Áp lực truyền
kiếp: người Hán
-
PSN - 24.09.2009 | Phạm Việt Châu
LTS: Đây là một chương trong tập biên
khảo 18 chương của Phạm Việt Châu dưới tựa đề "Trăm Việt
trên vùng định mệnh" đã phổ biến trên tờ Bách Khoa ở Sài
Gòn vào những năm 1972-1973.
Tuy đã hơn 37 năm qua với biết bao vật đổi sao dời, nhưng
chỉ mới đọc lại một chương thôi mà vẫn thấy
giá trị còn nguyên vẹn, thậm chí như là một lời tiên tri của
37 năm trước mà đau đớn thay đã và đang thành sự thật cho Việt Nam và vùng Đông
Nam Á nói riêng, cả thế giới, nhất là lục địa Phi châu nói
chung đang dần bị Hán hóa bởi thực dân đế quốc Trung Hoa.
"Trăm Việt trên vùng định mệnh" đã được chuyển thể
thành ấn bản điện tử, và cũng đã phổ biến công cộng trên
nhiều websites Việt ngữ ở Hải ngoại, chỉ cần đánh tựa sách
vào google là ta có ngay cả cuốn sách.
Chúng tôi chỉ xin trích ra đây chương thứ 15: Áp lực
truyền kiếp: người Hán để thấy rằng việc Hán hóa các dân
tộc của nòi Hán đã có tự ngàn xưa, bất luận đất nước dân tộc
Trung Hoa nằm dưới bất kỳ chế độ chính trị nào: Phong kiến,
Quốc gia (Quốc dân đảng) hay Cộng sản... cũng đều có chung
một tham vọng đó mà thôi.
Những
tiếng nói “nhân danh bảy trăm triệu nhân dân Trung Hoa” của
Mao Trạch Đông cất lên đầy thách đố với thế giới, chắc chắn
không phải phát xuất từ ý thức đấu tranh cho vô sản, vì
trong số 700 triệu ấy còn không biết bao nhiêu “kẻ thù” của
giai cấp này. Thực tế, người ta chỉ có thể nhìn thấy khía
cạnh vị tộc trong giọng điệu kiêu căng phô trương sức mạnh
nhân số ấy.
Thế giới nói chung vẫn ngại ngùng trước mưu đồ muốn dùng một
phần tư nhân loại đó để gây loạn. Trong sự ngại ngùng, người
ta đã từng thấy rõ rệt những khuynh hướng muốn cầu hoà, muốn
thần phục và những khuynh hướng muốn chống đối, muốn đương
đầu. Đông Nam Á nói riêng cũng không thoát ra ngoài hai
khuynh hướng trên. Nhưng tự xé lẻ để cầu hoà, thần phục có
thể được để ở yên trong giai đoạn hiện tại, song lấy gì bảo
đảm cho tương lai, trong khi Trung Hoa đã có sẵn dự kế thống
trị. Còn chống đối, đương đầu thì không đủ mạnh, nên có quốc
gia đã bám theo đế quốc khác để tìm sự che chở. Hành động
theo phản ứng ấy đã dựa vào một mệnh đề nghe ra thường hợp
lý “Kẻ thù của kẻ thù là bạn ta”, nhưng thật ra là sai lầm
ấu trĩ trong trường hợp này. Vì hành động như vậy, chúng ta
đã đồng hoá lập trường tự vệ thiêng liêng của mình với lập
trường đế quốc. Hay nói một cách khác, chúng ta đã chỉ phụ
hoạ theo tiếng gầm gừ của bày thú dữ đang tính chuyện xâu xé
lẫn nhau mà thôi.
Muốn ý thức được con đường phải chọn trong phạm vi này, hãy
lắng nghe tiếng thì thầm thổn thức trong suốt dòng lịch sử
của các bộ tộc Bách Việt từ khi dời bỏ địa bàn Hoa Nam qua
lúc hình thành các tổ hợp Đông Nam Á tới ngày nay. Tiếng thì
thầm ấy nhắc nhở chúng ta rằng: hãy trả vấn đề Trung Cộng
lại cho cộng sản Nga, cho tư bản Mỹ, còn chúng ta, nhân dân
Đông Nam Á, chúng ta không có vấn đề Trung Cộng riêng rẽ mà
chỉ có vấn đề Tàu. Tàu thì lúc nào cũng chỉ là Tàu, và cái
mưu đồ theo đuổi tận diệt bằng cách đồng hoá các dân tộc nhỏ
yếu xung quanh (dưới hình thức này hay hình thức khác) từ
xưa đến nay cũng vẫn thế
[1]”.
Từ nhận thức ấy, hãy bàn đến chuyện Tàu – chuyện Tàu từ Hoa
Lục, chuyện Tàu từ Đài Loan và cả chuyện Tàu ở ngay trong
lòng Đông Nam Á. Từ nhận thức ấy mới thấy cần phải phòng ngự
và phòng ngự với tư thế của bày trâu chống cọp, chứ không
phải với cung cách của trẻ nít núp váy mẹ hờ. Đông Nam Á
không gây hấn, vì thực ra cũng chẳng có sức mà gây hấn.
Nhưng các nước Đông Nam Á phải nắm tay nhau giữ vững trận
tuyến của mình; có như vậy mới mong làm nhụt ý chí lũng đoạn
của Bắc phương và mới tạo được hoà bình thực sự lâu dài cho
toàn vùng.
Truyền Thống Đế Quốc
Cho tới thế kỷ 19, mối liên hệ giữa Trung Hoa và các liên
bang là mối liên hệ của thiên triều với tiểu quốc, vì Trung
Hoa vẫn tự coi là trung tâm của thế giới, một tổ hợp văn
minh cao cả ở giữa những tổ hợp của các “rợ”. Vì vậy, trước
kia người Trung Hoa không thể nào quan niệm nổi một hình
thái thế giới loài người quy tụ những quốc gia bình đẳng.
Cái tinh thần đại đồng được phô diễn một cách tốt đẹp trong
Lễ Ký đã được người Trung Hoa hiểu một cách thực tế là nhân
loại đại đồng trong sự “coi sóc” của nòi Hán và được biểu
hiện ra thành một thứ chủ nghĩa đế quốc mệnh danh là thiên
hạ chủ nghĩa.
Khi Mao Trạch Đông hô hào giải phóng toàn thể nhân loại để
thiết lập một thời đại mới thì thật ra Mao đã chỉ lập lại
cái ý thức truyền thống của Trung Hoa bắt nguồn từ trước
Công nguyên và mới chấm dứt vào cuối thế kỷ 19
[2]. Trong giai đoạn
không tiếp nối trước Mao, Khang Hữu Vi cũng đã mưu toan xây
dựng lại cái cơ cấu mục nát của Thanh triều trên ý thức này
nhưng đã thất bại (1898), cũng như Tưởng Giới Thạch đã thất
bại vì sự quật khởi của Nhật Bản, một dân tộc “rợ” vốn trước
kia vẫn thần phục Thiên triều.
Ngay từ khi mới lập quốc, người Hán đã theo đuổi một đường
lối bành trướng bằng phương cách đồng hoá mãnh liệt. Truyền
thuyết Trung Hoa còn ghi lại thời kỳ tranh chấp sông Hoàng
giữa Hán và Miêu (người Mèo) vào thiên kỷ 3 trước C.N. Trước
chính sách diệt tộc của người Hán, người Mèo đã phải lùi dần
xuống phương Nam nhưng vẫn luôn luôn bị người Hán theo đuổi
mà tiêu diệt. Trong khi nhiều bộ tộc Việt đã thiên di ra xa
hẳn vùng người Hán chiếm cứ thì người Mèo vẫn lẩn quất tại
Hoa Lục. Bỏ Hoàng Hà, họ lui xuống Dương Tử, rồi qua sông đi
về đông nam. Để tránh nạn diệt chủng, họ phải rút lên các
núi cao vùng Nam Lĩnh (người Hán về sau gọi là Miêu Lĩnh) ở
ranh tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Hồ Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên,
nơi đã được mô tả bằng thành ngữ “trời không ba ngày sáng,
đất không ba thước bằng,” vì có địa thế vô cùng hiểm trở và
bị sương mù bao phủ quanh năm. Mãi tới thế kỷ 17 mới bắt đầu
có những đoàn người Mèo thiên di xuống Đông Nam Á, tổng số
hiện nay cũng chỉ độ vài trăm ngàn. Số còn lại bị tiêu hao
dần sau mỗi đợt nổi dậy chống Hán. Cho đến nay, một dân tộc
trước kia đông đảo ngang dân Hán và đã choán giữ bình nguyên
phát triển văn minh thuỷ đạo (lúa cấy ruộng nước) đầu tiên,
nay chỉ còn lại 2,5 triệu người rải rác trên các vùng cao
nguyên cằn cỗi và hoàn toàn biến thành dân ở núi. Trường hợp
Miêu tộc được nêu lên ở đây chỉ là một trường hợp điển hình
trong lịch sử bành trướng của Hán tộc.
Đối với các bộ tộc khác cũng vậy. Sử còn chép vào cuối thế
kỷ 3 trước C.N., quân Tần xuống đánh Bách Việt ở miền nam,
tiến quân bình định đến đâu liền di dân Hán dành đất đến đó.
Chính trong dịp này, nhiều bộ tộc Việt đã thiên di. Trên
vùng đất cũ, ngoài cuộc quật khởi của bộ tộc Lạc Việt ta để
thâu hồi độc lập, ngày nay chỉ còn sót lại vài nhóm thiểu số
rút ẩn vào rừng núi. Nhóm đông đảo nhất còn lại là bộ tộc
Choang (vẫn tự xưng gốc Việt) ở Quảng Tây. Nhóm này hiện đã
được chính quyền Bắc Kinh tổ chức thành khu tự trị với mục
đích đồng hoá từng bước bằng phương cách hoà bình.
Chính sách đồng hoá các dân tộc nhỏ của Bắc Kinh ngày nay
thực ra cũng chỉ là việc kế tục các triều đại xưa và nhất là
kế hoạch do Tôn Văn đề ra. Chủ nghĩa dân tộc trong chủ nghĩa
tam dân của Tôn Văn chẳng có gì khác hơn là lập lại thành
văn ý thức Đại Hán cũ. Tưởng Giới Thạch đã thi hành chủ
nghĩa ấy và Mao Trạch Đông đã nhận xét về hành động của
Tưởng như sau: “Đối với các dân tộc ít người, chúng (Quốc
Dân Đảng) hoàn toàn kế thừa chính sách phản động của chính
phủ Mãn Thanh và chính phủ quân phiệt Bắc Dương, áp bức bóc
lột, không biết đến đâu mà kể. Vụ tàn sát nhân dân Y Khắc
Chiếu thuộc dân tộc Nông năm 1943, việc trấn áp bằng lực
lượng vũ trang đối với dân tộc ít người ở Tân Cương năm 1944
và cả hiện nay, vụ tàn sát nhân dân thuộc dân tộc Hồi ở tỉnh
Cam lúc mấy năm gần đây, đã chứng minh điều đó”[3].
Ấy là chưa kể đến vụ Tưởng tàn sát dân Đài Loan ngày 26
tháng 1 năm 1947 sau này khi Đài Loan nổi dậy đòi độc lập.
Dân gốc Đài Loan vốn không phải là người Hán. Trong vụ này,
theo báo cáo của lãnh sự Mỹ ở Đài Bắc gửi cho Bộ Ngoại Giao
Mỹ, trên năm ngàn dân Đài Loan đã bị Quốc Dân hạ sát
[4].
Từ khi Tưởng bị đánh bật ra khỏi Hoa Lục, Mao đã tiến hành
công việc Hán hoá một cách có kế hoạch hơn. Nỗ lực Hán hoá
đã ảnh hưởng tới khoảng 50 triệu dân không thuộc Hán tộc.
Việc thành lập các khu tự trị được tiến hành một cách tinh
vi nhất. Một mặt lãnh địa khu tự trị sẽ dần dần bị co rút
lại để sát nhập vào các tỉnh ngay trên đất tổ của mình.
Gần đây, Cộng Hoà Nhân Dân Mông Cổ đã tố cáo bản đồ chính
trị chính thức của Trung Cộng, công bố hồi tháng 12 năm 1971
đã vẽ lại biên giới (khu tự trị) Nội Mông, thu hẹp lãnh thổ
khu này đến một phần ba so với bản đồ chính thức công bố năm
1957. Phần lãnh thổ khu tự trị Nội Mông bị cắt xén đã được
ghép vào các tỉnh Hắc Long Giang, Liêu Đông và Trực Lệ
[5].
Thật ra, dù chẳng thu hẹp khu tự trị thì chỉ nội chính sách
di dân choán đất cũng đủ làm mất ý nghĩa tự trị rồi. Trong
phần đất còn lại của Nội Mông, người Mông Cổ chỉ còn trên
một triệu trong tổng số 6,5 triệu. Giả sử Trung Hoa trả lại
đất Nội Mông cho Cộng Hoà Nhân Dân Mông Cổ thì liệu Mông Cổ
với dân số 1,3 triệu có dám nhận lãnh hay chăng? Tại Mãn
Châu, Trung Cộng cũng đã di dân Hán lên để triệt hẳn mầm
mống phục hưng Mãn Châu quốc. Ở miền Tây, sau khi đã kiểm
soát chặt chẽ được Tân Cương bằng quân lực, Trung Cộng đã
dành cho dân Hồi Thổ (Uighur và Kazakh) chế độ khu tự trị
(1953), nhưng đồng thời cũng phát động rầm rộ phong trào
cưỡng bách di dân các tỉnh ở trung nguyên lên. Người Tây
Tạng cũng đang trong tình trạng tương tự. Những cuộc hành
quân đàn áp năm 1959 đã được mô tả là quân Tàu tiến vào Tây
Tạng đến đâu, dân Tàu lũ lượt kéo theo choán đất đến đó.
Xâm lăng bằng cách di dân tràn ngập là loại xâm lăng nguy
hiểm nhất, vì đất bị chiếm không bao giờ còn hy vọng thâu
hồi độc lập. Người Hán là dân tộc đầu tiên thấu hiểu và thi
hành phương cách ấy
[6]. Và chính vì sự
trải mỏng trên những vùng đất mới để đồng hoá các dân tộc
nhỏ khác, dân số Tàu đã phát triển một cách kinh khủng trong
năm sáu thế kỷ vừa qua
[7]. Mức độ dân số tăng
tiến quá mau đã vượt xa diện tích đất mới. Ngày nay với
chừng 800 triệu dân, Trung Hoa đang cần thấy khó sống trong
một lãnh thổ tuy rộng nhưng không đủ thực phẩm cung ứng. Sự
thiếu ăn truyền kiếp vẫn đeo đuổi người Trung Hoa như một
định mệnh, vì vậy họ đã nhìn xuống vựa lúa Á châu (vùng đất
Đông Nam Á) với con mắt thèm thuồng. Đó là lý do chính đã
khiến Tàu, dù dưới chế độ nào, cũng đều mật đưa việc thôn
tính Đông Nam Á, dưới hình thức này hay hình thức khác, lên
hàng đầu quốc sách.
Hãy bỏ qua những cuộc xua quân xâm chiếm trong lịch sử mà
chỉ xét ngay trong thời hiện đại, chúng ta thấy người Tàu đã
chiếu cố Đông Nam Á dưới hai hình thức trong hai thời kỳ
khác nhau: từ cách mạng 1911 đến khi thành lập Cộng Hoà Nhân
Dân (1949), người Tàu đã di cư xuống các nước trong vùng và
định cư luôn. Sau 1949, phong trào di cư bị chặn đứng, người
Tàu, dưới chế độ cộng sản, bèn xoay hướng khác với kế hoạch
vận dụng chính trị nhằm đưa các quốc gia trong vùng vào vòng
quỹ đạo của mình – bước đầu tiên của mưu đồ thống trị.
Hoa Kiều Ở Đông Nam Á
Thật ra thì không phải mãi tới thế kỷ 20 này mới có Hoa kiều
ở Đông Nam Á. Nước nào trong vùng cũng đều ghi nhận sự hiện
diện của Hoa kiều từ mấy trăm năm về trước. Nhưng Hoa kiều
chỉ trở thành vấn đề nan giải cho vùng này trong vòng nửa
thế kỷ nay, nghĩa là từ khi Trung Hoa có chính sách về Hoa
kiều hải ngoại và mưu toan sử dụng họ vào việc lũng đoạn các
quốc gia cho họ trú ngụ. Tổng số người Tàu ở Đông Nam Á hiện
đã lên tới 13 triệu, nghĩa là nhiều hơn tổng số dân gốc cả
ba nước Kampuchea, Lào và Mã Lai Á hợp lại. Trừ trường hợp
Miến Điện, tất cả các nước còn lại đều đang tranh thủ một
cách chật vật để tự gỡ ra khỏi vòng thống trị về kinh tế của
Hoa kiều.
Trước 1911, thường thường chỉ có đàn ông Tàu hầu hết là nông
dân và công nhân ở hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến xuống
Đông Nam Á tìm công ăn việc làm. Khi có một số vốn lớn, họ
bèn trở về xứ. Chính cái kết quả nhãn tiền về sự giàu sang
mau chóng của họ đã lôi cuốn các đợt Tàu khác xuống kiếm ăn.
Ở các xứ Phật giáo như Miến Điện, Thái, Kampuchea, Việt Nam,
nhiều đàn ông Tàu đã lấy vợ trú xứ. Theo truyền thống, họ cố
gắng biến đám con cháu lai thành Tàu hay ít ra cũng thiên về
tính chất Tàu nhiều hơn. Song, cũng có những trường hợp ảnh
hưởng đàng mẹ quá mạnh, nhiều gia đình trải qua ba bốn thế
hệ là trở thành người địa phương. Đối với trường hợp này,
không có vấn đề gì phải đặt ra cả, vì họ đã chấp nhận dân
tộc mà họ mang trong mình phân nửa dòng máu, chấp nhận quốc
gia đã nuôi dưỡng họ, và sống hoà đồng không kỳ thị với tập
thể địa phương.
Nhưng đa số người Tàu và Tàu lai đều không chịu địa phương
hoá một cách dễ dàng như vậy. Họ đã liên kết với nhau tranh
đấu cho quyền lợi riêng của họ bằng mọi thủ đoạn sâu xa có
thể có như mua chuộc, đút lót, và đã mở mang hoạt động kinh
tế của họ bằng đủ mọi phương tiện bẩn thỉu như đầu cơ tích
trữ, chợ đen, buôn lậu. Sự việc này đã gây phẫn nộ cho chính
quyền độc lập duy nhất trong vùng là Thái Lan. Năm 1910, vua
Wachirawut đã tung ra chiến dịch chống tập thể Hoa kiều mà
ông gọi là “bọn Do Thái phương Đông”. Và đến năm 1913 thì
Thái Lan đưa ra đạo luật đầu tiên về việc hạn chế hoạt động
của Hoa kiều. Thật ra nếu so sánh với sự lũng đoạn kinh tế
Đông Âu của bọn mại bản Do Thái thời ấy, thì người Tàu còn
nguy hiểm hơn nhiều, vì họ không phải là những kẻ lang thang
mất gốc. Họ còn có một tổ quốc phải hướng về và trông nhờ sự
che chở. Và vì vậy, ngoài tài tháo vát của họ, họ còn được
một thế lực chính trị to lớn là Trung Hoa chính quốc theo
dõi và ủng hộ khi cần; nhất là từ sau cách mạng 1911.
Từ sau 1911, phụ nữ Trung Hoa bắt đầu tràn xuống, những gia
đình thuần Trung Hoa được lập nên và xã hội Trung Hoa ở địa
phương dần dần ràng buộc thêm những quy luật từ chính quốc
đưa sang cho các tổ chức bang hội thi hành. Một mặt các bang
hội Tàu lo bảo vệ tập thể Trung Hoa về quyền lợi kinh tế,
cũng như về văn hoá (để giữ nguyên truyền thống Tàu), mặt
khác họ lo đẩy mạnh việc kéo hẳn những người lai sang hàng
ngũ Tàu, phần nhiều bằng những mối lợi trước mắt. Vì vậy tập
thể Hoa kiều ngày càng đông đảo và bền chặt. Cho đến thế
chiến II, người ta đã nghĩ là không có cách gì buộc họ gia
nhập vào những xã hội mà họ sinh sống. Họ lập thành một tập
thể ngoại nhân riêng biệt và cùng với tập thể thực dân Tây
phương ở vùng này, họ đã triệt để khai thác địa phương để
thu lợi.
Trong việc đầu tư khai thác, người Tây phương có vốn và uy
quyền, còn người Tàu thì thực ra chỉ đến với hai bàn tay
trắng. Nhưng với sự mẫn cán và óc tổ chức sẵn có của họ,
người Tây phương đã rất tin cẩn nơi họ. Vì thế người Tàu đã
trở nên trung gian, đầu nậu trong nhiều loại nghiệp vụ khác
nhau cho các chủ nhân ông Tây phương. Sống trong thời bị
trị, dân địa phương đã chịu khốn đốn dưới hai tầng bóc lột
Tây và Tàu. Tây nắm chính quyền, bóc lột bằng sức mạnh; Tàu
nắm kinh tế, bóc lột bằng mưu trá. Và với mưu trá, chẳng bao
lâu đã thấy xuất hiện không biết bao nhiêu những người Tàu
làm chủ các thương điếm vĩ đại, các ngân hàng, hầm mỏ, cơ sở
kỹ nghệ.Còn các hoạt động trung bình khác thì càng không
thiếu những tiệm chạp phô, những đại lý nhu yếu phẩm, những
tiệm cầm đồ, cho vay, tiệm ăn, tiểu công nghệ, v..v…, chỉ
những Tàu là Tàu. Có thể nói khắp Đông Nam Á, chỗ nào có thị
trấn là có người Tàu. Từ những cơ sở thương vụ lớn lao có
tầm mức quốc tế ở Manila đến những quán cóc ở một thị trấn
heo hút như Nam Tha tại Thượng Lào, những bảng hiệu Tàu cũng
đều thấy dựng lên ngạo nghễ.
Về số Hoa kiều ngày nay tại mỗi quốc gia, khó mà có được
bảng kiểm kê chính xác, nhất là từ khi Đông Nam Á đồng loạt
tung ra những đạo luật hạn chế Hoa kiều nhập nội và địa
phương hoá Hoa kiều thổ sinh.
Tại Phi-Líp-Pin, tới cuối thế kỷ 19, cũng là cuối thời kỳ
Tây Ban Nha đô hộ, tổng số Hoa kiều chưa tới 40.000. Nhưng
sang thế kỷ 20 tới gần thế chiến II, con số này đã tăng lên
gấp10 lần. Ngày nay, người ta ước lượng tổng số Hoa kiều vào
khoảng 600.000, nghĩa là 2% dân số Phi.
Tại Việt Nam, trong những năm đầu thế chiến II, tổng số Hoa
kiều chỉ có vào khoảng từ 320.000 tới 420.000; riêng tại Nam
Kỳ, Hoa kiều đã tập trung đông đảo nhất và chiếm tới 75%
toàn số. Nhưng từ khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, Hoa
kiều đã lợi dụng chính sách bỏ ngỏ của Pháp ào ạt đổ vào Sài
Gòn để khai thác chiến tranh, nhất là từ 1946 đến 1948. Sau
hiệp định Genève, số Hoa kiều ở Việt Nam được ước tính vào
khoảng 900.000, nghĩa là chiếm tới 7% dân số
[8].
Tại Kampuchea, theo thống kê 1955, tổng số Hoa kiều là
270.000 người, nghĩa là vào khoảng 5,5% dân số. Tuy nhiên,
thống kê này đã không kể đến số người lai, mặc dầu trên thực
tế số người lai ấy vẫn tự coi là người Tàu. Cũng như ở Việt
Nam, người Tàu di cư vào đông đảo nhất trong những năm đầu
chiến tranh Đông Dương và cũng qua ngã Sài Gòn. Hiện nay,
người Tàu ở Kampuchea gồm tổng cộng ít ra là trên nửa triệu,
nghĩa là chiếm tới 7% dân số.
Tại Indonesia, cuối thế kỷ 19, người Tàu có độ 200.000. Đến
năm 1930 số này tăng lên 1.233.000, và sau khi Indonesia
thâu hồi độc lập, tổng số Hoa kiều là 2.250.000 và đạt tới
2,7% dân số. Ngày nay, nhờ nỗ lực vận động nhập tịch, số
người Tàu thực sự được coi là ngoại kiều chỉ có 1,4 triệu.
Kể từ khi bang giao Indonesia – Trung Cộng bớt căng thẳng,
việc nhập tịch không thể tiến hành được nữa, vì Hoa kiều tin
tưởng ở sự bảo vệ của chính phủ Bắc Kinh.
Tại Mã Lai Á và Singapore, người Tàu hiện đều đông hơn người
Mã gốc. Ở Mã Lai Á có 4 triệu người Tàu, chiếm 42% dân số,
trong khi người Mã gốc chỉ có 40%, phần còn lại là người gốc
Ấn, gốc Âu, v..v… Còn ở Singapore, người Tàu có 1,5 triệu và
người Mã gốc 240.000 trong tổng số 2 triệu dân. Như vậy,
người Mã gốc chỉ chiếm 12%, trong khi người Tàu 75%.
Tại Lào, Hoa kiều có 30.000, chiếm 1% dân số. Lào là nước có
ít Hoa kiều nhất, nhưng lại bị Bắc Kinh chi phối nội tình
(các tỉnh Bắc Lào) nặng nề nhất.
Tại Thái, số Hoa kiều đã lên tới 3 triệu vào năm 1957, tức
13% dân số lúc ấy (23 triệu.) Ngày nay, khó mà phân biệt
được thành phần Hoa kiều với thành phần Lukchin (cha Tàu, mẹ
Thái) vì đối với chính phủ Thái, Lukchin đương nhiên là
Thái, nhưng đối với người Tàu, họ vẫn thừa nhận quốc tịch
cha cho Lukchin. Do đó, nếu kể chung cả hai loại này thì con
số phải vượt lên trên 4 triệu.
Tại Miến Điện, tổng số Hoa kiều có chừng nửa triệu, tức độ
1,8% dân số. Ngoài loại Hoa kiều thông thường, biên giới
Thái – Miến hiện nay vẫn còn là nơi trú ngụ của đám tàn quân
Quốc Dân Đảng (đã trình bày trong chương 9). Đám quân này đã
sử dụng vũ khí biến khu vực thành địa cứ riêng của chúng.
Căn cứ Quốc Dân Đảng hiện đã trở nên trung tâm sản xuất, chế
biến và phân phối ma tuý lớn nhất thế giới. Nha phiến và
bạch phiến sản xuất ở đây đã được tung ra khắp nơi qua ngã
Hương Cảng và Singapore bằng những đường dây buôn lậu quốc
tế. Riêng tại Đông Nam Á, tổ chức Quốc Dân Đảng này đã gián
tiếp đầu độc hàng triệu thanh thiếu niên các dân tộc bằng ma
tuý qua hệ thống phối hợp giữa bọn tay sai Hoa kiều và bọn
đương quyền nhũng lạm ở các địa phương.
Vấn Đề Nảy Sinh
Sự phát triển về nhân số quá lớn lao của Hoa kiều sau thế
chiến rõ ràng gây nguy hại không nhỏ cho Đông Nam Á và làm
cho các quốc gia độc lập trong vùng phải tìm biện pháp giải
quyết. Như đoạn trên đã trình bày, với hai nước có số Hoa
kiều tương đối ít là Lào và Miến, ta có thể nhìn thấy ngay
nguyên nhân từ khía cạnh kinh tế mà ra. Tại xứ Lào, dân số
ít, sinh hoạt kinh tế yếu kém, lợi tức thâu hoạch từ các
dịch vụ thương mại tương đối rất thấp, nên thực sự không có
gì đáng để hấp dẫn người Tàu như các xứ khác. Tuy vậy, hiện
nay người Tàu ở Lào cũng đang nắm giữ vận mệnh kinh tế xứ
này. Họ vẫn là nhóm ngoại kiều đông đảo nhất, có tổ chức
chặt chẽ và ảnh hưởng mạnh nhất. Còn tại Miến, chính vì
chính sách kinh tế chỉ huy của chính phủ Miến, các thương
gia Hoa kiều đã thối chí bỏ đi hơn là các biện pháp trực
tiếp như đã được áp dụng ở các quốc gia khác.
Tại Mã Lai Á và Singapore, tình trạng lại khác hẳn, nghĩa là
vấn đề không còn giới hạn trong địa hạt ngoại kiều nữa mà
lại toả rộng ra thành cuộc tranh chấp chủng tộc giữa những
người cùng mang quốc tịch. Mặc dầu khi chấp nhận trở thành
công dân của hai quốc gia trên, người Tàu đã chấp nhận dùng
ngôn ngữ Mã làm phối hợp văn hoá Mã Lai với văn hoá Trung
Hoa để tạo thành một nếp sinh hoạt chung; nhưng trên thực
tế, sự việc lại trái hẳn. Nghĩa là người Tàu sống trên đất
Mã đang cố Trung Hoa hoá phần đất này. Ở Mã Lai Á, người Tàu
chống lại việc học Mã ngữ và tìm hiểu phong tục tập quán Mã,
vì họ cho rằng nền văn hoá Mã không có gì đáng kể để họ quan
tâm tới. Còn tại Singapore, có hai trường đại học thì một
trường dùng tiếng Tàu, một trường dùng tiếng Anh làm chuyển
ngữ. Tiếng Mã không có chỗ đứng trong sinh hoạt văn hoá xứ
này, cũng như người Mã không còn chỗ ở trong lòng đô thị.
Tóm lại, ngoài việc nắm giữ hoàn toàn sinh hoạt kinh tế tại
Mã và Singapore, người Tàu cũng đang bành trướng mạnh về địa
hạt tạo dựng uy quyền văn hoá. Ở Mã Lai Á, quyền chính trị
vẫn còn trong tay người Mã nên dù sao cũng còn một số biện
pháp chống đỡ, mặc dù yếu ớt. Còn tại Singapore, tất cả đều
đã buông xuôi mặc cho việc Trung Hoa hoá tiến hành đến tận
chân tơ kẽ tóc của hòn đảo.
Nhưng nếu sự việc này chỉ giới hạn trong lãnh thổ Singapore
thì chưa vị tất đã là điều đáng phải báo động. Điều đáng nói
là Singapore đã trở thành cái nhọt bọc của Đông Nam Á và
đang làm nhức nhối toàn vùng. Nếu cái nhọt bọc ấy chỉ là một
vết thương xoàng thì còn dễ chữa, đàng này nó lại bị làm độc
từ bên ngoài nên càng nguy hiểm hơn. Chất độc đã được nhiễm
vào nó chính là từ Trung Quốc, kể cả Hoa Lục lẫn Đài Loan,
và cùng với Hồng Kông, Singapore đã trở thành trục chi phối
kinh tế toàn miền Đông Nam Á.
Cứ lấy bất cứ quốc gia Đông Nam Á nào ra mà xét, chúng ta
cũng có thể thấy cái cơ cấu chung như sau: thành phần đầu
não và đông đảo nhất của Hoa kiều tập trung ở thủ đô, dĩ
nhiên chủ động sinh hoạt kinh tế thủ đô; thành phần Hoa kiều
tại các thị trấn khác trong xứ có tỷ số kém hơn nhưng đóng
vai trò trung gian quan trọng. Họ là những người phân phối
hàng hoá từ hệ thống Hoa kiều ở thủ đô về và ngược lại thu
mua sản phẩm địa phương chuyển lên thủ đô. Bằng những phương
cách mờ ám riêng, họ có thể tự ý thay đổi giá cả, tạo khan
hiếm hay dư thừa một số phẩm vật, bóp chết giới thương gia
bản xứ nếu ra mặt cạnh tranh với họ trong một số dịch vụ họ
tạo được độc quyền.
Đối với toàn vùng Đông Nam Á, Hoa kiều ở thủ đô các nước là
thành phần trung gian của Singapore và Hồng Kông. Các biện
pháp chi phối nền thương mại mỗi quốc gia được phát xuất từ
trục này và giới Hoa kiều địa phương chỉ việc thi hành.
Ngoại tệ của các quốc gia đã bay sang Singapore và Hồng
Kông, cũng như hàng hoá được nhập nội từ hai địa điểm này
vào phần nhiều bằng phương cách bất hợp pháp. Trên phương
diện kinh tế có thể nói Singapore và Hồng Kông chính là đầu
não của một loại Mafia Đông Nam Á với nhân số 17 triệu (nếu
kể cả Hồng Kông) trong một hệ thống có tổ chức chặt chẽ
buông toả khắp nơi nhằm khuynh loát một tập thể trên 250
triệu con người trong vùng.
Những Biện Pháp Nửa Vời
Trước trạng huống ấy, cái quốc gia còn lại trong vùng đã làm
gì để tự bảo vệ. Hai biện pháp căn bản đã được đưa ra từ
nhiều năm truớc là hạn chế các hoạt động kinh tế của Hoa
kiều và buộc họ nhập tịch trú xứ, nhưng kết quả thực sự cũng
không mấy khả quan. Thái Lan, ngay từ 1942, đã cấm ngoại
kiều làm 27 nghề dành riêng cho người Thái, hạn chế sự nhập
nội và buộc nhập Thái tịch thành phần thổ sinh. Kampuchea
cũng đã đưa đạo luật cấm Hoa kiều làm 16 nghề và khuyến
khích họ nhập tịch Kampuchea từ năm 1955. Indonesia, Việt
Nam, Phi-Líp-Pin cũng có những biện pháp tương tự, nhưng tất
cả đều gặp những trở ngại rất phức tạp.
Trước hết, về quốc tịch, người Tàu đã có một nguyên tắc gần
như bất dịch “đã là Trung Hoa thì mãi mãi là Trung Hoa” được
áp dụng cho tất cả những người Tàu gốc hoặc Tàu lai. Nguyên
tắc ấy được cụ thể hoá qua đạo luật ban hành năm 1909, theo
đó con cái đương nhiên mang quốc tịch cha (Jus sanguinis).
Điều này trái hẳn với luật lệ được đặt ra về sau của các
nước Đông Nam Á nhằm buộc Hoa kiều thổ sinh phải nhập quốc
tịch nơi sinh (Jus soli.) Tuy nhiên, vì quyền lợi kinh tế
(để tránh điều khoản cấm hành nghề), nhiều Hoa kiều vừa nhập
quốc tịch trú xứ, vừa giữ quốc tịch Trung Hoa, tạo thành
tình trạng hai quốc tịch; hoặc nhập quốc tịch trú xứ nhưng
không chịu địa phương hoá và vẫn được tập thể Hoa kiều còn
lại chấp nhận là phần tử của tập thể để cùng liên kết trong
các mưu đồ chung.
Trên nguyên tắc, một khi Hoa kiều đã nhập quốc tịch trú xứ
rồi thì những luật lệ cấm ngoại kiều hành một số nghề không
còn ảnh hưởng gì đến họ nữa. Ngay cả đến những thành phần
vẫn giữ quốc tịch Trung Hoa cũng còn tiếp tục hoạt động được
qua những phần tử địa phương trung gian hay Hoa kiều đã cải
tịch. Tại Indonesia, trong thập niên 50, người ta đã điều
tra thấy 80% vốn các công ty mới thành lập là của Hoa kiều.
Tại Phi-líp-pin, tình trạng cũng tương tự, nghĩa là nếu chỉ
kể đến tên đứng thì số vốn đầu tư chuyển dần về phía người
Phi một cách rất đáng kể, nhưng khi điều tra lại thì chủ
nhân thực sự của những số vốn ấy vẫn là Hoa kiều.
Trước những biện pháp chung nhằm giảm thiểu sự chi phối của
người Tàu đối với nền kinh tế địa phương, chúng ta hãy thử
xét trường hợp điển hình tại miền Nam Việt Nam để xem sự
việc diễn tiến ra sao. Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm đã
ban hành Dụ số 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) làm 11
nghề:
-
Buôn bán thịt cá.
-
Buôn bán than củi.
-
Mở tiệm chạp phô.
-
Mở cây xăng.
-
Buôn bán vải vóc tơ lụa.
-
Buôn bán sắt đồng thau vụn.
-
Mở nhà máy xay lúa.
-
Buôn bán ngũ cốc.
-
Hành nghề chuyên chở.
-
Cầm đồ bình dân.
-
Trung gian ăn hoa hồng.
Về vấn đề quốc tịch, chính phủ quy định Hoa kiều thổ sinh có
quyền lựa chọn trong một thời gian ngắn: hoặc nhập Việt
tịch, hoặc về Đài Loan.
Biện pháp này đã gặp phản ứng mạnh mẽ từ phía người Tàu ở
Đông Nam Á và ở Đài Loan. Một mặt, tại quốc nội, Hoa kiều
gây phong trào không khai báo cải tịch, rút tiền ký thác tại
các ngân hàng để làm cho đồng bạc Việt Nam sụt giá trên thị
trường, mặt khác Singapore và Hồng Kông tẩy chay hàng Việt
Nam làm cho hàng vạn tấn gạo đã chở tới nơi cũng còn bị từ
chối bốc lên. Về phía Đài Loan, chính phủ Tưởng Giới Thạch
đã tạo ra tình trạng bang giao căng thẳng và vận động cả với
Mỹ can thiệp. Trước những phản ứng mạnh mẽ ấy, chính phủ Sài
Gòn đành phải dùng phương cách mềm dẻo là “thi hành các đạo
dụ trên một cách linh động”.
Rốt cuộc, tình trạng chung xét ra cũng chẳng có gì thay đổi
ngoài việc Hoa kiều thổ sinh phải đi lấy thêm một căn cước
Việt Nam. Trên thực tế, họ vẫn là Tàu, và tập thể Tàu ở xứ
này vẫn kiểm soát nền kinh tế trong xứ. Tổng thống Ngô Đình
Diệm, người đã đưa ra những biện pháp mạnh trên, rốt cuộc về
sau cũng rơi vào sự cám dỗ của một tổ chức Tàu và đã phải
chạy trốn vào một cơ sở của người Tàu ở Chợ Lớn trong vụ đảo
chính ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Về nỗ lực đồng hoá, dường như không những không tiến bộ mà
còn bị ảnh hưởng ngược lại. Trong những năm chiến tranh, tập
thể Tàu đã lợi dụng cơ hội làm giàu nhanh chóng một cách bất
chính. Vì vậy tập thể này đã tập thể này đã thu hút tất cả
những phần tử có hơi hướng Tàu, đến nỗi nhiều người Minh
Hương đã Việt hoá từ lâu nay cũng tìm cách tập nói, tập sinh
hoạt để trở lại nhận họ Tàu. Tệ hại hơn nữa, nhiều người
Nùng từ Bắc Việt di cư xuống, không có liên hệ gì Tàu, nay
cũng tìm cách gia nhập xã hội Chợ Lớn để dần dần tự biến
thành Tàu hẳn.
Cái gì đã hấp dẫn mạnh mẽ họ như vậy? Chính là những mối lợi
được đưa lại từ những hoạt động đen của tập thể, những hoạt
động có xếp vào loại Mafia tưởng cũng không có gì quá đáng.
Để che giấu những hoạt động ấy, người Tàu đã không ngại vãi
tiền ra làm một hàng rào an toàn. Nạn hối lộ đang bành
trướng ở nhiều nước Đông Nam Á đã bắt nguồn phần lớn từ sự
vung tiền mua chuộc của người Tàu. Nhận một chức vụ cai trị,
dù lớn dù nhỏ, không cần đòi hỏi cũng lập tức được người Tàu
ở địa phương tự động dâng nạp những quà tặng đáng giá, nhiều
khi quá sự mơ ước của người nhận. Sau đó sẽ là những khoản
“thuế riêng” định kỳ được đóng một cách đều đặn, kín đáo
dưới nhiều hình thức. Đổi lại, người Tàu chỉ cần chức quyền
làm ngơ cho những hoạt động bất chính của họ trong việc kiếm
tiền. Tình trạng này rất là phổ biến và đã làm suy yếu các
quốc gia có cơ cấu chính quyền non nớt hoặc đang trải qua
thời kỳ nhiễu nhương chưa ổn cố. Tại Phi trước đây cả hai
đảng Tự Do và Quốc Gia đều hoạt động bằng tiền của người
Tàu, vì vậy dù đảng nào thắng thế thì người Tàu cũng đã mua
trước được chính quyền[9].
Ngày nay người Tàu ít nhắm vào các tổ chức chính trị (trừ Mã
Lai Á và Singapore) nhưng vẫn luôn luôn bỏ tiền ra mua các
“nhân vật” địa phương.
Do những sự kiện trên, người ta có thể thấy một cách rõ rệt
là muốn giải quyết vấn đề Tàu, ngoài một chính sách thực
tiễn hữu hiệu, được thi hành đúng đắn, vừa nhằm phá tan ảnh
hưởng trục Singapore – Hồng Kông đối với nền kinh tế bản xứ,
vừa giải tán được tập thể Hoa kiều trong nước bằng đồng hoá,
chính quyền mỗi quốc gia còn cần phải tự lành mạnh hoá mình
trước. Còn có những công chức, cán bộ lén lút nhận tiền hối
lộ thì vấn đề Tàu sẽ vẫn còn nguyên vẹn đó.
Đối với Hoa kiều, chỉ có hai con đường lựa chọn: hoặc là trở
về Hoa Lục hay Đài Loan, hoặc là chấp nhận tự đồng hoá với
địa phương. Đồng hoá với địa phương, họ vẫn có thể dùng vốn
và khả năng của mình để sinh nhai một cách đúng đắn và đồng
thời góp phần vào sự phát triển xứ sở đã nuôi dưỡng họ,
nhiều khi chính là quê mẹ của họ. (Tưởng cũng nên ghi nhận
điều đáng ca ngợi về một số ít người Tàu hoặc lai Tàu đã trở
thành công dân mới của trú xứ một cách gương mẫu và đã nỗ
lực phụng sự tổ quốc mới với tất cả lòng chân thành của
mình, bất chấp sự cám dỗ của tập thể). Còn nếu Hoa kiều vẫn
sinh hoạt một cách đen tối với tập thể riêng như hiện tại,
thì sự thù nghịch với người bản xứ sẽ chỉ càng tăng thêm và
tất sẽ không thể tránh được những hậu quả đáng tiếc sau này.
Dự Kế Thống Trị
Những điều trình bày trên về Hoa kiều thật ra là mới chỉ xét
tới một vài khía cạnh. Điều nguy hiểm khác là đương nhiên họ
sẽ trở thành một đầu cầu vững chắc cho cây cầu xâm lược được
bắc từ Trung Quốc sang trong tương lai
[10]. Cái sự thực đáng
ngại ấy đã lồ lộ hiện ra từ hàng chục năm nay qua nhiều diễn
biến mà nếu phân tích kỹ chúng ta sẽ thấy những mối liên hệ
thật là rõ ràng. Nếu có điều chưa được sáng tỏ thì chỉ là ở
chỗ phương cách cuối cùng Trung Quốc sẽ thi hành để khống
chế Đông Nam Á. Vì, ngày nay người ta có thể có trăm phương
ngàn kế để khuynh đảo một quốc gia, chứ không nhất thiết
phải sử dụng trực tiếp quân đội như những thế kỷ trước.
Đối với Hoa kiều, cả hai chính phủ Trung Hoa đã cùng can
thiệp mạnh mẽ với các chính phủ liên hệ (tuỳ nước có quan hệ
ngoại giao) để giảm bớt các biện pháp có thể nguy hại đến
quyền lợi (bất chính) của tập thể này tại các nước. Trong
việc can thiệp, Đài Bắc biết thế yếu của mình nên ít lớn
lối, còn Bắc Kinh, ngay từ khi mới thanh toán xong Hoa Lục,
đã đe doạ “chúng tôi quyết không tha thứ cho bất cứ hành
động bất công hay sỉ nhục đồng bào của chúng tôi ở ngoại
quốc!”[11]
Ngay trong chương trình hành động của Đảng Cộng Sản (mùa thu
1949) cũng có nhấn rõ “Chính Phủ Nhân Dân Trung Ương của
Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc sẽ làm hết sức mình để bảo vệ
những quyền lợi hợp pháp của kiều bào ở hải ngoại”[12].
Dĩ nhiên, hình dung từ “hợp pháp” phải được hiểu theo nghĩa
của người Tàu.
Và, cũng với hành động “hợp pháp”, một nước Tàu nhỏ đã thành
hình trong lòng Đông Nam Á để sẵn sàng trở thành quân tiền
phong ghi chiến tích đầu tiên trong cuộc bành trướng của
người Hán ở nơi này. Thật vậy, ngày nay không ai còn có thể
nghi ngờ việc Singapore đã trở thành một nước Tàu nhỏ, nhưng
ngay từ 1960, dự kế Trung Hoa hoá ấy đã được vạch rõ trong
cương lĩnh của ban chấp hành trung ương đảng Nhân Dân Hành
Động (đảng hiện cầm quyền do Lý Quang Diệu làm thủ lãnh)
“Toàn thể sức mạnh và áp lực của người Trung Hoa trên thế
giới hãy sửa soạn ủng hộ cho một Singapore của Trung Hoa”[13].
Muốn thông cảm nỗi đau nhục của người dân Mã trong vụ này,
chúng ta hãy tưởng tượng nếu Sài Gòn tách ra khỏi quốc gia
Việt Nam và trở thành một nước Tàu nhỏ có tên là “Tây Cống”
chẳng hạn!
Trên thực tế, Singapore mới chỉ tách ra khỏi Mã Lai Á và trở
thành một nước Tàu nhỏ từ năm năm nay. Nhưng đối với Bắc
Kinh, mảnh đất này đã được coi như đất Trung Quốc từ lâu
rồi. Muốn hiểu rõ vấn đề này và đồng thời cả dự kế bành
trướng của Cộng Sản Tàu, chúng tôi xin nhắc lại sự phân chia
thời kỳ cách mạng của họ trước đã. Lịch sử cách mạng hiện
đại ở Trung Quốc được chia ra làm ba thời kỳ:
1. thời kỳ cách mạng dân chủ cũ từ nha phiến chiến
tranh 1840 tới Ngũ Tứ vận động 1919,
2. thời kỳ cách mạng dân chủ mới từ Ngũ Tứ vận động
tới ngày thành lập chế độ Cộng Hoà Nhân Dân 1949,
3. thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa từ 1949 tới nay
và còn đang tiếp diễn.
Theo sự giải thích của Cộng Sản Tàu, trong thời kỳ cách mạng
dân chủ cũ, các đế quốc đã châu vào xâu xé Trung Quốc và
chiếm mất nhiều đất đai. Chính quyền thời đó vì hèn yếu đã
không giữ nổi nên phải nhượng đất qua các hiệp ước bất bình
đẳng. Nay, trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân dân
Trung Quốc sẽ lần lượt xé bỏ tất cả các hiệp ước kia và giải
phóng những lãnh thổ còn lại trong tay đế quốc. Lập luận ấy
đối với chúng ta không có gì đáng nói vì đó là chuyện riêng
của Tàu. Điều đáng nói là Tàu đã mang danh nghĩa chống đế
quốc để trù tính hành động đế quốc hơn bằng cách ghép luôn
những nước nhỏ bé chung quanh vào lãnh thổ Tàu và đưa dự kế
thống trị qua mỹ từ “giải phóng”.
Khu vực Đông Nam Á được hân hạnh coi như là lãnh thổ Trung
Quốc, kể tới năm 1840, gồm có: Miến Điện, Thái Lan, Việt
Nam, Lào, Kampuchea, bán đảo Mã Lai, Singapore và chuỗi đảo
Sulu (Phi-Líp-Pin). Những vùng đất này vừa được mô tả, vừa
được vẽ vào bản đồ đính kèm trong cuốn Tân Trung Quốc Sử
Lược, một tài liệu ấn hành lần đầu tiên vào năm 1952 (và đã
được tái bản nhiều lần) dành để huấn luyện thanh thiếu niên
Cộng Sản Trung Hoa nhằm nung nấu tinh thần quốc gia quá
khích và đồng thời ý đồ xâm lược
[14].
Trong tập sử lược, Tàu đã ghi đất An Nam bị Pháp cướp
mất của Trung Quốc từ năm 1885, đất Miến Điện cũng lọt vào
tay Anh năm 1886, còn Thái Lan tức Xiêm do Anh Pháp cùng
kiểm soát và Anh Pháp đã đỡ đầu xứ này để tuyên cáo độc lập
(nghĩa là tách ra khỏi Trung Quốc) từ 1904.
Ông cha chúng ta, như ai nấy đều biết, từ sau ngày trút ách
nô lệ 1.000 năm qua trận Bạch Đằng năm 938, đã không khi nào
còn chấp nhận nền đô hộ của Tàu nữa. Việc triều cống sau này
chẳng qua chỉ là một hình thức ngoại giao phải có để tránh
nạn binh đao. Nhưng nếu nạn binh đao không thể tránh do hành
động xâm lược của Tàu thì nhân dân Việt đều nhất tề chống
lại và lần nào cũng đánh bại kẻ địch. Phần đất An Nam của
Trung Quốc trong thế kỷ 19 chỉ có thể hiện hữu trong trí
tưởng tượng của người Tàu mà thôi.
Trường hợp Miến và Thái thì lại càng kỳ lạ hơn nữa vì hai
nước này chưa hề bị Tàu đô hộ và không bị văn hoá Tàu ảnh
hưởng sâu đậm như Việt Nam. Tại Miến Điện, dưới triều đại
Konbaungset, nhà Thanh đã bốn lần đem quân xâm lược nhưng cả
bốn lần đều bị thảm bại, kết quả đưa đến hoà ước 1769 trên
căn bản hoàn toàn bình đẳng giữa hai nước. Do đó việc ghép
đất Thái Miến vào lãnh thổ cũ của Trung Quốc là một hành
động thật đáng nực cười
[15].
Vạch một biên giới như vậy rồi, Tàu sẽ làm gì để thực hiện ý
đồ ấy? Như trên đã nói, chúng ta khó mà tiên liệu mọi điều,
nhưng đại khái, chúng ta có thể thấy vốn liếng mà Tàu đã sẵn
có trong vùng gồm:
-
tập thể Hoa kiều sống ở các nước,
-
căn cứ Singapore, và
-
các đảng Cộng Sản tay sai.
Về các đảng Cộng Sản, hiện nay Tàu đang cố gắng tranh với
Nga vai trò chỉ đạo ở khắp nơi. Tổ chức Cộng Sản thân Nga ở
Miến Điện đang bị Cộng Sản thân Tàu nỗ lực loại trừ. Cộng
Sản Phi bị Tàu chi phối dần và đang hình thành lực lượng mới
được gọi là Tân Dân Quân để thay thế lực lượng Huk cũ. Cộng
Sản Thái vốn vẫn lệ thuộc Tàu. Cộng Sản Lào đã để Tàu mở
thông cửa hậu bằng con đường chiến lược mới nối từ Hoa Nam
tới sông Mékong cận biên Đông Bắc Thái. Cộng Sản Kampuchea
từ trong tình trạng thoi thóp đã được phục sinh với sự lãnh
đạo của Cộng Sản Việt Nam sau ngày Sihanouk bị lật đổ, và
hiện đang đứng chung với lực lượng Sihanouk trong vòng ảnh
hưởng của Tàu. Cộng Sản Việt có khuynh hướng thiên Nga nhưng
áp lực Tàu trong nội bộ đảng cũng còn khá mạnh, làm cho Hà
Nội không dễ mà bung ra được.
Với số vốn trên, Tàu còn có thể thúc đẩy chiến tranh khuynh
đảo ở một vài nước khi cần. Nếu cộng sản thắng, quốc gia nạn
nhân sẽ đương nhiên bị Tàu chi phối. Nếu cộng sản bị tiêu
diệt hoặc thất bại phải rút vào rừng núi trở lại, Tàu cũng
vẫn còn nhiều ngòi khác để mà châm, nhiều địa hạt khác để mà
can thiệp: vấn đề Singapore, Mã Lai Á trong việc tranh chấp
giữa tập thể Tàu và tập thể Mã gốc, vấn đề Hoa kiều ở các
quốc gia còn lại, vấn đề biên giới Miến, Lào, Việt, vấn đề
các hải đảo Nam Hải (Hoàng Sa, Trường Sa). Bất cứ vấn đề
nào, Tàu cũng có thể dùng làm đầu mối tạo khủng hoảng mới ở
Đông Nam Á.
Về biên giới tại Miến Điện, sau những cuộc đụng độ giữa Tàu
và Miến trong thời kỳ 54-60, tình trạng đã được dàn xếp tạm
nhưng hiện chính phủ Newin cũng không còn kiểm soát nổi; đặc
biệt là khu vực biên giới thuộc tiểu bang Shan của Miến dành
để cho người Tàu tự do qua lại. Nếu Miến quyết tâm đóng cửa
hoàn toàn thì khủng hoảng tức khắc sẽ lại xảy ra. Biên giới
Lào và Việt thì hiện đều nằm trong vòng kiểm soát của cộng
sản nên chưa trở thành vấn đề. Mấy năm trước đây, Bắc Kinh
đã tuyên bố “tiền phương phòng thủ của Trung Quốc là Bắc
Việt, nếu Bắc Việt bị xâm lăng, nhất định Trung Quốc sẽ
không để yên”. Tuyên bố như vậy, Bắc Kinh đã nhằm cảnh cáo
Mỹ, nhưng đồng thời cũng nhằm cảnh cáo chính Bắc Việt, một
xứ Cộng Sản Đông Nam Á, nếu có mưu toan thoát ra ngoài vòng
kiểm soát của Tàu thì cũng chẳng khác nào một xứ Đông Âu
trong liên minh Varsovie mưu toan thoát ra ngoài vòng kiểm
soát của Nga Sô. Nếu Nga Sô đã dùng võ lực với Hung, với
Tiệp, thì có ai dám quả quyết Tàu sẽ không dùng võ lực với
Bắc Việt, nhưng Bắc Việt có muốn vuột ra khỏi sự chi phối
của Tàu cũng còn là một điều quá khó khăn.
Về các quần đảo ở Nam Hải, hiện nay cả Bắc Kinh lẫn Đài Bắc
đều nhảy vào xác nhận chủ quyền Trung Hoa trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trung Cộng đã chiếm đóng
và thiết dựng các cơ sở khí tượng, truyền tin, và đã khai
thác phốt phát trên hai đảo lớn Boisé và Lincoln trong quần
đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam; còn Đài Loan thì đem thuỷ
quân lục chiến và người nhái đồn trú thường trực trên đảo
Itu-Aba trong quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy
[16].
Chính từ các vụ quần đảo Nam Hải, chúng ta lại càng thấy
rằng Tàu nào cũng chỉ là Tàu. Đối với người Trung Hoa, dù
quốc gia hay cộng sản, thì ý đồ bành trướng xuống Đông Nam Á
cũng đều được nuôi dưỡng như nhau. Ngay như trong cuộc nội
chiến ở Trung Hoa trước đây, nếu Tưởng Giới Thạch có thắng
cộng và làm chủ Hoa Lục thì các nước Đông Nam Á tất cũng
phải đương đầu với Quốc Dân Đảng như đã phải đương đầu với
cộng sản vậy. Lúc ấy hình thức tay sai ở địa phương sẽ không
phải là các đảng Cộng Sản, mà sẽ là các tổ chức mang danh
nghĩa khác.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hãy còn mang một vết nhơ khó mà
tẩy sạch là hành động bám đuôi Quốc Dân Đảng Tàu trong thời
kỳ chấm dứt thế chiến II. Những thành phần bám đuôi có thể
là vì thiếu lập trường dân tộc vững chắc, lầm tưởng Quốc Dân
Đảng Tàu là cứu tinh của Việt, nên đã hành động như vậy.
Chính hành động ấy đã đẩy phần lớn thanh niên Việt vào tay
CS, một thế hệ thanh niên còn hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa
cộng sản, nhưng lại rất quen thuộc với mưu toan thống trị
của Tàu, ít ra là qua kinh nghiệm lịch sử đã học được ở nhà
trường.
Sau này, nếu có việc Tàu trực tiếp can thiệp vào Đông Nam Á,
thì giữa các phe tranh chấp trong nội bộ mỗi nước, phe nào
đứng về phía Tàu, phe ấy sẽ thảm bại. Lịch sử Việt Nam đã
chứng tỏ điều đó và với tình trạng Đông Nam Á, phóng đại
kinh nghiệm Việt Nam ra toàn vùng ở trường hợp này là điều
chắc chắn có thể chấp nhận được.
[còn tiếp]
Ghi Chú:
[1]
Một nhân vật Indonesia cũng đã từng tuyên bố: “Với chúng
tôi, mối hiểm nguy chính là người Tàu. Bất kể là đỏ hay
vàng, Tàu nào cũng là Tàu.” (For us, the menace is the
Chinese. It does not matter whether red or yellow, but it is
the Chinese.) Manila Bulletin số ngày 14 tháng 2 năm
1964.
[2]
Trong The World Today, (Royal Institute of
International Affairs, 1963), giáo sư C. P. Fitzgerald đã đề
cập đến tư tưởng đế quốc truyền thống của Trung Hoa và cho
rằng sở dĩ người Hán giữ mãi tư tưởng ấy, vì họ luôn luôn tự
coi là tổ hợp văn minh duy nhất. Đối với những tổ hợp chung
quanh Trunh Quốc, nếu đã có lần tiếp nhận ánh sáng văn minh
(nghĩa là đã từng bị người Hán cai trị) thì đương nhiên sẽ
mãi mãi là của người Hán, không còn lý do gì lại còn thuộc
bọn “man di” nữa. Nếu có lỡ mất quyền kiểm soát, thì người
Hán phải tìm cách thâu đoạt lại ngay khi có cơ hội. Sự bành
trướng của đế quốc Trung Hoa trên ba nghìn năm đã được xây
dựng trên nguyên tắc ấy. Các dân tộc “man di” bị Hán tộc
đánh thắng sẽ dần dần bị đồng hoá thành Trung Hoa qua những
cuộc thiên cư tràn ngập của người Hán.
[3]
Trích “Báo cáo chính trị (của Mao Trạch Đông) tại Đại Hội
Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ 7 của Đảng CS Trung Quốc” ngày 24
tháng 4 năm 1945. (Mao Trạch Đông Tuyển Tập, tập III,
bản dịch Việt ngữ, Sự Thật, Hà Nội, 1960, trang 421, 422).
[4]
Văn thư tối mật do Bộ Ngoại Giao Mỹ công bố ngày 3 tháng 10
năm 1971 tại Hoa Thịnh Đốn (theo tin AP, ngày 3 tháng 10 năm
1972, Hoa Thịnh Đốn.
[5]
Tạp chí Novesti Mongolii phát hành từ Mông Cổ số
tháng 8 năm 1972 (theo tin AP ngày 4 tháng 9 năm 1972,
Budapest.)
[6]
Riêng tại Việt Nam, trong một ngàn năm đô hộ (111 trưóc C.N.
– 939 sau C.N.) người Tàu đã không di dân lập nghiệp. Có lẽ
phần vì miền Nam nước Tàu chiếm được Bách Việt còn rộng bao
la mà dân Tàu hồi ấy còn tương đối ít, phần vì đất Giao Chỉ
là miền hẻo lánh xa xôi, khí hậu lại nóng ẩm không mấy thích
hợp với người Tàu. Dầu sao Trung Hoa cũng đã cố đồng hoá
người Việt bằng văn hoá như tiêu diệt chữ Việt, bắt học chữ
Tàu, rập theo phong tục tập quán Tàu… nhưng rốt cuộc người
Việt vẫn là người Việt và cuối cùng lại dành được chủ quyền.
Tinh thần đề kháng mãnh liệt ấy đã làm ngạc nhiên các sử gia
thế giới. Trong cuốn The Smaller Dragon (Praeger, New York,
1958), tác giả Joseph Buttinger đã cho là một phép lạ
(miracle), khó mà giải thích nổi.
[7]
Theo Ping Ti Ho trong Studies On The Population Of
China, 1368-1953
(Harvard University Press, Cambridge, 1959) dân số Tàu đã
phát triển như sau: 1393: 65 triệu, 1600: 150 triệu, 1700:
250 triệu, 1779: 275 triệu, 1794: 313 triệu, 1850: 430
triệu, 1953: 583 triệu. Theo thống kê chính thức của Bắc
Kinh: 1957: 647 triệu, 1966: 760 triệu. Và sau cùng theo ước
tính hiện nay người ta đưa con số phỏng định từ 750 đến 850
triệu dân số Tàu (The 1972 World Almanac And Book Of
Facts, trang 45.) Với mức độ gia tăng từ 1,5% đến 2% mỗi
năm, dân số Trung Hoa sẽ đạt tới một tỷ trong một thời gian
không lâu nữa.
[8]
Theo thống kê chính thức của chính phủ miền Nam Việt Nam,
năm 1955 tổng số Hoa kiều là 703.120. Con số này bị các
chuyên viên về Hoa kiều cho là quá thấp so với thực tế vì
chính phủ không kiểm soát được hết.
[9]
Theo Lennox A. Mill trong
Southeast Asia, Illusion and Reality In Politics And
Economics.
[10]
Tại Phi, một nhà ngoại giao đã nói Tàu cộng chỉ cần đổ bộ
lên Luson 200 sĩ quan là họ sẽ có ngay một đạo quân 200.000
người (Manila Times số ngày 26 tháng 8 năm 1958.)
Nghe đâu thành phần thực sự cộng sản trong số Hoa kiều chỉ
có chừng 10% (theo tướng Vargas ước định trong Manila
Times số ngày 19 tháng 3 năm 1958) nhưng hầu hết thanh
niên Tàu đều sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của chính quốc
trong mọi hành động thù nghịch với trú xứ khi có dịp.
[11]
Trích trong The Common Program Of Chinese Communist,
China Digest số ngày 5 tháng 10 năm 1949.
[12]
Bài New China’s Foreign Policy của Ko Pai-nien trong
China Digest số ngày 2 tháng 11 năm 1949.
[13]
The Fixed Political Objectives Of Our Party – People’s
Action
Party, Singapore 1960.
[14]
Năm 1960, một sinh viên Ấn tên là Ghanshyam Mehta du học ở
Bắc Kinh đã lấy được một ấn bản cuốn sử lược trên và đã công
bố ở Ấn Độ sau khi hồi hương năm 1962. Tờ Sự Thật (Pravda)
của Nga cũng đã vạch trần ý đồ bành trướng của Tàu qua bản
đồ trong số ngày 2 tháng 9 năm 1964.
Theo cuốn sử lược này, ngoài vùng đất Đông Nam Á nói trên,
các phần đất Trung Quốc đã mất và sẽ phải tranh đoạt lại còn
có:
- Đông và Đông Bắc: quần đảo Lưu Cầu (Nhật), Cao Ly, đảo
Sakhalin (Nga) và vùng đất của Nga phía Đông Bắc Mãn Châu.
- Vùng Hy Mã Lạp Sơn: tất cả lãnh thổ ba nưóc Népal, Bhutan,
Sikkim và một phần lãnh thổ Ấn.
- Tây và Tây Bắc: phần lãnh thổ Nga ở giáp Tân Cương, toàn
thể Ngoại Mông (Cộng Hoà Nhân Dân Mông Cổ), không kể Tây
Tạng đã bị Trung Cộng chiếm hoàn toàn.
Năm 1960, nhóm sinh viên Népal ở Trung Cộng đã trình cuốn sử
lược cho thủ tướng Népal để báo nguy trong dịp ông này viếng
Bắc Kinh. Do đó, Népal đã cảnh giác và lánh ra dần khỏi vòng
ảnh hưởng của Trung Cộng.
[15]
Trường hợp các nước nhỏ ở vùng Hy Mã Lạp Sơn cũng vậy. Ngay
từ 1939, Mao Trạch Đông đã tuyên bố Népal và Bhutan là đất
Trung Hoa bị đế quốc ăn cướp mất qua những hiệp ước bất bình
đẳng. Còn Sikkim thì mãi đến 1954 mới được ghi vào bản đồ
Trung Hoa và chú thích là phần lãnh thổ Trung Hoa bị Anh
chiếm đóng từ 1889. Trên thực tế, Népal trước kia là một
nước độc lập cũng ở trong tình trạng phải triều cống Trung
Hoa như Việt Nam (định kỳ 5 năm vào cuối thế kỷ 19), còn
Bhutan và Sikkim thì không có liên hệ gì với Trung Quốc cả.
[16]
Vì ở trong tình trạng chiến tranh, chính phủ Sài Gòn chỉ
phản kháng khơi khơi bằng văn thư và những lời tuyên bố;
chính phủ Hà Nội thì hoàn toàn im lặng, phần vì mặc nhiên
coi là vùng lãnh thổ dưới vĩ tuyến 17, phần vì mắc kẹt với
vụ chiếm đóng của Trung Cộng.