Trật tự dưới
sức ép
Hòa
bình và hợp tác đã mang lại tăng trưởng kinh tế, và sự tăng
trưởng này giờ đây đang hủy hoại các nền tảng của trật tự
tạo ra nó.
Tại châu Á ngày nay, lực lượng chính tạo ra thay đổi trong
trật tự quốc tế là tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Sức
nặng kinh tế của Trung Quốc trên thế giới đã thay đổi đáng
kể từ năm 1972, khi Nixon đến Bắc Kinh và các nền tảng của
trật tự hậu chiến tranh Việt Nam ở châu Á được tạo ra, không
chỉ là trong so sánh GDP, mà còn ở quy chế nước chủ nợ của
Trung Quốc và tầm quan trọng của nền kinh tế nước này trong
vai trò là một động lực cho tăng trưởng toàn cầu. Nếu Trung
Quốc tiếp tục tăng trưởng mạnh, sự thay đổi trong tương quan
quyền lực sẽ hủy hoại trật tự hậu chiến tranh Việt Nam.
Nhằm duy trì hòa bình, một trật tự mới sẽ cần được tạo ra,
phản ánh tương quan quyền lực mới, và thích nghi tốt với lợi
ích cốt lõi và những mối quan tâm chính của các cường quốc
chính. Nếu điều đó không xảy ra, không có lý do gì để hy
vọng là hòa bình sẽ được gìn giữ.
Những người theo thuyết thực tế của trường phái Mearsheimer
tin vào định mệnh lịch sử, rằng tất cả các cường quốc lớn
đang nổi đã tạo ra các cuộc chiến tranh cơ học khi thách
thức của họ đối với trật tự hiện nay vấp phải sự chống cự
của các cường quốc được xác minh. Như vậy theo quan điểm
này, cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc là không tránh khỏi.
Quan điểm này có vẻ quá bi quan. Tất cả các nước lớn ở châu
Á, kể cả Mỹ và Trung Quốc, đều có lợi trong việc gìn giữ hòa
bình, vì hòa bình rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế
toàn cầu hóa. Nhưng chúng ta phải thận trọng để không mắc
lỗi ngược lại, là tin rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
và giải thoát khỏi tính tư lợi sẽ ngăn cản nguy cơ xảy ra
chiến tranh. Trong hơn 200 năm qua, ảo tưởng dễ chịu này đã
đánh lạc hướng mọi người vào ý nghĩ là không cần điều chỉnh
chính sách để ngăn chặn chiến tranh.
Trọng tâm của vấn đề là sự song tồn, bất ngờ nhưng không thể
phủ nhận, của chủ nghĩa dân tộc và toàn cầu hóa. Về lý
thuyết, việc sáp nhập dân tộc trở nên kém quan trọng khi
toàn cầu hóa thay đổi cuộc sống người dân, và các nhà nước
mất quyền lực và tầm ảnh hưởng và không còn hành xử như
trước đây. Trên thực tế, điều ngược lại đã xảy ra: những
nước như Trung Quốc và Ấn Độ đã tăng trưởng mạnh hơn nhờ
toàn cầu hóa, họ đã hành xử như các quốc gia truyền thống,
và khi người dân trên thế giới kết nối với nhau nhiều hơn,
họ càng gắn bó với quốc tịch của mình hơn. Thay vì làm biến
mất quốc gia-dân tộc, toàn cầu hóa dường như dẫn tới một thế
giới gồm một số lớn các nhà nước hùng mạnh hơn bất cứ lúc
nào trước đây.
Chắc chắn điều này đang xảy ra tại châu Á, và không chỉ vì
Trung Quốc. Ấn Độ, Nhật Bản, và trong tương lai là cả Nga,
Triều Tiên và Indonesia, có thể đều đưa ra đòi hỏi quy chế
cường quốc chính trong những thập kỷ tới. Trên thực tế,
chúng ta dường như hướng tới kiểu trật tự đa cực ở châu Á mà
một số người tiên đoán trong những năm 1960. Điều đó đã
không xảy ra khi đó, và một số người có thể hỏi tại sao bây
giờ nó lại xảy ra. Trong những năm 1960, tương quan quyền
lực đã thay đổi ít hơn so với ngày nay, và đặc biệt sức mạnh
kinh tế tương đối đã thay đổi ít hơn ngày nay (và có thể
tiếp tục như vậy trong những thập kỷ tới).
Các mô hình cho một trật tự mới
Vậy hệ thống quốc tế nào có thể thay thế trật tự hậu chiến
tranh Việt Nam theo hướng ngày càng đa cực hóa châu Á? Các
mô hình không có nhiều (thế giới đã chứng kiến tương đối ít
ví dụ về các hệ thống quốc tế bao gồm một số quốc gia-dân
tộc hùng mạnh), và những mô hình tồn tại hiện nay có từ
trong lịch sử châu Âu.
Thật không khôn ngoan khi đưa ra tiền lệ châu Âu cho các vấn
đề của châu Á, nhưng dường như không có cách nào tốt để đặt
ra các câu hỏi về tương lai châu Á hơn là dưới dạng quá khứ
của châu Âu. Cách này đã được áp dụng nhiều lần trước đây
(nổi tiếng nhất là Aaron Friedberg trong cuốn tiểu luận Liệu
quá khứ của châu Âu sẽ là tương lai châu Á?).
Nhưng các phân tích như thế thường giới hạn ở một trong
nhiều quá khứ của châu Âu trong khi có ít nhất 4 mô hình
trong lịch sử châu Âu có thể dành cho tương lai châu Á.
Thứ nhất, đó là mô hình Đế chế La Mã từ thế kỷ đầu tiên của
Giáo hội Anh. Đây dường như là mô hình mà Washington chọn
lựa. Gần đây người ta viết nhiều về so sánh nước Mỹ hiện đại
với La Mã thời hoàng kim. Hầu hết đều không nói nghiêm túc,
nhưng ý tưởng cho rằng Mỹ có thể duy trì mãi mãi - hoặc ít
nhất trong những thập kỷ tới - vai trò bá chủ của mình ở
châu Á đã khắc sâu trong suy nghĩ của chính giới Mỹ.
Vả lại ý tưởng này không phải là không nhận được sự ủng hộ ở
Tây Thái Bình Dương: nhiều người ở Nhật Bản, Đông Nam Á và
Australia chắc chắn sẽ thấy đây là một mô hình hấp dẫn cho
tương lai châu Á, hoặc ít nhất là mô hình được ưa chuộng hơn
để có thể thay thế hiện trạng. Nhưng liệu nó có đáng tin? Mô
hình này giả định rằng trật tự châu Á sẽ không thay đổi theo
hướng sức mạnh của Trung Quốc và các nước châu Á khác đang
dần đuổi kịp Mỹ.
Ngược lại, nền kinh tế Trung Quốc sẽ vì một lý do nào đó duy
trì ở mức nhỏ hơn nhiều so với kinh tế Mỹ, hoặc Trung Quốc
phải chấp nhận vai trò lãnh đạo chiến lược và chính trị của
Mỹ ngay cả khi sức mạnh kinh tế và thậm chí cả quân sự của
họ đuổi kịp và vượt của Mỹ. Khả năng này không phải là không
thể xảy ra, nhưng sẽ là khó thành công, vì thế sẽ là một nền
tảng không chắc chắn cho chính sách tương lai.
Mô hình thứ hai cho tương lai châu Á đến từ thế kỷ 21 của
châu Âu, dưới dạng trật tự hậu-quốc gia, hậu-chiến lược và
hội nhập sâu sắc của mô hình Liên minh châu Âu, trong đó
việc sử dụng vũ lực trong các vấn đề quốc tế dường như bị
cấm đối cả với những kẻ thù truyền kiếp. Chúng ta có thể hy
vọng rằng đây là tương lai của châu Á, nhưng đó là một tương
lai xa.
Kinh nghiệm của châu Âu cho thấy việc xây dựng một trật tự
hậu-chiến lược đòi hỏi một truyền thống hợp tác chính trị
lâu dài để chứng tỏ cái gì là có thể, cần một lịch sử gần
đây xung đột gay gắt để chứng tỏ cái gì cần tránh, và cần sự
hiện diện của một mối đe dọa tiềm tàng để thúc đẩy thỏa hiệp
và hợp tác. Chỉ khi hội tụ tất cả các điều kiện trên Pháp và
Đức mới phối hợp cùng nhau trong những thập kỷ qua. Không ai
có thể đảm bảo rằng Nhật Bản và Trung Quốc sẽ có thể làm
điều tương tự trong thời gian trước mắt.
Mô hình thứ ba là châu Âu của thế kỷ 19: châu Âu của sự phối
hợp quyền lực. Động lực cho sự phối hợp này là sự tồn tại từ
năm 1815-1914 của một trật tự được hình thành từ việc thiết
lập quan hệ giữa các nước lớn, dù thường cạnh tranh quyết
liệt nhưng vẫn hiểu rõ các giới hạn của sự cạnh tranh này.
Những nhận thức này bao gồm sự tôn trọng tính hợp pháp của
các thể chế chính trị, các lợi ích quốc gia và các lực lượng
quân đội của tất cả các cường quốc chính khác, và sự thừa
nhận tầm quan trọng của việc tránh một cuộc chiến tranh tổng
lực giữa họ. Đối với những người sống trong đó, sự phối hợp
này chắc chắn ít hòa bình hơn trước, nhưng vẫn là một thành
quả lớn mà nhờ đó sức mạnh kinh tế, vị thế trên toàn cầu và
các thể chế chính trị và an sinh xã hội của châu Âu đều đã
tăng lên đáng kể.
Cuối cùng, mô hình thứ tư là hệ thống cân bằng quyền lực đã
định hình các vấn đề chiến lược của châu Âu trong đa phần
chiều dài lịch sử hiện đại của họ, trong suốt các thế kỷ 16,
17, 18 và 20. Hệ thống cân bằng quyền lực này hiệu quả trong
việc duy trì các lợi ích của đa số quốc gia trong đó, bằng
việc ngăn cản một nước đơn lẻ nắm quyền bá chủ; khi được
quản lý tốt, hệ thống này có thể giúp duy trì hòa bình,
nhưng với cái giá là cuộc cạnh tranh chiến lược liên tục và
một số cuộc chiến tranh cơ học thường thảm khốc, nhất là xảy
ra giữa các cường quốc hạt nhân. Lịch sử châu Âu cho thấy
đây là sự mặc định cho một trật tự đa cực - chính là trật tự
mà chúng ta nhiều khả năng sẽ chứng kiến ở châu Á sau khi
trật tự thời hậu chiến tranh Việt Nam sụp đổ. Nếu chúng ta
đi theo chiều hướng này, một trật tự đang nổi lên trong đó
một cuộc chiến tranh lớn là hoàn toàn có thể xảy ra./.
Châu Giang trích từ cuốn "Why War in Asia Remains Thinkable"
của tác giả Hugh White, do Nhà xuất bản Survival phát hành.
|