Những bí
ẩn đàng sau
Hội Nghị chia đôi đất nước
Từ
trước tới nay, ai cũng nói rằng Hiệp Định Genève được ký kết ngày
20.7.1954 và Việt Nam mình thường nói rằng ngày nầy là ngày chia đôi
đất nước. Nhưng vậy mà không phải vậy, Lịch Sử đã lầm. Văn bản của
Hiệp Định đã được hoàn thành chiều ngày 19 và chỉ được ký kết chánh
thức ngày 21.7, vào lúc 4 giờ sáng. Bản thảo cuối cùng được ký tắt vào
lúc quá trưa.
Bảy năm trước, chính xác hơn là ngày 19.7.1949, Tướng Valluy, lúc bấy
giờ Tổng Tư Lịnh Lực Lượng Viễn Chinh, viết trong một công văn chánh
thức: " Đây là nỗ lực cuối cùng (trước khi chiến thắng)... Thời hạn
của chúng ta được ấn định khoảng chừng vài tháng... Chúng ta đánh ván
bài cuối cùng." Và ông Bộ Trưởng Chiến Tranh, Paul Coste-Floret, tuyên
bố trong một cuộc phỏng vấn của tờ Figaro: "Tôi nghĩ là từ nay không
còn vấn đề quân sự nữa ở Đông Dương. Các quân chủng của chúng ta đã
thành công hoàn toàn."
Hồi tháng 7 năm 1954, khi Pháp đối mặt với Việt Minh, kẻ thù của mình,
một cuộc đối đầu bi thảm đã kéo dài ở Đông Dương 91 tháng qua, từ ngày
19.12.1946 là lúc cuộc nổi dậy đã bùng nổ tại Hà Nội và tiếp theo đó
là cuộc chiến tranh Đông Dương.
Quân Viễn Chinh đã bị thiệt hại tại đó 92.000 người, trong đó có
19.000 người Pháp chính quốc, 30.000 lính Phi Châu và lính lê dương.
Dẫu cho đã có 114.000 người bị thương, 30.000 tù binh, quân số lâm
chiến chống Việt Minh cũng lên tới 561.000 người, trong thời hòa bình.
Trên 3.000 tỷ quan – tương đương với ngân sách trung bình của quốc gia
Pháp trong một năm lúc bấy giờ – đã bị chôn vùi trong cuộc phiêu lưu
đó.
Sáu bộ trưởng, tám vị tướng lãnh tổng tư lịnh, bảy vị cao ủy đã kế tục
nhau trong cuộc chiến đó. Ngày 19.10.1950, Pierre Mendès France tuyên
bố tại diễn đàn Quốc Hội: "Ý niệm toàn cầu của hành động chúng ta đã
sai. Không thể tiếp tục như vậy được. Phải lựa chọn giữa hai giải pháp
cùng khó khăn như nhau. Thứ nhứt là hoàn thành những mục tiêu của
chúng ta ở Đông Dương bằng quân sự... Giải pháp kia là tìm một thỏa
hiệp chánh trị, dĩ nhiên là một thỏa hiệp với những ngưòi đang chiến
đấu chống lại chúng ta... Mình có thể từ chối cuộc thương thuyết nầy.
Vậy thì chúng ta phải nói thật tình cùng với đất nước. Phải cho cả
nước biết cái giá phải trả để đi đến cùng giải pháp kia."
Tất cả câu chuyện của bảy năm tranh đấu và nói dối nầy, bây giờ nằm
trong những tập hồ sơ to lớn mang dấu "MẬT", được tập trung lại ngày
20.7.1954, trong văn phòng làm việc ở biệt thự Joli-Port, trụ sở của
phái đoàn Pháp tại Genève. Một biệt thự sang trọng, tầm thường, xung
quanh có công viên lớn, do Bộ Trưởng Ngoại Giao mướn trong thời gian
hội nghị, được mở cửa ngày 26 tháng tư. Dọc theo bờ hồ là những biệt
thự tương tự của Eden, Molotov, Bedell Smith, Chu Ân Lai, Phạm Văn
Đồng, trong đó người ta luân phiên nhau tiệc tùng và đối thoại riêng
tư.
Những chiếc xe Zis đen to lớn của Liên Xô, những chiếc Cadillac của
Huê Kỳ, những chiếc xe Rolls của Anh và mấy chiếc Citroën khiêm nhường
của Pháp, chạy ngược chạy xuôi trên các con đường của thành phố làm
cho cảnh sát Thụy Sĩ phải bấn lên.
Đọc lại hồ sơ của Pháp mang tên "Tình Hình Quân Sự", người ta thấy
rằng những nhà lãnh đạo quân sự không có dối gạt chánh phủ. Ngày
19.12.1950, Tham Mưu Trưởng Lục Quân, Tướng Blanc, viết một văn thơ
lên ông Bộ Trưởng: "Từ năm 1945, Quân Đội Pháp đã đổ máu ở Đông Dương
quá nhiều. Những tổn thất rất đáng kể và đều đều như vậy. Hiện nay thì
tổn thất đã đến điểm không chịu đựng nổi nữa." Trước đó, Thống Chế
Juin cũng đưa ra lập trường của ông lên Thủ Tướng ngày 24.5.1952:
"Việc thi hành kế hoạch nầy (duy trì quân Viễn Chinh ở Đông Dương) đưa
đến hậu quả tai hại cho lực lượng của chúng ta ở Châu Âu và ở Bắc
Phi." Tướng Blanc khuyên nên di tản khỏi Bắc Kỳ: "Tiếp tục chiến đấu ở
vùng Châu Thổ sông Hồng, mồ chôn quân sĩ ta, là một tội ác..."
Tuy nhiên, đến Sài Gòn hai ngày sau, với những "quyền hành rộng rãi",
ông Pleven, Bộ Trưởng Quốc Phòng, và De Chevigné, Tổng Trưởng Chiến
Tranh chấp thuận việc chọn lựa một điểm chiến lược lý tưởng để "khiền
quân Việt". Đó là Điện Biên Phủ. Một địa danh mà người Pháp khó quên,
nơi 16.000 người bị mắc bẫy trong một lòng chảo thảm thương, bị các sư
đoàn thiện chiến của Việt Minh bao vây và pháo nặng của họ nã vào. Một
tài liệu trong hồ sơ "Tình Hình Quân Sự" cho thấy có rút kinh nghiệm.
Đó là một bức thơ của Thống Chế Juin, đề ngày 6.7.1954: "Điện Biên Phủ
rơi rồi làm cho một phần lớn lực lượng chiến đấu của Việt Minh rảnh
tay, đồng thời nó làm cho những lực lượng còn lại của ta bị phân tán
và bị hao mòn kinh khủng vì phải hoàn thành những nhiệm vụ khác trong
Kế Hoạch Navarre... Không còn chần chờ gì nữa, dẫu cho vì lý do đạo
đức hay chánh trị. Phải tiếp tục đánh nhau..."
Hồ sơ thứ nhì của Genève mang tên "Ngoại Giao". Người ta có thể đặt
cho nó cái tên "Làm gì bây giờ?", vì trong đó, có ba giải pháp mà, từ
nhiều tháng qua những người chánh trị Pháp đã lật tới lật lui: can
thiệp võ trang của Mỹ vào cuộc chiến, sự chế tài của một hội nghị quốc
tế hoặc là thương thuyết trực tiếp giữa Pháp và kẻ địch là Việt Minh.
Giải pháp thứ ba dường như nặng cân nhứt. Chiến tranh Đông Dương có
hai đối thủ trực tiếp là Pháp và Việt Minh. Chính hai đương sự phải
cùng nhau liên lạc trực tiếp tìm cách đem lại một giải pháp cho cuộc
chiến. Nhưng những người nắm quyền thời đó như Bidault, Teitgen,
Pleven, những ông chủ chốt thật sự trong chánh phủ Laniel, đã bát bỏ
đường lối đó và chọn một cuộc hiệp thương quốc tế, một hội nghị lại
đưa một số những quyền lợi phân tán thêm.
Hội nghị Bộ Trưởng Ngoại Giao Tứ Cường, họp tại Bá Linh hồi tháng
Giêng, sau 6 tháng thảo luận sơ khởi, đã quyết định triệu tập tại
Genève một phiên họp về những vấn đề của Á Châu còn bỏ dở: Triều Tiên
và Đông Dương. Phiên họp mở đầu ngày 26.4.
Cộng với Tứ Cường còn có phái đoàn Trung Quốc. Như vậy Trung Quốc bước
vào diễn đàn ngoại giao quốc tế. Cùng với các ông Molotov và Chu Ân
Lai còn có những đại diện của Việt Minh. Cùng với Eden, Dulles và
Bidault là ba nước Đông Dương, Việt, Miên, Lào.
[...]
Những ngày đầu, Bidault có vẻ tin tưởng. Ông cho rằng Trung Quốc sẽ bỏ
rơi Việt Minh để đánh đổi lấy quyền lợi kinh tế và việc Pháp cam kết
sẽ bỏ phiếu cho Trung Quốc vào LHQ. Tháng Tư, ông nói với Foster
Dulles: "Trung Quốc đang bị đói kém, có thể bị bắt buộc phải từ chối
ngay cả chuyện lãnh thổ để khỏi bị cô lập."
[...]
Nhưng đồng thời ông cũng chuẩn bị đương đầu với chuyện Hội Nhị Genève
thất bại, nghĩa là khêu gợi chuyện Mỹ can thiệp quân sự vào cuộc
chiến. Các cuộc thăm dò dư luận rất phấn khởi. Phúc trình chánh thức
của Bộ Ngoại Giao về phần đầu của hội nghị (tài liệu ngày 29.6.1954)
viết về vấn đề nầy như sau: "...sự can thiệp của Mỹ bị ràng buộc bởi
nhiều điều kiện, trong số đó có sự đồng ý của Anh và như vậy chỉ là
trên lý thuyết. Mặt khác, có vẻ như việc can thiệp nầy không nhứt
thiết chỉ hạn chế ở Đông Dương không mà còn có nguy cơ mở rộng."
Riêng ông Đại Sứ Chauvel, người dẫn đầu phái đoàn Pháp, trong khi điều
khiển phái đoàn dưới quyền Bidault hoặc trong khi ông nầy vắng mặt, có
ghi nhận rằng "ngày 4 tháng 5, trước khi ra đi Dulles có hỏi tôi Pháp
có thể nào thu quân về hai vùng châu thổ, với sự yểm trợ của hàng
không mẫu hạm Mỹ đậu ở Sài Gòn và Hải Phòng, và chờ hai năm cần thiết
cho việc chuẩn bị mở lại cuộc hành quân rộng lớn hơn không..." Những
hai năm! Như vậy, tương lai có vẻ không thuận lợi. Do đó Bidault thảo
luận thêm với Mỹ nhiều hơn.
[...]
Những cuộc thảo luận đã diễn ra [...]. Không có kết quả khả quan. Ngày
10.6, đại diện Pháp trong cuộc hội đàm quân sự giữa năm quốc gia tại
Hoa Thạnh Đốn, Tướng Valluy, đánh điện cho biết: "Về chuyện tăng cường
ở mặt đất, chẳng một đồng minh nào nghĩ là có thể cung cấp..." Để gỡ
rối, ngày 15.6, Bidault gởi cho Henri Bonnet, Đại Sứ Pháp tại Huê Kỳ
những chỉ thị mới. Ông Đại Sứ phải đọc cho Dulles nghe bức điện chủ
yếu viết rằng: "Thái độ của Mỹ cho chúng tôi có cảm tưởng rằng chuyện
chúng tôi thử đe dọa Trung Quốc và Việt Minh, để làm yếu tố thương
thuyết, là không đích thực..." Cuộc vận động không thành vì ngày 18.6,
ông Bonnet đánh điện: "Qua cuộc trao đổi quan điểm, rõ ràng là chánh
phủ Huê Kỳ không sẵn sàng cam kết dứt khoát về vấn đề Đông Dương..."
Trong lúc giao thời, thương thuyết không thành vấn đề nữa vì cùng ngày
hôm đó ở Paris, nội các Laniel bị lật đổ, vừa mới trao quyền lại cho
chánh phủ Mendès France đã được Quốc Hội tấn phong. Trên đà đó, Mendès
France cam kết đem lại hòa bình cho Đông Dương trễ lắm là vào ngày
20.7.
Đồng thời, Mendès France cũng thận trọng loan báo dứt khoát là nếu
thất bại, ngày 21.7, ông sẽ xin Quốc Hội gởi một toán quân nữa sang
Đông Dương, trước khi từ chức. Như vậy, trong khi thách thức với hòa
bình, ông cũng sẵn sàng đánh nhau – tuy không liều mạng đi đến chiến
tranh thế giới – và đồng thời cũng giữ thế mạnh để thương thuyết trong
một khuông khổ không phải do ông chọn lựa.
[...]
Khi Mendès France ra tay hành động, những người tiền nhiệm không thông
báo cho ông quyết định (do Bộ Chỉ Huy Quân Sự quyết định có sự đồng ý
của chánh phủ và đang được thi hành) di tản khu Giáo Xứ trong vùng
Châu Thổ sông Hồng. Như vậy Mendès France khỏi phải bàn tới trong
những cuộc thưong thuyết ban đầu với Việt Minh. Trái lại, những người
tiền nhiệm có thông báo với đồng minh Mỹ là nên cảnh giác với cái
chánh phủ "trong tay của cộng sản nầy".
Huê Kỳ triệu hồi đại diện của họ ở Genève, Bedell Smith, và thiết lập
ngay một kế hoạch bảy điểm, tóm lược những điều kiện để tham dự vào
cái Hiệp Định có thể ký kết. Nhũng điều kiện mà Dulles có tâm sự cùng
Mendès France ngày 13.7 với sự hiện diện của Eden. Dulles nghi ngờ
những điều kiện đó sẽ không được chấp nhận. Quả thật y như rằng.
Ngày 24.6, có quyết định là chấp nhận nguyên tắc chia cắt lãnh thổ
Việt Nam. Ngày 26, quyết định đó được thông báo cho Phạm Văn Đồng,
Trưởng Phái Đoàn Việt Minh. Theo biên bản buổi họp trong ngày thì Phạm
Văn Đồng tuyên bố: "Đường phân chia giới tuyến sẻ được đặt giữa vỹ
tuyến 13 và 14."
Ngày 10.7, Mendès France tới Genève, tuyên bố: "Tôi có 240 giờ để
thành công." Ông Eden tận lực giúp ông. Ngày 13.7, sau một cuộc hội
kiến lâu 1 giờ rưởi, Bedell Smith trở về thuyết phục Dulles là ông Thủ
Tướng mới của Pháp có nhiều thiện chí. Sau cuộc hội đàm có tính quyết
định đó, ông Ngoại Trưởng Mỹ tâm sự với những người cộng sự: "This guy
is terrific" (Ông ấy thật tuyệt vời). Ở Sài Gòn, Tướng Ely, Tham Mưu
Trưởng Lục Quân đảm nhiệm chức vụ Tổng Tư Lịnh.
Hết khoáng đại hội nghị tới mật đàm, ngưòi ta khó nhọc dời từng vỹ
tuyến một, đưa lên từng chặng một đường phân chia giới tuyến tương
lai, chia đôi Bắc Nam từ vỹ tuyến 13 đến 17. Đồng thời, ngày tổng
tuyển cử mà Việt Minh muốn cho "thật gần kề" - nhiều lắm là sáu tháng
- được dời tới hai năm, qua nhiều nỗ lực kế tiếp. Hệ thống kiểm soát
được tăng cường. Nam Việt Nam được tự do kết liên minh, tự do nhận
viện trợ Mỹ. Lào và Cao Miên được để ra ngoài. Như vậy, trong ba nước
Đông Dương, hai nước được để ra ngoài tầm ảnh hưởng của Việt Minh.
[...]
Thực ra, ở hội nghị, Việt Minh chỉ chấp thuận có vỹ tuyến thứ 16. Phải
chạy ngược chạy xuôi bàn luận tay đôi, tay ba, tay tư, giữa chín phái
đoàn, giữa những cố vấn không chánh thức, những người môi giới tự
nguyện như ông Krishna Menon, đại diện Ấn Độ. Trên sân thượng biệt thự
Joli-Port, Mendès France, Molotov và các thông dịch viên bàn luận ba
giờ liền dưới cái nhìn của các phái đoàn Pháp và Liên Xô theo dõi từ
xa, không nghe được gì hết. Tối đến, Mendès France tâm sự với những
người cộng sự mối lo âu của ông. Ông sợ bị lầm lẫn vì tin tưởng quá
nhiều ở thiện chí hòa bình của đối phương. Tối hôm đó, quá mệt mỏi,
ông coi công trình gần như đã tiêu tan.
Ngày hôm sau, vào xế chiều, trong khi các chuyên viên phát thanh Thụy
Sĩ, chịu chuyển tiếp đài phát thanh Pháp, đang thiết kế xe truyền
thanh và đường dây. Mendès France, ngồi tại chiếc bàn trong vườn đang
xem lại việc soạn thảo bài viết mà ông sắp đọc mỗi tối thứ bảy. Ông
đang làm việc thì Bedell Smith đến. Người ta yêu cầu ông chờ cho một
chút, vì phát thanh không thể chờ. Ông Trưởng Phái Đoàn Mỹ ngồi chờ và
quan sát tỏ vẻ thích thú việc các chuyên viên đang chuẩn bị. Trang
chót vừa đánh máy xong, cuộc phát thanh bắt đầu.
Một ông xuất hiện, người ta ra hiệu cho ông đừng làm ồn trong khi đi.
Thấy micro, dây điện, ông hiểu ngay và tuân lời người ta đã nói với
ông bằng dấu hiệu. Đó là Anthony Eden.
Bên Pháp, như mọi tối thứ bảy, thính giả đang chăm chú nghe tiếng nói
của Thủ Tướng chánh phủ phát đi từ Genève: "Tôi muốn kể tên kẻ thù, kẻ
thù to lớn nhứt mà tôi đánh đuổi từ bao lâu nay. Đó là sự hoài nghi,
một sự hoài nghi không lành mạnh và gần như là làm tê liệt, một khuynh
hướng gần như không cưỡng chế được nó làm cho mình không còn tin tưởng
gì nữa, không chịu công nhận gì hết và gần như chẳng còn hy vọng gì
cả. Ấy vậy mà không, chúng ta không có quyền khuất phục, không có
quyền thoái thác việc tìm hiểu chính mình hay là, một cách đơn giản,
cùng bảo nhau."
Ngày 17, lại chạy tới chạy lui lăng xăng. Ngày 18 có vẻ sáng sủa. Ngày
19, Phạm Văn Đồng nói chuyên hai tiếng đồng hồ trực tiếp với Mendès
France, không có thông ngôn. Khi họ chia tay, hiệp ước hầu như đã hoàn
thành: vỹ tuyến thứ 17, di tản Hà Nội-Hải Phòng trong vòng 300 ngày,
phóng thích tù trong 30 ngày, Việt Minh rời Lào và Cao Miên và cam kết
tôn trọng độc lập và chủ quyền của hai quốc gia nầy, tổng tuyển cử
trong hai năm.
Từ 8 giờ sáng ngày 20.7, mỗi Phái Đoàn năng nỗ thảo hoạch văn bản. Bầu
không khí lạc quan lan rộng. Ký giả đánh tin đi: "Xong rồi. Hiệp Định
ký kết trong ngày." Những trở ngại trong phút chót lại xuất hiện.
Mendès France nói chuyện với Phạm Văn Đồng, rồi với Eden và Molotov
rồi lại tiếp tục đối thoại tay tư. Rồi ra, mọi chuyện gần như giải
quyết xong. Lúc 14 giờ, Thủ Tướng Pháp từ giả ba người đối thoại để đi
gặp Chu Ân Lai mà ông mời ăn trưa.
Khi ông đi ngang, một nhà báo nhắc: "Chỉ còn 10 tiếng nữa thôi!"
Mendès France đáp lại: "Sẽ xong lúc nửa đêm hay là chẳng bao giờ hết".
Lúc 17g10 tin loan ra là sẽ ký kết lúc 21 giờ ở phiên họp trọng thể
tại Palais des Nations. Ký giả đổ xô lại các máy điện thoại, điện tín
gởi đi khắp nơi trên thế giới. Lúc 21 giờ, chẳng thấy gì hết, 22 giờ
cũng không có gì. Bấp bênh, nôn nóng, rối loạn, chuyện gì đây?
Chỉ vì Đại Diện Cao Miên, Tep Phan, cho biết là sau khi suy nghĩ kỹ,
ông sẽ không ký Hiệp Định. Ông đưa ra đòi hỏi mới, đòi hỏi những bảo
đảm mới. Tất cả đều phải xét lại. Các phái đoàn Cộng sản nghi ngay là
cái bẫy của Mỹ. Những phái đoàn Tây phương thì ngờ ngay là cạm bẫy của
Liên Xô. Mỗi bên lấy lại lập trường của mình, lại nghi ngờ nhau, gương
mặt nào cũng hầm hầm, chưa bao giờ thỏa hiệp có vẻ xa vời như vậy.
Lúc 23 giờ, chín Phái Đoàn họp kín tại biệt thự của phái đoàn Anh. Ông
Eden không ngớt biện hộ, tìm cách thuyết phục Tep Phan. Ông nầy cứ lắt
đầu: "Không. Tôi nói không là không." Quá mệt mỏi, Eden quay sang
Molotov: "Xin ông giúp chúng tôi một chút!" Molotov cởi mở và trong sự
ngạc nhiên của mọi người, ông nói: "Có gì quan trong đâu. Cứ cho ổng
những gì ổng muốn..." Nhưng phái đoàn Việt Minh nghi ngờ, không muốn
tách rời ba cuộc đình chiến Việt-Miên-Lào, ký hết hoặc không ký gì cả.
Mười hai giờ đêm đã điểm. Mendès France đã thua cuộc rồi chăng? Không,
bỗng nhiên tất cả các Phái Đoàn cảm thấy cần phải liên kết chặt chẻ,
một quyết định tiêu biểu, chưa từng thấy trong lịch sử ngoại giao,
đồng hồ đã dừng lại. Bị lôi ra khỏi giường, Bedell Smith dẫu ốm đau
cũng phải xuất hiện. Cuộc thương thuyết lại bắt đầu.
Một khi Hiệp Định cho Cao Miên đã đạt được, Mendès France đòi hỏi
những quyền lợi vừa thỏa thuận cho nước nầy cũng phải áp dụng cho Lào.
Chẳng lẽ Lào lại bị phạt vì quá hợp tác hơn nước láng giềng, như vậy
là bất công. Molotov đưa hai tay lên trời... Một cuộc bàn thảo mới lại
bắt đầu. Cuối cùng, đại biểu Liên Xô cũng chìu theo.
Phải mất trên 3 tiếng đồng hồ nữa để điều chỉnh lại tài liệu và đúng
3g50 mới ký xong, nhưng đồng hồ xác nhận là ngày 20.7 vẫn tiếp tục.
Phái Đoàn Pháp và ông Trưởng Phái Đoàn không chịu xuất hiện trong lễ
ký kết. Không người Pháp nào quên được đó là một thắng lợi chua cay,
một hồi kết cuộc khắt khe của một diễn biến tàn khốc.
Ngày 21, trên đài phát thanh, Mendès France nói với dân Pháp: "Tôi
không cần bày tỏ tình cảm của tôi vì đó là tình cảm của đồng bào." Ở
Joli-Port, hàng trăm thơ từ khắp nơi trên thế giới gởi đến để chia sẻ,
khuyến khích và để chúc mừng. Còn đối với 30.000 tù binh là đoạn cuối
đường hầm.
Ngày 23, với 471 phiếu chống 14, Quốc Hội chấp thuận Hiệp Định Genève.
Trước đó, Quốc Hội đã chấp thuận với 569 phiếu chống 9, những đoạn sau
đây, sau khi đọc từng câu qua chương trình nghị sự để nói lên tâm tư
tình cảm của mình: "Quốc Hội hài lòng ghi nhận việc chấm dứt xung đột
ở Đông Dương, phần lớn nhờ hành động dứt khoát của Thủ Tướng Chánh
Phủ. Nhận thấy rằng không sao tránh khỏi những sự hy sanh tàn bạo...
yêu cầu chánh phủ nên tiếp tục... một chánh sách hòa bình..."
[...]
Dân biểu, chỉ huy quân sự, chuyên viên ngoại giao không một ai lầm
lẫn. Hiệp Định ngày 20.7 cứu vãn hòa bình thế giới và trả lại cho nước
Pháp vận may tái phục hồi. Những lời bình luận xuất hiện khắp nơi:
- Một cuộc chiến tàn khốc và giết hại những cán bộ ưu tú của chúng ta.
Như vậy có nghĩa là tôi hân hoan chào mừng lối thoát thuận lợi của Hội
Nghị Genève.
- Cuộc thất bại nầy còn thảm khốc hơn nữa nếu không có nghị lực và tài
cán của Mendès France.
- Phải cám ơn Mendès France đã đạt được mục đích. Rồi đây giọt máu của
người Pháp không còn phải đổ ra cho một cuộc chiến vô vọng. Ở Genève,
Mendès France đã là một người thợ giỏi của đất nước. Bắt Mendès France
lãnh đủ gánh nặng của những gì được coi là bỏ rơi khi ông nắm quyền là
bất công.
Cuộc kết thúc của chiến tranh Đông Dương được André Siegfried (Chủ
Tịch Viện Chánh Trị Học Quốc Gia) tán thưởng bằng câu nói như sau:
"Lần đầu tiên trong Lịch Sử, người ta mới thấy kẻ chiến bại đưa tối
hậu thơ cho người chiến thắng mà lại thành công."
* * * * *
(Phỏng theo :"20 juillet 1954: comment l'Indochine a signé les accords
de paix" đăng trên "Express" ngày 20.7.2010)
[http://www.lexpress.fr/actualite/monde/asie/20-juillet-1954-comment-l-indochine-a-signe-les-accords-de-paix_906751.html]