), đến sự liên hệ hợp tác song phương (sau khi thiết lập bang giao 1991 để bắt đầu đi vào con đường chư hầu), rồi trói chặt Việt Nam bằng sự liên hệ hợp tác chiến lược toàn diện (sau 2008 và đi vào vòng nô lệ). Trung Quốc không đánh Việt Nam chỉ khi nào bất chiến tự nhiên thành, do Việt Nam chịu cam thân làm nô lệ. CSViệt Nam chấp nhận như vậy nhưng dân tộc Việt Nam có chịu tiếp tục bị đô hộ hay không?

 

CSViệt Nam và chính sách quỵ lụy

Việt Nam-Trung Quốc núi liền núi sông liền sông…
 Đất nước chung nghe tiếng gà gáy cùng

                         
(bài hát CSViệt Nam)

Trung Quốc đã coi Việt Nam là chư hầu và đang đưa Việt Nam vào tình trạng nô lệ, chủ tâm làm hao mòn để dân tộc Việt Nam bị tiểu nhược. Khi cư xử với các quốc gia ĐNÁ khác, Trung Quốc tôn trọng họ. Với Việt Nam, Trung Quốc hoàn toàn thiếu sự khoan nhượng và có tính cách thống trị.

Từ tháng 2/1999 đến 12/2000, Trung Quốc ký với tất cả 10 quốc gia ĐNÁ các thỏa ước khung sườn cộng tác song phương, qua hình thức tuyên bố chung giữa các bộ trưởng ngoại giao hay phó thủ tướng, chỉ trừ Việt Nam là phải có thêm thỏa ước ký bởi 2 tổng bí thư. Khi ký với các quốc gia khác, Trung Quốc đều cho dựa vào các điều khoản luật quốc tế như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và những hiệp ước quốc tế. Riêng Việt Nam, thỏa ước 1999 không dựa vào điều khoản luật quốc tế nào cả, thỏa ước năm 2000 thì chỉ dựa vào Hiến Chương LHQ và 5 nguyên tắc sống chung hòa bình. Trong việc thực hiện sự cộng tác giữa Trung Quốc và các quốc gia khác, Trung Quốc chỉ đòi hỏi tổng quát là trao đổi cấp cao. Riêng Việt Nam, thỏa ước 1999 đòi hỏi toàn diện cộng tác từ đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng, các địa phương. Đối với các quốc gia khác, Trung Quốc đòi hỏi họ hỗ trợ Trung Quốc một cách chung chung mà thôi. Riêng Việt Nam thì hết sức là chi tiết và đòi hỏi Việt Nam tuyệt đối không bao giờ được phát triển quan hệ chính thức với Đài Loan. Trung Quốc cam kết tôn trọng sự độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ với 8 trong 10 quốc gia ĐNÁ, trừ Việt Nam và Brunei. Trung Quốc hứa tham khảo và cộng tác với các quốc gia ĐNÁ ở các diễn đàn quốc tế như LHQ, ASEAN, ASEAN+3, trừ Việt Nam. Về sông Cửu Long, Trung Quốc hứa với Lào, Miến Điện, Thái Lan, Cam Bốt là giúp họ phát triển vùng hạ lưu, trừ Việt Nam (Thayer 25/3/06). 

Chiếc tàu thoát nạn trở về mang trên thân hàng trăm dấu đạn. Tàu này bị tàu Trung Quốc tấn công bắn chết 1 người và bắn trọng thương 5 người. Còn 1 chiếc tàu khác bị tấn công nghiêm trọng hơn, trên tàu có 8 người bị giết hại, 8 người bị bắt (trong đó có 2 người bị thương). Cả người và tàu đều bị phía Trung Quốc chiếm giữ. Sự kiện xảy ra ngày 8.01.2005.

Cũng trong thời gian xảy ra sự kiện nghiêm trọng này, Thủ tướng Phan Văn Khải và Chính phủ VN đích thân đến Đại sứ quán Trung Quốc nâng ly chúc mừng cho chu kỳ kỷ niệm bang giao giữa hai nước. Cố nhiên là không có lấy 1 lời về sự kiện cực kỳ nghiêm trọng này.

Trong khi CSViệt Nam bị Trung Quốc bức hiếp thì các quốc gia khác, dù nhỏ yếu hơn Việt Nam như Phi Luật Tân, đã can đảm chống lại Trung Quốc để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Có thể nói vấn đề tranh chấp Trường Sa trong hai năm qua là vấn đề giữa Trung Quốc và Phi, chứ không phải giữa Trung Quốc với Việt Nam, bởi vì Việt Nam chấp nhận thua thiệt và im lặng. Ngày 9/7/2007 Trung Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam trong vùng Trường Sa, tàu hải quân BPS-500 của CSViệt Nam có mặt ở đó, nhưng chỉ đứng nhìn (BBC 20/7/07). Quy Ước Ứng Xử năm 2002 giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á chỉ là một văn bản có tính cách hứa hẹn không làm phức tạp vấn đề, nó không có tính cách ràng buộc, không có chế tài, không có hải hình rõ rệt vì Trung Quốc không chịu để Hoàng Sa vào, và không bao gồm tất cả các quốc gia tranh chấp vì không có Đài Loan tham dự. Trung Quốc đã coi nó như một tờ giấy lộn. Thỏa hiệp hợp tác địa chấn biển và thăm dò dầu khí chung trong vùng tranh chấp giữa Trung Quốc, Phi và Việt Nam năm 2005 có hiệu lực 3 năm, đã mãn hạn ngày 30/6/2008 và không được gia hạn. Phi đã hủy bỏ năm 2007-2008 vì cho rằng Trung Quốc bắt nạt, áp lực Quốc Hội Phi đòi thay đổi đường bờ biển căn bản. Đối lập Phi cho là vi hiến và tham nhũng. Phi còn thông qua luật ngày 17/2/2009 coi các đảo là “regime islands” thuộc chủ quyền của Phi, mặc cho Trung Quốc phẫn nộ. Bà Tổng Thống Gloria Arroyo còn cố ý ký thành luật vào ngày tân đại sứ Trung Quốc trình ủy nhiệm thư 10/3/2009, chỉ hai ngày sau biến cố tàu Impeccable bị Trung Quốc xách nhiễu ở 75 dặm cách đảo Hải Nam. Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và Bộ Trưởng Quốc Phòng Phi đã phản ứng dữ dội về việc Trung Quốc đưa tàu Ngư Chính 311 vào vùng Trường Sa. Trung Quốc phải dịu giọng giải thích đó chỉ là những hoạt động thường lệ và ngày 24/3/2009 hứa giải quyết ôn hòa. Với Mỹ và Phi, Trung Quốc chưa dám phản ứng bằng cách gởi tàu chiến hạng nặng. Mỹ tuy có ráo riết theo dõi căn cứ hải quân Tam Á của Trung Quốc ở Hải Nam (qua vụ máy bay thám thính EP-3 bị chiến đấu cơ Trung Quốc đụng  tháng 4/2001 và vụ tàu Impeccable) nhưng cho đến nay lập trường của Mỹ giới hạn vào sự thông thương tự do ở hải phận quốc tế, cách bờ 12 hải lý, và các công ty Mỹ không bị đe dọa khi khai thác hợp pháp trong các vùng đặc quyền kinh tế của phạm vi 200 hải lý hay xa hơn (Jamestown.org 30/4/09).

Nhật Bản còn mãnh liệt hơn Phi trong việc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Nhật đơn phương tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế từ lằn chính giữa của đảo Ryukyu và bờ biển Trung Quốc, chỉ có Nhật độc quyền khai thác và Nhật sẽ có hành động trừng phạt nếu Trung Quốc vi phạm. Nhật còn đe dọa Trung Quốc không được khai thác gần đường ranh vì có thể rút dầu từ bên phía Nhật ở dưới mặt đất. Trung Quốc tuy viện dẫn thềm lục địa của họ kéo dài tới trũng Okinawa, nằm sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Nhật, nhưng Trung Quốc không dám có hành động gì. Luật biển Liên Hiệp Quốc UNCLOS 1982 về vùng đặc quyền kinh tế thì mơ hồ, trước kia theo thềm lục địa nhưng sau này thì thiên về đường chính giữa, như phán quyết trong vụ tranh chấp Libya-Malta, ngoài ra còn đi theo tỷ lệ của bờ biển. Trong vụ tranh chấp  Úc-Nam Dương (East Timor) thì thềm lục địa của Úc chạy đến trũng Timor, có lợi cho Úc. Nhưng sau khi Timor độc lập năm 2002, Timor đòi đường chính giữa và Úc đã tương nhượng, đồng ý là phần giữa trũng và đường chính giữa Timor được chia lợi nhuận trong sự khai thác. Trong việc tranh chấp giữa Nhật-Nam Hàn, hai bên đồng ý là có sự bất đồng và đợi đến năm 2028 sẽ giải quyết, trong hiện tại hai bên khai thác chung phần nằm giữa trũng và đường chính giữa. Cũng như Trung Quốc, thềm lục địa Nam Hàn chạy đến trũng  Okinawa. Hiện giờ lằn ở giữa được LHQ chiếu cố và phương pháp giải quyết tranh chấp thường dùng là “thỏa thuận tạm thời và thực tiển”. Trung Quốc muốn như vậy đối với Nhật nhưng Nhật cương quyết từ chối và Trung Quốc không làm gì được. Ngay cả vùng đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Diaoyu), Trung Quốc và Đài Loan có thế mạnh về lịch sử và thềm lục địa, nhưng Nhật đòi cả 220 hải lý vùng đặc quyền kinh tế tính từ hòn đá phía Đông của Nhật mà họ gọi là đảo Okinotori, vi phạm Điều 212(3) của UNCLOS (Asia Times 1/2/06).

Nhật là một quốc gia đã từng chiếm đóng Trung Quốc và là một cường quốc cho nên Trung Quốc không dám hiếp đáp. Do đó Trung Quốc dòm ngó ĐNÁ, nhất là Việt Nam là nơi mà Trung Quốc dễ bắt nạt. Trung Quốc với bản đồ chữ U nộp Liên Hiệp quốc (LHQ) chiếm 80% biển Đông, đòi 350 hải lý thay vì 200 như quy ước, diện tích đòi là 3 triệu km², trong khi theo quy ước chỉ là 270 ngàn km² (Strait Times 19/5/2009). Trung Quốc dùng vũ lực chiếm 7 đảo ở Trường Sa và khoảng 100 giếng khoan dầu mà Trung Quốc nói là nằm trong vùng biển của họ với trử lượng 22.5 tỷ tấn dầu trong tổng số khoảng 35 tỷ tấn. Trường Sa còn là một vị trí chiến lược quan trọng, Trung Quốc có 21 trong tổng số 39 đường hàng hải đi qua vùng Trường Sa. Trường Sa nằm ngay trung điểm của chữ S để tiến Đông qua Thái Bình Dương và tiến Tây qua Ấn Độ Dương và Trung Quốc coi Trường Sa là lưỡi gươm bén của họ (John Chan, WSWS.org).

Vì đặt quyền lợi đảng và quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi dân tộc, CSViệt Nam đã hoàn toàn lệ thuộc Trung Quốc để duy trì độc quyền lãnh đạo. Biết được nhược điểm này, Trung Quốc đã biến họ thành những quan thái thú dễ sai của thời kỳ đô hộ mới. Do đó trong sự liên hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, CSViệt Nam đi từ quỵ lụy này đến quỵ lụy khác. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, khi các quốc gia Âu Châu theo chính sách quỵ lụy Phát Xít thì chỉ giúp cho Phát Xít bành trướng thêm lên và kết quả chỉ là thảm họa. Với chủ trương 16 vàng 4 tốt “Láng giềng hữu nghị - Hợp tác toàn diện - Ổn định lâu dài - Hướng tới tương lai” và “Láng giềng tốt - Bạn bè tốt - Đồng chí tốt - Đối tác tốt”, con thuyền Việt Nam đã bị CSViệt Nam buộc chặc vào con thuyền khổng lồ của Trung Quốc. Các câu này rõ ràng là để áp dụng cho Việt Nam chứ không phải Trung Quốc, nói một cách giản dị là “vì ở cạnh Trung Quốc nên phải cư xử thân thiện với Trung Quốc, hoàn toàn vâng theo lời Trung Quốc, có như vậy Trung Quốc mới cho được yên ổn cầm quyền lâu dài, và Trung Quốc đi hướng nào thì Việt Nam phải đi theo hướng đó”, và “đã ở bên cạnh Trung Quốc thì phải làm đàn em ngoan ngoãn, làm đảng viên trung thành, làm nơi cho Trung Quốc bán hàng và khai thác tài nguyên”, luôn làm “tốt” để phục vụ quyền lợi Trung Quốc.

Láng giềng tốt: Trung Quốc dọn mìn ở vùng biên giới và vùng đèo Hữu Nghị 3 lần, lần thứ I từ 1992-1994, lần thứ II từ 1997-1999 được coi là lần dọn mìn lớn nhất lịch sử thế giới, và lần thứ III từ 2005. Trung Quốc cho biết hàng ngàn mẫu trà đã được trồng năm 1999. Câu hỏi được đặt ra là mìn đó do ai đặt? và đặt trên đất của ai? Bây giờ có hàng ngàn mẫu trà là đất của Trung Quốc (VOA 31/12/08). Trung Quốc mang 200,000 quân đánh Việt Nam năm 1979, họ chiếm vùng biên giới nước ta, và Việt Nam ở thế tự vệ thì làm sao mà Việt Nam có thể đặt mìn trên đất Trung Quốc được? Chỉ có thể là Trung Quốc trước khi rút quân họ đã đặt mìn trên đất Việt Nam để phục vụ 2 mục đích: Việt Nam không thể đánh bọc hậu, và vùng đất này không ai có thể sử dụng được cho đến khi mìn được tháo gỡ. Có lẽ chính vì bị mất đất quá nhiều cho nên CSViệt Nam, qua ông Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao của Ban Biên Giới Chính Phủ Việt Nam, đã tìm cách thối thoát không đưa ra bản đồ, viện dẫn rằng có hơn 2000 cột móc (theo DPA của Đức, tất cả là 2,333 cột móc) cũng là hơn 2000 biên bản nên cần có thời gian và phải mất ít nhất 1 năm nữa (BBC 2/1/2009). Chúng ta, ai cũng biết rằng với kỹ thuật vệ tinh và GPS ngày nay, chỉ cần mang cell phone có GPS đến cột móc là vị trí này chính xác xuất hiện trên bản đồ. CSViệt Nam đã dối gạt dân để mua thời gian và tạo quên lãng trong việc nhường lãnh thổ. 

Trong hơn 3 năm vừa qua, vào mùa đánh cá của ngư dân Việt Nam, Trung Quốc ra lệnh cấm 2 tháng và năm nay tăng lên 2 tháng rưỡi từ 16/5/2009 đến 1/8/2009 lấy lý do là để bảo vệ môi trường, mà theo Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nhận xét, là Trung Quốc chiếm từ từ bằng cách tạo tiền lệ, sau một thời gian tiền lệ sẽ trở thành tập tục quốc tế, và sau đó nữa là hoàn toàn của họ, lấy một cách êm thắm, chính quyền CSViệt Nam thì lặng thinh và thế giới không ai phản đối. Theo Giáo sư Hùng, nếu Việt Nam không giữ chặt, kể cả tử chiến, những gì mình còn chưa mất, thì Trung Quốc sẽ tiếp tục lấy nữa, và điều kiện tiên quyết là lãnh đạo Việt Nam phải nhất trí, coi nguy cơ bá quyền của Trung Quốc là nguy cơ lớn nhất, trên cả 4 đại nguy cơ mà CSViệt Nam nêu trong đại hội của họ là tục hậu, chệch hướng, tham nhũng, và diễn tiến hòa bình (RFA 1/6/09). Nhưng điều này khó thể xảy ra với thành phần lãnh đạo hiện tại. Lệnh cấm của Trung Quốc từ Cam Ranh trở lên bao phủ một vùng rộng lớn 128,000km² vào mùa biển lặng gió yên đã làm thiệt hại 60% tổng số cá sản xuất hàng năm của ngư dân (BBC 9/6/09). Trả lời yêu cầu của ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn đến ông Đại Sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường, ông phát ngôn nhân Tần Cương của Trung Quốc cho biết lệnh cấm đánh cá là cần thiết, là biện pháp thông thường và đứng đắn trong vùng lãnh thổ của họ. Báo chí và dư luận ở Trung Quốc còn cho là họ làm như vậy và tăng lệnh cấm từ 2 tháng lên 2 tháng rưỡi là để thăm dò ý chí của Việt Nam, vì Việt Nam đã có hành động khiêu khích như lập quận Hoàng Sa, họ cần cảnh báo để Việt Nam không đi quá xa, nếu Việt Nam có hành động gì thì Trung Quốc sẽ ra tay mà không bị mang tiếng là bắt nạt, và “vũ lực đằng sau lời lẽ là điều cần thiết”.

Bạn bè tốt: Tháng 12/2005 Trung Quốc đe dọa công ty dầu Ấn Độ ONGC trong việc hợp tác khai thác với Việt Nam ở biển Đông. Trung Quốc cũng đe dọa như vậy với công ty BP của Anh tháng 4/2007 khiến BP phải bỏ, và Exxon-Mobil của Mỹ tháng 7/2008. Trung Quốc thao diễn quân sự ở Trường Sa một tuần từ 16/11/2007 và mở tour du lịch cho dân Trung Quốc. Ngày 2/12/2007 Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn thành lập huyện Tam Sa để bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa. Khi Việt Nam tổ chức hội nghị APEC tháng 11/06, Trung Quốc cảnh cáo là không được mời Đài Loan tham dự. Trong công tác nhân đạo, tàu bệnh viện USS Peleliu của HK đến cảng Đà Nẵng giữa tháng 7/2007 nhưng CSViệt Nam không cho lên bờ và không cho dùng trực thăng để di chuyển bệnh nhân vì sợ Trung Quốc phật lòng. Cuối tháng 7/2007 ông Du Tích Khôn, chủ tịch đảng Dân Tiến Đài Loan (DPP) đã được CSViệt Nam cấp visa để viếng thăm Việt Nam đầu tháng 8/2007 nhưng Trung Quốc áp lực và CSViệt Nam hủy bỏ. DPP coi đó là “một hành động lăng mạ phỉ báng” và “hết sức bất nhã” của CSViệt Nam. Đại sứ CSViệt Nam ở Trung Quốc, ông Trần Văn Luật, cuối tháng 8/2007 đã bị Trung Quốc gọi đến để huấn thị là báo chí Việt Nam phải ngưng đăng những tin tức về sản phẩm Trung Quốc thiếu chất lượng mà báo chí trên thế giới đang ồn ào loan tin, nếu không thì hàng hóa Việt Nam gặp vấn đề tại biên giới. Trung Quốc không làm như vậy với đại sứ của các quốc gia Tây Phương trong khi báo chí tây phương ồn ào nhất về việc này. CSViệt Nam đã đồng ý cho ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Negroponte công du Việt Nam trong chuyến đi giữa tháng 9/2008 nhưng lại hủy bỏ vào giờ phút chót với lý do là thời tiết xấu. Ông Carlyle Thayer tiết lộ là các quan chức Việt Nam cho ông biết do Trung Quốc áp lực, đe dọa sẽ hủy bỏ chuyến đi Trung Quốc của ông Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm (BBC 16/8/07 và 29/9/2008). Qua các sự kiện này thì ta thấy ai tốt với ai?

Bộ Chỉ Huy Giám Sát Hàng Hải của Trung Quốc nói rằng đối với các hải đảo và biển, Trung Quốc phải kiểm soát và quản lý thay vì cứ nói chứng cớ lịch sử. Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Đại Học Quốc Phòng Trung Quốc cho rằng Trung Quốc phải kiểm soát thường xuyên và lâu dài vì ngoài nguồn cá còn phải chứng tỏ chủ quyền tối cao. Trong khi đó CSViệt Nam cứ nhai đi lập lại một cách sáo rỗng về chứng cớ lịch sử và cơ sở pháp lý mà không có một hành động cụ thể nào cả, kể cả vấn đề tương đối dễ dàng như đưa ra Liên Hiệp Quốc để đánh động dư luận quốc tế (South China Morning Post 16/4/2009).

Về sông Cửu Long, nó là bộ phận cốt lõi trong chu kỳ sinh động của quả địa cầu, sứ mệnh thiêng liêng của nó là bào mòn, chuyển tải và bồi đắp, mang vật chất từ nơi cao để đem về nơi thấp. Tất cả những công trình thủy đập, dù có cao kiến cách mấy cũng làm cho nó mất thăng bằng, làm xáo trộn sự tuần hoàn của quả đất, đóng góp vào sự tuyệt chủng của các sinh vật. Trong lịch sử của quả địa cầu, đã có ít nhất 5 lần đại tuyệt chủng do môi trường biến đổi, và hiện nay có khoảng 400 sinh vật bị tuyệt chủng mỗi ngày (Inquiry into Life, Mader, 12th Ed.). Sự mất thăng bằng trầm trọng của sông Cửu Long sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại của các sinh vật sống ở vùng hạ lưu sông này, nhất là cư dân. Chỉ riêng ở Vân Nam, Trung Quốc đã xây 14 đập lớn, dung lượng của một đập Tiểu Loan đã bằng tất cả các hồ chứa ở ĐNÁ cộng lại. Giáo sư Ngô Đình Tuấn, Chủ Tịch Hội Đồng Khoa Học Viện Nghiên Cứu Nước và Môi Trường ĐNÁ nói rằng Trung Quốc đang “bức tử” sông Cửu Long. Trung Quốc còn lấy nước sông Cửu Long đưa về Trường Giang để bù vào việc họ lấy nước Trường Giang đưa lên mạn Bắc qua việc xây đập Hoàng Hà. Dòng sông đi qua 6 nước, trên nguyên tắc nó là con sông quốc tế và mọi việc phát triển nếu có, phải do cả 6 nước tham dự và quyết định, nhưng Trung Quốc không công nhận điều này và tự tiện coi nó là con sông quốc gia, khai thác bất cần hậu quả cho những quốc gia ở hạ nguồn. Việt Nam tất nhiên là hứng chịu những hậu quả nặng nề nhất vì là nước ở phía cuối dòng sông (BBC 3/6/2009).


Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đảng CSTQ - Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư đảng CSVN, tại trụ sở TW đảng CSVN (ảnh Tiền Phong) Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai đảng cộng sản đã ký Thỏa thuận hợp tác về đào tạo cán bộ giai đoạn 2009-2015. (BBC 13.6.09)

Đồng chí tốt: Trong chuyến viếng thăm ngày 13/6/2009 ở Hà Nội, ông Lý Nguyên Triều, Ủy Viên Bộ Chính Trị, Bí Thư Ban Bí Thư, và Trưởng Ban Tổ Chức Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã ký thỏa thuận với ông Nông Đức Mạnh để đào tạo cán bộ cho Việt Nam giai đọan 2009-2015. Trong hệ thống đảng CS, ai cũng biết người Trưởng Ban Tổ Chức Đảng là người đầy uy quyền trong vấn đề sắp xếp nhân sự. Một ông Trưởng Ban Tổ Chức Đảng CS Trung Quốc đến Việt Nam và CSViệt Nam cam kết để họ đào tạo nhân sự cho cán bộ đảng mình trong 6 năm tới, cho họ cái quyền đào tạo và sắp đặt nhân sự lâu dài, cho ta thấy rõ sự lệ thuộc của đảng CSViệt Nam vào đảng CSTrung Quốc lớn như thế nào. Trong khi đó thì ông Mạnh hết lời ca ngợi quan hệ 2 bên được nâng lên “tầm cao mới”  và  hứa sẽ “làm hết sức mình” (BBC 13/6/2009). Đây là “tầm cao” Bắc thuộc của quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện mà CSViệt Nam vừa nâng cấp năm 2008.

Bà Bảy Vân, vợ ông Lê Duẫn, trả lời phỏng vấn của ông Xuân Hồng đài BBC vào tháng 8/2008 nói rằng “Trung Quốc lấy cái thế là trước kia ông Phạm Văn Đồng có ký một văn bản cho phép Trung Quốc quản lý ở Hoàng Sa vì ‘ngụy‘ đã đóng ở đó”. Đại biểu quốc hội CSViệt Nam, ông Dương Trung Quốc hôm 28/5/2009 phát biểu trước diễn đàn quốc hội rằng “bài học lịch sử cho thấy, chỉ một sai sót của chính phủ, dân tộc phải chịu đựng hậu quả lâu dài”. Ông nói tuy ngoại giao, quốc phòng quan trọng, nhưng quan trọng hơn hết là lòng yêu nuớc và tinh thần quyết tử của người dân cho sự quyết sinh của tổ quốc. Trung Quốc đã mặc nhiên coi Hoàng Sa và vùng biển chung quanh là của họ và chỉ trích Việt Nam tiền hậu bất nhất, đã nhường Hoàng Sa cho Trung Quốc trước đây sao bây giờ lại đòi. Ông Tần Cương đã nói nhiều lần “Việt Nam phản đối là thiếu cơ sở, vì là hoạt động bình thường trong vòng lãnh hải Trung Quốc. Tây Sa (Hoàng Sa) và vùng nước kế cận là chủ quyền của Trung Quốc không thể chối cải, và tranh chấp về vùng này giữa Trung Quốc và Việt Nam là hoàn toàn không có,” “Việt Nam có những tuyên bố khác nhau trong những thời điểm lịch sử khác nhau” (BBC 27/11/2007 và 9/12/2008).

Đối tác tốt: Tháng 4/2009 ông Thủ Tướng Dũng đi Hải Nam, Quảng Đông hết lòng ca ngợi Trung Quốc, hết lòng đề cao việc thực hiện 2 đại lộ 1 vành đai, trả lời tờ Đại Công Báo ở Hong Kong rằng phát triển quan hệ với Trung Quốc là “chủ trương nhất quán và ưu tiên hàng đầu” của chính sách đối ngoại Việt Nam, nói rằng “năm 2008 nâng quan hệ song phương lên quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Trong khi đó thì thống kê của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội Việt Nam cho biết có 75,000 lao động nước ngoài làm việc ở Việt Nam (con số thực sự có lẽ cao hơn nhiều) và trong đó hơn 37% là bất hợp pháp, chủ yếu là người Trung Quốc. Trong khi đó thất nghiệp tại Việt Nam gia tăng mà theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A của viện nghiên cứu IDS ở Hà Nội, nó tạo ra một vấn đề xã hội nghiêm trọng vì có những việc trong khả năng mà người Việt Nam không được làm. Để xoa dịu sự bất mãn của dân chúng, tháng 4/2009 ông Dũng yêu cầu Bộ Lao Động cứu xét và ngày 25/5/2009  bà Bộ Trưởng Bộ Lao Động Nguyễn Thị Kim Ngân nói Bộ Lao Động không có trách nhiệm, đổ lỗi là do các chính quyền địa phương rồi… đứt đuôi ở đó. Ký giả David Pilling, báo Financial Times, nhận xét rằng bauxit là món quà triều cống của CSViệt Nam cho Trung Quốc và Việt Nam là nước bị Trung Quốc ép nhiều nhất. Triều cống bằng tài nguyên thiên nhiên và công ăn việc làm của dân chúng là những cống phẩm mới của thời đại. Do đó chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi ông Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng cả vú lấp miệng em trong Quốc Hội ngày 12/6/09 là ý kiến “ngày càng đồng thuận”, “chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà Nước” và ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Phú Trọng nói nên tránh “ảnh hưởng xấu đến quan hệ ngoại giao”. Trong khi CSViệt Nam quỵ lụy Trung Quốc thì lòng ái quốc của mọi tầng lớp quần chúng đã vượt qua sự sợ hãi. Đông đảo các khoa học gia và trí thức đã cất cao tiếng nói của mình như các ông Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Thế Hùng. Dù sống trong chế độ độc tài toàn diện, Luật Sư Cù Huy Hà Vũ đã can đảm kiện thủ tướng Việt Nam ngày 11/6/2009. Các cựu tướng Võ Nguyên Giáp, Đồng Sỹ Nguyên, đương kim thiếu tướng công an Lê Văn Cương đã mạnh mẽ lên tiếng bảo vệ Tây Nguyên (RFA 5/6/2009, BBC 28/5 và 14/6/2009).

Giữa tháng 5/2009 người Việt Nam ngỡ ngàng về mạng vietnamchina.gov.vn của chính quyền Việt Nam, mà luật về Internet của thế giới quy định cái đuôi gov.vn là của chính quyền Việt Nam, do chính quyền Việt Nam độc quyền chủ quản, vì nó tiêu biểu cho độc lập, chủ quyền và sự quản lý đất nước. Cái máy computer chủ phải đặt ở trong nước, nhưng trang mạng này lại có máy chủ đặt ở Trung Quốc, muốn thay đổi gì, Việt Nam phải sử dụng công hàm ngoại giao để xin phép, và nội dung lại tuyên truyền cho sự bành trướng biển Đông của Trung Quốc, như ông Tần Cương tuyên bố chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc ở Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa). Mạng này đã được chính lãnh đạo chóp bu 2 nước là các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Hồ Cẩm Đào, Trương Đình Tuyển, Bạc Hy Lai khai trương ở Hà Nội ngày 16/11/2006. Chính quyền CSViệt Nam đã vi phạm luật Internet quốc tế và Điều 88 Bộ Luật Hình Sự CSViệt Nam về tội “Tuyên truyền chống Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chũ Nghĩa Việt Nam”. Công An thay vì bắt họ lại cố ý bắt lầm Luật sư Lê Công Định, một người đã nhiệt tình bảo vệ Việt Nam, họ tìm cách lái sự quan tâm của quần chúng vào vấn đề nhân quyền, vì nó ít nguy hiểm cho chế độ hơn là vấn đề bảo vệ quyền lợi quốc gia dân tộc.

 

Rừng Núi Dang Tay Nối Lại Biển Xa (nhạc Trịnh Công Sơn)

Tây Nguyên và Hoàng Sa-Trường Sa đang dang tay réo gọi dân tộc Việt Nam ra sức giữ gìn nối lại. Đây là một thách thức lớn lao của thế kỷ khi dân tộc đang ở trong hai gọng kềm của Trung Quốc và thái thú Việt Nam. Đó là chưa nói đến các cường quốc khác sẵn sàng thủ lợi, thương lượng trên đầu dân tộc Việt Nam.

Sau ngoại giao bóng bàn tháng 4/1971, Hoa Kỳ và Trung Quốc trở nên thân thiện hơn để chống Liên Sô, tạo điều kiện cho Hoa Kỳ rút quân trong những năm sau đó qua chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh”. Hoa Kỳ đã trả ơn này cho Trung Quốc bằng cách để hải quân Hoa Kỳ đứng nhìn Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa tháng 1/1974. Sau khi ông Đặng Tiểu Bình viếng Hoa Kỳ vào tháng 1/1979 thì tháng 2/1979 Trung Quốc mang 200,000 quân đánh Việt Nam. Chuyên gia Nga Sergei Blagov nói với BBC (14/5/2009) nhân vụ Nga bán 6 tàu ngầm cho Việt Nam là Nga coi trọng quan hệ chính trị, kinh tế, quân sự với Trung Quốc hơn Việt Nam. Hoa Kỳ đang thiếu nợ Trung Quốc tính đến tháng 4/2009 là 763.5 tỷ đô la thì làm sao Hoa Kỳ có thể bênh vực Việt Nam được nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam? Trung Quốc chỉ cần đòi nợ là kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị hắt hơi (treas.gov/tic/mfh.txt). Nhiều người hy vọng rằng tàu khảo sát hải dương của Hoa Kỳ, USNS Bruce Heezen, ngày 11/6/2009 bắt đầu hoạt động ở vùng biển Việt Nam để tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh là một lý cớ để hải quân Hoa Kỳ giúp Việt Nam bảo vệ biển Đông. Nhưng ông Đại Sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, Michael Michalak, trả lời phỏng vấn (VOA 15/6/09) cho biết hoàn toàn là một vấn đề nhân đạo, đã được bàn thảo 3, 4 năm trước đây và đây là lần thứ hai chứ không phải lần đầu.

Điều này cho ta thấy là vấn đề an nguy của Việt Nam phải do chính người Việt Nam hy sinh bảo vệ. Ngày xưa ông cha ta chỉ dựa vào sức mạnh của toàn dân để đánh Tàu giành độc lập. Trong khi ở Cao Miên các lãnh đạo của họ tranh ngôi, cầu viện Xiêm La và Việt Nam, mỗi lần như vậy là một vài tỉnh của Miên bị mất. Sức mạnh quần chúng đã được chứng tỏ một cách rõ rệt qua sự thành công của các cuộc cách mạng màu (ôn hòa) ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là điều mà CSViệt Nam ngày nay vô cùng lo sợ, bởi vì nếu lòng bảo vệ quốc gia dân tộc của dân chúng được CSViệt Nam coi là “âm mưu diễn tiến hòa bình” và sự mãi quốc cầu vinh lại đuợc ông Nguyễn Minh Triết nói là “chính nghĩa sáng ngời” (BBC18/6/2009), thì một ngày không xa, khi ý chí của quần chúng đã vươn lên thì không ai có thể ngăn cản được.

Trung Quốc đã dùng vũ lực để cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, do đó nó hoàn toàn bất hợp pháp trên bình diện công pháp quốc tế, cho nên nếu chế độ Việt Nam Cộng Hòa còn tồn tại thì Hoàng Sa vẫn là của Việt Nam. Ngày xưa ông Phạm Văn Đồng bán cái mà CSViệt Nam không có, tựa như một người anh tham lam dùng bạo lực để chiếm nhà em mình, xúi kẻ hàng xóm lấy ruộng của người em và nói là mình cho. Nếu người em không bị người anh cướp mất nhà thì việc cho ruộng này sẽ vô giá trị. Nhưng người anh đã lấy nhà người em làm của mình rồi thì không thể nói ngang với kẻ hàng xóm có võ Thiếu Lâm được. Chỉ khi nào người em lấy lại được nhà mới có chính đáng tính để nói chuyện phải trái với kẻ chiếm đoạt, với sự hỗ trợ của rất nhiều hàng xóm khác. Dù cho chưa lấy lại được nhưng cộng đồng vẫn công nhận ruộng đó là của người em, và khi kẻ chiếm đoạt bị suy yếu thì người em sẽ có cơ hội để thu về.

Một chế độ không có chính đáng tính để đòi lại Hoàng Sa, không có khả năng để bảo vệ Trường Sa, dâng Tây Nguyên làm cống phẩm, hết lòng quỵ lụy Trung Quốc nhưng vẫn bị Trung Quốc khinh khi, thì chỉ là chế độ Lê Chiêu Thống tân thời. Nếu chế độ Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa có đầy đủ chính đáng tính trên các vùng lãnh thổ này của Việt Nam, thì dân tộc Việt Nam thực sự cần một chế độ Đệ III Việt Nam Cộng Hòa để tiếp nối. Nếu toàn dân cương quyết đứng lên đòi lại quyền lãnh đạo đất nước thì nền Đệ III Cộng Hòa này sẽ thực hiện được. Nó đã xảy ra ở cạnh Việt Nam như Phi Luật Tân, Nam Dương, ở Đông Âu và sẽ xảy ra ở những quốc gia độc tài khác. Lòng dân và ý đảng đã quá khác biệt, vì lòng dân muốn xả thân cứu nước còn ý đảng thì bán nước nuôi thân. Thế mạnh của một chế độ là nội lực của toàn dân và chính đáng tính trong vấn đề lãnh thổ và lãnh hải. Hiện nay nước Việt Nam không có lực vì người dân không có quyền. Một chế độ có đầy đủ dân quyền, do nội lực của toàn dân mà ra, hoàn toàn mới và có tính liên tục, nối tiếp từ 2 nền Đệ I và Đệ II Cộng Hòa sẽ có đầy đủ chính đáng tính để bảo vệ Việt Nam – đó là một nền Đệ III Cộng Hòa. Cho nên dân tộc Việt Nam hãy cùng nhau đứng dậy mà đi, bởi vì nếu tất cả “bàn tay ta nắm” sẽ “nối tròn một vòng Việt Nam”.

Ngoài Đông Hải đâm thuyền dân đánh cá

Trên đất liền xây đá chận Cửu Long

Ngày Xưa Mã Viện Trụ Đồng

Ngày nay Thập Ngũ một lòng Bắc Phương

Nhưng :

Dân ta cương quyết chẳng nhường

Bắc Phương ta đuổi về đường Bắc Phương


Lê Minh Nguyên
19/6/2009

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường.

CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ


 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.