Để kiến
tạo một quốc gia lý tưởng:
Xin góp ý
với 1001 Ghonim của Việt Nam
Thanh niên Việt
Nam xuống đường chống Trung Quốc, đòi giữ chủ quyến đất.
Kiến tạo một quốc gia lý tưởng không thể nào
tách rời khỏi công việc kiến tạo một hiến pháp lý tưởng.
Theo sau một cuộc xuống đường tổng nổi dậy lật đổ chính
quyền, kiến tạo một hiến pháp mới để từ đó hình thành một cơ
chế điều hành đất nước thuận với lòng dân là một công việc
cấp bách. Cực kỳ cấp bách!
Lật đổ một chế độ độc tài toàn trị hại nước
hại dân chỉ mới là một nửa của vấn đề và đó chưa phải là mục
tiêu tối hậu của một cuộc cách mạng. Kiến tạo một quốc gia
lý tưởng mới đích thực là mục tiêu tối hậu của nó. Để có thể
thực hiện được ước mơ đẹp của mọi người và cho mọi người,
người dân không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc phải
xuống đường làm một cuộc tổng nổi dậy dẹp bỏ những trở lực
nhằm tự cho mình cơ hội. “Không có sự lựa chọn nào khác” là
vì một chế độ độc tài toàn trị tuyệt đối sẽ không tự nguyện
cho người dân cái cơ hội đó.
Những kẻ cầm quyền của chế độ độc tài toàn
trị là những sát thủ của lý tưởng, của ước mơ, của cơ hội,
của hạnh phúc, của tự chủ. Dưới sự kềm kẹp có hệ thống của
một chế độ độc tài toàn trị đến mức người dân không còn chịu
đựng nổi, cùng nhau vùng dậy để lật đổ bọn sát thủ tiếm
quyền khủng bố nhân dân giam hãm đất nước là con đường tất
yếu. Lúc đó, ngay sau khi chế độ độc tài sụp đổ, nắm bắt
được cơ hội để thực hiện ước mơ đẹp của toàn dân và cho toàn
dân sẽ là một thử thách không nhỏ. Muốn nắm bắt cơ hội một
cách trọn vẹn và hiệu quả, 1001 Ghonim của Việt Nam cần phải
có một sự chuẩn bị lâu dài trước khi cuộc xuống đường tổng
nổi dậy thành hình và thành công. Nếu không có sự chuẩn bị
đó, đất nước có thể sẽ rơi vào hỗn loạn một thời gian dài.
Và tệ hơn nữa là để cho những kẻ gian hùng tước đoạt cơ hội
và tái lập một chế độ độc tài toàn trị mới, cũng đáng sợ
không kém.
Cho một quốc gia dân chủ, và dân thật sự làm
chủ quốc gia, hiến pháp là một khế ước tối thượng giữa mọi
người dân với nhau và giữa người dân với chính quyền. Hiến
pháp còn là một bản vẽ để dựa vào đó thực hiện khế ước tối
thượng trong tiến trình kiến tạo cơ chế điều hành đất nước.
Do đó, muốn tạo lập một quốc gia lý tưởng trước tiên cần
phải tạo lập một hiến pháp lý tưởng.
Thế nào là một quốc gia lý
tưởng?
Thế nào là một hiến pháp
lý tưởng?
Những yếu tố nào cấu tạo
nên tính chất lý tưởng?
Làm sao hình thành một
hiến pháp có được những yếu tố đó?
Hàng loạt câu hỏi mà những công trình sư của
hiến pháp và những công trình sư kiến tạo cơ chế điều hành
đất nước cần phải tìm ra câu trả lời. 1001 Ghonim của Việt
Nam sắp hiện thân lãnh đạo cần phải tìm ra câu trả lời. Và
đáp án cho những câu hỏi như vậy không chỉ đến từ khối óc mà
còn phải đến từ đáy tim, không chỉ đến từ những công trình
sư hay đến từ 1001 Ghonim của Việt Nam mà còn phải đến từ
tất cả quần chúng.
Tôi không biết người khác nghĩ gì với cụm
chữ “một quốc gia lý tưởng, một hiến pháp lý tưởng.”
Tôi cũng không dám lạm bàn về ý nghĩ của người khác. Nhưng
với riêng tôi thì - trong giới hạn của một cá nhân giữa đám
đông quần chúng được quyền ước mơ về một tương lai tươi sáng
cho đất nước mình - tôi hình dung được một quốc gia lý tưởng
phải hình thành từ một hiến pháp lý tưởng và tin rằng nó là
kết quả của một tiến trình dài xuất phát từ những niềm tin
chính đáng và vững chắc. Trước hết,
-
tin rằng bạo lực là nguồn gốc của tất cả
mọi áp bức, thù hận và tàn phá do đó cần phải được quét
sạch;
-
tin rằng nghèo đói hủy hoại mạng sống, sự
sống, nhân cách và tình người do đó cần phải được quét
sạch;
-
tin rằng ngu tối nuôi dưỡng nghèo đói, bạo
hành và ghen ghét do đó cần phải được quét sạch;
Và,
-
tin rằng con người phải được quyền sống;
-
tin rằng phẩm giá con người bất khả xâm
phạm;
-
tin rằng con người phải được quyền theo
đuổi hạnh phúc của bản thân;
-
tin rằng con người phải tự làm chủ cuộc
đời mình;
-
tin rằng con người phải chia xẻ quyền lợi
và trách nhiệm một cách công bình;
-
tin rằng con người phải đùm bọc lẫn nhau
trong một vòng tay lớn, trong một tình thương lớn, trong
một niềm tin lớn;
Và,
-
tin rằng một cơ chế tuyệt đối dân chủ có
thể bảo đảm sự ổn định trong sinh hoạt chính trị, kinh tế,
xã hội một cách lâu dài và chắc chắn nhất;
-
tin rằng ước vọng của toàn khối dân tộc
sáng suốt hơn khối óc của một cá thể, dầu cho cá thể đó có
trí tuệ hơn người;
-
tin rằng hướng nhìn của toàn khối dân tộc
chuẩn xác hơn lăng kính của một luận thuyết, dầu cho luận
thuyết đó có cao sâu hơn hết;
-
tin rằng tình thương lớn của toàn khối dân
tộc có nhiều cảm tính hơn một chính sách; dầu cho chính
sách đó được soạn thảo với thiện ý đến mấy;
-
tin rằng sự hiện hữu của một cơ chế điều
hành đất nước là để phục vụ, và chỉ để phục vụ, cho ước
vọng của dân cho nên nó phải từ dân mà đến, phải nối kết
với dân mà chọn lựa hành động, phải do dân mà quyết định
giữ lại hay thay đi;
Và,
-
tin rằng guồng máy điều hành đất nước phải
được kiến tạo với mục đích tối thượng là để sản xuất hòa
bình thịnh vượng và an lạc cho toàn khối dân tộc;
-
tin rằng hiệu năng và hiệu quả của thể
chế, cơ cấu, sách lược và phương tiện điều hành đất nước
đến từ nền tảng vững chắc của những nguyên tắc tốt đẹp
(good principles) và những kinh nghiệm thiện hành (good
practices);
-
tin rằng điều hành đất nước với thái độ
hợp tác, cởi mở, ngay thẳng, tương nhượng và vị tha
(cooperation & collaboration) là cung cách ứng xử trưởng
thành của một tập thể tiến bộ;
Một hiến pháp lý tưởng phải được hình thành
trên nền tảng, và phải thể hiện đúng với, những niềm tin nêu
trên. Những niềm tin này cũng chính là những giá trị cốt lõi
(core values) sẽ làm nên “kim cương tính” của quốc gia
(undestroyable, admirable national characters), một quốc gia
lý tưởng. Những niềm tin này chính là khối trí tuệ của nhân
loại tích lũy từ khi con người có mặt trên địa cầu cho tới
nay được tinh lược và còn lại những gì đáng gìn giữ trong
việc tổ chức cơ chế điều hành đất nước. Đáng giữ vì nó sẽ
mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Vì thế mới được
đánh giá là những niềm tin chính đáng và vững chắc.
Nói một cách khác, một hiến pháp lý tưởng
cho một quốc gia lý tưởng phải là một hiến pháp vững chắc,
trong sáng và tốt đẹp. Một hiến pháp được gọi là vững chắc,
trong sáng và tốt đẹp khi nó có thể:
-
bảo đảm tính cách bình đẳng và dân chủ
trong mọi sinh hoạt;
-
bảo đảm quyền lợi, danh dự và trách nhiệm
của mọi công dân;
-
bảo đảm quyền sống tự do, an ninh và hạnh
phúc cho mọi thành phần;
-
bảo đảm công lý được thực hiện ở mọi nơi,
mọi giai đoạn, mọi điều kiện, mọi đối tượng; và
-
bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã
hội và mọi khía cạnh khác của đời sống cho tất cả.
Muốn thực hiện những bảo đảm trên thì những
điều khoản trong hiến pháp của quốc gia phải:
-
khẳng định cơ chế điều hành đất nước là
một cơ chế nhân bản, dân chủ, pháp trị và khẳng định cơ
chế này sẽ không bao giờ được phép thay đổi;
-
khẳng định những giá trị cốt lõi làm nên
đặc tính của quốc gia, tức là những niềm tin chính đáng và
vững chắc mà toàn dân đã đem ký thác vào hiến pháp và cam
kết gìn giữ, sẽ không bao giờ được phép thay đổi; và
-
khẳng định hiến pháp chính nó là quyền lực
tối thượng, luôn luôn được tôn trọng, và bắt buộc phải
thực thi theo.
Một cơ chế nhân bản là một cơ chế chính nó
không tước đoạt mạng sống, sự sống và cách sống của con
người; là một cơ chế không cho phép bất cứ ai tước đoạt mạng
sống, sự sống và cách sống của người khác; là một cơ chế
không những không tước đoạt, không cho phép tước đoạt, mà
trái lại còn trợ giúp cho mạng sống, sự sống và cách sống
của con người. Một cơ chế nhân bản là một cơ chế mà con
người nằm ở trọng tâm của việc tổ chức guồng máy điều hành
đất nước và trọng tâm của mọi sinh hoạt điều hành đất nước.
Một cơ chế nhân bản là một cơ chế mà sự hiện hữu của chính
nó được cho phép bởi con người, làm công cụ cho con người,
và phục vụ cho nhu cầu của con người. Chỉ có yếu tính nhân
bản của cơ chế mới bảo đảm được yếu tính dân chủ của cơ chế.
Không có yếu tính nhân bản, dân chủ có thể biến thành độc
tài (tyrany of the majority). Không xét tới yếu tính nhân
bản, độc tài có thể ngụy tạo dân chủ. “Dân chủ độc tài” hay
“độc tài dân chủ” đều tệ hại như nhau, vì thiếu hẳn “nhân
chủ tính” trong tổ chức và sinh hoạt điều hành chính quyền.
Trong phạm trù tổ chức của một quốc gia dân
chủ, quyền điều hành đất nước là do dân trao cho mà có. Dân
là chủ của đất nước, dân là chủ của cơ chế điều hành đất
nước, dân là chủ của những mục tiêu điều hành đất nước.
Quyền cho phép điều hành đất nước nằm trong tay dân. Dân
thiết lập hiến pháp và thể chế lãnh đạo. Dân chọn lựa thành
phần lãnh đạo và sách lược lãnh đạo. Dân quyết định tương
lai và vận số của đất nước. Hay nói một cách khác, toàn bộ
cơ chế điều hành đất nước và mọi sinh hoạt điều hành đất
nước đều là của dân, do dân và vì dân. Và, tất cả những
quyền lực điều hành đất nước, bất kể phát xuất từ đâu hay
dưới bất cứ danh nghĩa nào, nếu không có sự ủy nhiệm của dân
đều được coi là bạo quyền. Nếu đã là một cơ chế điều hành
đất nước được xây dựng trên nền móng của bạo quyền thì đất
nước đó không thể thực sự là một quốc gia dân chủ dầu nhà
cầm quyền có che đậy dưới bất cứ hình thức nào, có đánh bóng
với bất cứ lý tưởng nào, có trống chiêng với bất cứ chiêu
bài nào, có giải thích với bất cứ lý do nào. Và, duy nhất
chỉ có quyền lực dân chủ mới không tước đoạt mạng sống, sự
sống và cách sống của con người. Duy nhất chỉ có quyền lực
dân chủ mới trợ giúp cho mạng sống, sự sống và cách sống của
con người.
Hai yếu tố nhân bản và dân chủ trong cơ chế
điều hành đất nước, hay nói một cách khác từ góc độ của
người dân là nhân quyền và dân quyền, là đôi chân không thể
thiếu của một xã hội cấp tiến. Tóm lại, chỉ có cơ chế nhân
bản và dân chủ mới bảo đảm duy trì được sự ổn định lâu dài
cho xã hội và mang lại hạnh phúc thực sự cho mọi người.
Bình đẳng và tự do là hai yếu tính không thể
thiếu vắng trong một xã hội cấp tiến. Con người sinh ra vốn
bình đẳng và tự do. Trong trạng thái bình đẳng và tự do,
không một cá thể nào bị cưỡng đoạt mất đi cái riêng biệt của
chính mình. Mỗi một con người sinh ra vốn khác nhau và độc
đáo. Sự khác nhau và độc đáo đó làm nên những cá thể riêng
biệt. Sự khác nhau và độc đáo làm nên trạng thái đa nguyên.
Trạng thái đa nguyên là sự hiện hữu của những dị biệt trong
cùng một không gian và thời gian. Trong một xã hội cấp tiến
nhân bản và dân chủ, trạng thái đa nguyên với trạng thái
bình đẳng và trạng thái tự do kết hợp nhau chặt chẽ và tự
nhiên. Để có được sự tôn trọng của người khác dành cho chính
bản thân mình, tự nguyện tôn trọng sự khác biệt của những cá
thể chung quanh là điều hợp tình, hợp lý và thiết yếu. Để
duy trì sự ổn định tự nhiên và lâu dài, mỗi người và mọi
người đều phải đương nhiên tôn trọng sự khác biệt của mỗi
người và mọi người chung quanh; không cần biết sự khác biệt
đó là khác biệt thể dạng hay khác biệt tư tưởng, không cần
biết sự khác biệt đó là do bẩm sinh hay do nhân tạo, không
cần biết sự khác biệt đó gây cảm giác ưa thích hay khó chịu.
Và sự khác biệt của mỗi cá thể trong xã hội phải được tôn
trọng theo tinh thần bình đẳng và tự do. Đi xa hơn, sự khác
biệt của mỗi quần thể trong xã hội phải được tôn trọng theo
tinh thần bình đẳng và tự do. Nhưng hy vọng vào sự tôn trọng
“tự nguyện, hợp tình, hợp lý” không cũng chưa đủ mà còn phải
có “pháp lý” để bảo đảm sự tôn trọng “tự nguyện, hợp tình,
hợp lý” đó luôn luôn thể hiện. Một thứ pháp lý không thiên
vị và hoàn toàn vô tư, đặt trên nền tảng vô luận vô tội. Từ
đó, bình đẳng có nghĩa là bình đẳng trên pháp lý và tự do có
nghĩa là tự do trong pháp lý. Và mục đích trên hết, cũng
chính đáng hơn hết, của cái gọi là “pháp trị” của cơ chế
nhân bản dân chủ là để bảo đảm cho sự bình đẳng và tự do của
mọi người và cho mọi người cũng như để bảo đảm sự bình đẳng
và tự do của mọi quần thể và cho mọi quần thể. Mục đích pháp
trị của một cơ chế nhân bản dân chủ không dừng lại ở đó. Nó
bảo đảm quyền sống, an ninh và hạnh phúc cho mọi thành phần.
Nó bảo đảm quyền lợi, danh dự và trách nhiệm của mọi công
dân. Nó bảo đảm công lý được thực hiện ở mọi nơi, mọi giai
đoạn, mọi điều kiện, mọi đối tượng. Nó bảo đảm sự ổn định
chính trị, kinh tế, xã hội và mọi khía cạnh khác của đời
sống cho tất cả.
Như vậy, pháp lý của một xã hội nhân bản dân
chủ là một “giao ước gián tiếp” giữa mỗi và mọi cá nhân
trong xã hội và pháp trị chính là “giao ước đang thực thi”
qua trung gian của cơ chế điều hành đất nước do mỗi và mọi
cá nhân trực tiếp làm chủ. Từ đó cho thấy nhân bản, dân chủ
và pháp trị là 3 yếu tính không thể tách rời nhau trong một
xã hội văn minh thiện đức.
Tuy hiến pháp quốc gia có là một văn bản
mang tải niềm tin, trí tuệ và tình thương lớn như ước muốn
đi nữa nhưng niềm tin, trí tuệ và tình thương lớn đó cũng
chỉ là những khẩu hiệu hào nhoáng và những giá trị cốt lõi
tuyệt vời sẽ không thực sự “mưa xuống” đời sống của từng
người và mọi người nếu như hiến pháp của quốc gia không minh
bạch “vạch nhu cầu, qui trách nhiệm, định quyền hạn, cho
thời gian, cấp phương tiện” dưới những điều khoản trong hiến
pháp nói về việc tổ chức và sinh hoạt của bộ máy điều hành
đất nước. Nói một cách khác, hiến pháp phải tiền liệu những
gì không thể thiếu và qui thành những điều khoản của hiến
pháp một cách minh bạch. Chưa hết, tất cả những điều tốt đẹp
chứa đựng trong hiến pháp có thể biến mất trong một sớm một
chiều, nếu không khéo thả neo buộc lại cho chắc. Do đó, cơ
trình tu chỉnh hiến pháp phải hết sức nghiêm ngặt để tránh
sự bất cẩn, lạm dụng và phá hoại về sau.
Như vậy, những công trình sư của hiến pháp
phải tiền liệu những gì cần phải thực hiện để qui thành
những định chế trong hiến pháp. Những định chế này vạch ra
một lộ đồ tổ chức cơ chế điều hành đất nước, một lộ đồ không
cho phép đi lạc hướng, một lộ đồ dẫn tới sự hình thành một
quốc gia nhân bản, dân chủ, pháp trị. Những điều tiền liệu
được qui thành định chế không nhất thiết làm cho hiến pháp
bị xơ cứng. Ngược lại, nhờ những tiền liệu được quy thành
những định chế trong hiến pháp mà lộ đồ tổ chức cơ chế điều
hành đất nước sẽ không bị lệch với tinh thần của hiến pháp.
Một mặt khác, cũng nhờ những tiền liệu được qui thành những
định chế mà lộ đồ kiến tạo & phát triển quốc gia một cách
bền vững mới khả thi.
Trong việc soạn thảo hiến pháp, thực ra các
công trình sư không cần phải bóp óc để tự sáng tạo từ con số
không. Họ không cần phải “re-invent the wheel” vì có khá
nhiều hiến pháp trên mặt đất đã chứng tỏ sự trưởng thành
trong kiến thức và ý thức của nhân loại và có khả năng mang
đến hạnh phúc an lạc cho bá tánh lâu dài. Hãy nhìn vào Hoa
Kỳ với trên 200 năm ổn định và tự do; Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hòa
Lan, Luxembourge trên 150 năm ổn định và tự do; Úc Đại Lợi
trên 100 năm ổn định và tự do. Và đặc biệt là hiến pháp 1949
Cộng Hòa Liên Bang Đức. Hiến pháp của xứ này tuy sanh sau đẻ
muộn nhưng được thừa hưởng hầu hết những giá trị cốt lõi mà
nhân loại đã học được và lược lấy trong việc tổ chức một cơ
chế điều hành đất nước có đủ khả năng thực sự mang lại tự
do, no ấm và hạnh phúc cho mọi người [ngay cả cộng sản Đức
cũng chấp nhận]. Những bản hiến pháp nói trên không những là
tài sản của chính quốc gia đẻ ra chúng mà còn là tài sản
chung của cả nhân loại. Vì thế không cần phải mặc cảm khi
lấy đem về làm của cho mình. Không cần phải có “dấu ấn” của
Á Đông hay của Việt Nam. Tự sáng tạo cho mình cái mới từ con
số không không những là làm uổng phí thời gian quí giá mà
còn có thể gây nhiều rắc rối không cần thiết vì những ý
tưởng chưa được thử nghiệm trên thực tế hoặc vì những lỗ
hỏng tổ chức không nhìn thấy trước. Nói tóm lại: hãy tận
dụng những cái có sẵn trong việc soạn thảo hiến pháp cho
Việt Nam, nhưng phải hiểu rõ thực chất của từng điều khoản
trong văn bản.
Trên tiến trình soạn thảo hiến pháp và kiến
tạo một quốc gia nhân bản, dân chủ, pháp trị, để đạt hiệu
quả cao và bảo đảm sự hợp tác của mọi người, những qui trình
và qui luật phối hợp làm việc nên được thiết lập trước và có
sự đồng thuận của tất cả đại biểu. Sau đó mới nương vào
những qui trình và qui luật này để tiến hành. Mỗi đại biểu
nên chọn sẵn một số qui luật và qui trình để đóng góp ý
kiến. Mỗi đại biểu nên liệt kê sẵn những điều khoản muốn đưa
vào hiến pháp để đề nghị. Việc soạn thảo nên được xúc tiến
theo qui luật “thu hoạch những cái đồng thuận trước, bàn
luận những cái dị biệt sau” và theo qui luật “thu hoạch cái
cốt lõi trước, đánh bóng ngôn ngữ sau.”
Những đại biểu soạn thảo hiến pháp phải hiểu
rõ trách nhiệm của mình là nhìn tới trước để thấy một ảnh
tượng tốt đẹp của ngày mai và tận sức cống hiến tất cả những
gì mình có thể cống hiến - niềm tin, trí tuệ, tình thương
lớn - nhằm kiến tạo một phương tiện vô giá để biến ảnh tượng
đó thành sự thật. Những đại biểu soạn thảo hiến pháp phải
hiểu rõ mỗi lời mỗi câu mình đặt xuống, hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp, sẽ quyết định mạng sống, sự sống và cách sống của
toàn dân và sẽ lưu lại dấu ấn hàng trăm năm về sau. Những
đại biểu soạn thảo hiến pháp phải hiểu rõ chính mình là
những công trình sư đang kiến tạo một con đường dẫn tới hạnh
phúc an lạc của hàng chục triệu con người trong đất nước.
Những đại biểu soạn thảo hiến pháp phải hiểu rõ là mình đang
“dấn thân làm một cuộc cách mạng trong sáng” ngay tại bàn
hội nghị để mang lại hạnh phúc cho bá tánh. Những đại biểu
soạn thảo hiến pháp phải hiểu rõ việc làm của mình không có
chỗ cho những tính toán đen tối vị kỷ, không có chỗ cho
những tự ái sân hận tị hiềm vụn vặt, không có chỗ cho những
chạy chọt lạm dụng xấu xa. Những đại biểu soạn thảo hiến
pháp phải hiểu rõ “tham dự với sự trong sáng thánh thiện” để
thực hiện một “công trình của niềm tin, trí tuệ và tình
thương lớn” là điều kiện tiên quyết đặt trên bản thân.
Trên tiến trình kiến tạo một quốc gia nhân
bản, dân chủ, pháp trị tất cả những đại biểu soạn thảo hiến
pháp cho đến cho đến những người vận động và tổ chức phải
thể hiện triệt để đức tin dân chủ và cung cách dân chủ. Nói
một cách khác, nếu không thể hiện được dân chủ trong tư duy
và trong hành động thì không xứng đáng được ủy nhiệm vai trò
sứ giả hoặc vai trò công trình sư kiến tạo dân chủ.
Tính cách nghiêm trọng trong “đức tin dân
chủ” và trong “cung cách dân chủ” dẫn đến những trù liệu
khác cần phải thực hiện trước khi một cuộc vận động bắt đầu:
huấn luyện đào tạo những sứ giả của dân chủ. Muốn thực sự có
cái gọi là “đức tin dân chủ” thì những sứ giả / công trình
sư của dân chủ phải được trang bị với những hiểu biết “chân
xác và cặn kẽ” về dân chủ. Muốn thực sự thể hiện cung cách
dân chủ thì những sứ giả / công trình sư của dân chủ này
phải “cưu mang đức tin dân chủ” trong từng hơi thở, trong
mỗi nhịp đập của con tim, trong mỗi tế bào của sự sống. Nói
một cách khác, những sứ giả / công trình sư của dân chủ phải
hoàn toàn tiếp thu (internalized) kiến thức dân chủ để biến
nó thành đức tin dân chủ và sau đó chuyển hóa thành cung
cách dân chủ. Họ là những con chiên dân chủ. Họ không những
phải đọc kinh dân chủ mà còn phải mang tin lành dân chủ vào
đời sống bằng cách thể hiện dân chủ ngay trên bản thân để
cho quần chúng nhìn thấy. Họ không phải chỉ tụng kinh dân
chủ mà còn phải hành thiền dân chủ để quần chúng tin rằng họ
là những người đã thực sự chứng ngộ dân chủ. Và dĩ nhiên dân
chủ đang nói ở đây là dân chủ của cơ chế nhân bản, dân chủ,
pháp trị.
Dân chủ không phải là một sản phẩm hoàn toàn
xa lạ đối với những dân tộc Đông Nam Á Châu. Tuy đa số nhân
dân có thể không có học lực cao, không có kiến thức rộng,
không có miệng lưỡi sắc bén nhưng chắn chắn họ có khả năng
để phân biệt cái nào là thật và cái nào là giả khi họ chạm
đến; có khả năng phán đoán cái nào là tốt cái nào là xấu khi
họ nhìn thấy; có khả năng làm quyết định là có nên mua hay
không nên mua khi họ hiểu được món đồ và ý đồ của người bán.
Nói cho cùng, ngoại trừ những người mất trí, tất cả mọi
người trên thế gian này đều có khả năng nhận thức sự khác
biệt giữa những điều nhân bản với những điều không nhân bản;
đều có khả năng nhận thức sự khác biệt giữa những điều làm
cho họ vui sướng an lạc với những điều làm cho họ khổ đau
sầu muộn; đều có khả năng nhận thức sự khác biệt giữa cái họ
thích và cái họ không thích. Như vậy, đa số nhân dân rõ ràng
có khả năng tiếp thu dân chủ. Nhưng mãi cho tới nay vẫn chưa
thấy hoa dân chủ nở trên đất nước không phải vì dân tộc
chúng ta không muốn hay không đủ sức để tiếp thu dân chủ mà
sự thật hiển nhiên cho thấy là bạo lực đến từ những trái tim
đen tối và những bàn tay tàn độc đã đặt họ dưới sự khống trị
nghiệt ngã và không chừa cơ hội để những hạt giống dân chủ
nẩy mầm. Những xã hội ĐNAC vốn nặng truyền thống Phật giáo.
Và, trong kinh điển Nikàya của Phật giáo nguyên thủy có một
đoạn nói về 7 pháp bất thối, những nguyên tắc để làm cho một
quốc gia hưng thịnh, thì 3 pháp đầu tiên - sự đồng thuận của
dân, sự đoàn kết với dân, sự công minh nơi luật pháp - là 3
thể hiện của dân chủ thực hành. Chưa hết, Hội Nghị Bình
Than, Hội Nghị Diên Hồng trong thế kỷ thứ 13 và Hội Thề Lũng
Nhai đầu thế kỷ thứ 14 là những thể hiện dân chủ thực hành
của riêng người Việt. Dựa trên những sự thật này, không ai
có thể viện dẫn lý do trình độ văn hóa, tôn giáo, chủng tộc
hay hoàn cảnh xã hội để phủ nhận việc thực thi dân chủ cho
Việt Nam.
Những viện dẫn như vậy là một xúc phạm không
thể chấp nhận được.
Như đã nói, lật đổ một chế độ độc tài toàn
trị hại nước hại dân chỉ mới là một nửa của vấn đề và đó
chưa phải là mục tiêu tối hậu của một cuộc cách mạng. Kiến
tạo một quốc gia lý tưởng mới đích thực là mục tiêu tối hậu
của nó. Kiến tạo một quốc gia lý tưởng không thể nào tách
rời khỏi công việc kiến tạo một hiến pháp lý tưởng. Theo sau
một cuộc xuống đường tổng nổi dậy lật đổ chính quyền, kiến
tạo một hiến pháp mới để từ đó hình thành một cơ chế điều
hành đất nước thuận với lòng dân là một công việc cấp bách,
cực kỳ cấp bách, và không có nhiều thời gian để lãng phí.
Cho nên 1001 Ghonim của Việt Nam cần phải chuẩn bị trước và
chuẩn bị thật chu đáo. Không chuẩn bị chu đáo cho cuộc tổng
nổi dậy chắc chắn sẽ tổn hao nhiều nhân mạng. Không chuẩn bị
chu đáo để nắm lấy cơ hội kiến tạo một hiến pháp lý tưởng để
từ đó hình thành một quốc gia lý tưởng chắc chắn sẽ gây ra
thất vọng lớn. Hy vọng là 1001 Ghonim của Việt Nam đã sẵn
sàng để khởi động tiến trình cách mạng.
http://danluanvietnam.wordpress.com/2011/03/06/iris-vinh-hayes-d%E1%BB%83-ki%E1%BA%BFn-t%E1%BA%A1o-m%E1%BB%99t-qu%E1%BB%91c-gia-ly-t%C6%B0%E1%BB%9Fng-xin-gop-y-v%E1%BB%9Bi-1001-ghonim-c%E1%BB%A7a-vi%E1%BB%87t-nam/
|