Bush đi Obama tới
Tuần lễ trước ngày rời tòa Nhà Trắng, Tổng Thống Bush đã họp
báo và đọc diễn văn cuối cùng chấm dứt hai nhiệm kỳ dài tám
năm. Như thường lệ tổng thống, và nhất là Phó Tổng Thống
Dick Cheney, hoàn toàn không tỏ ra hối hận mà còn hãnh diện
về những gì mình nói và làm trong thời gian dài vừa qua-dù
cả nước và thế giới như thở phào nhẹ nhõm. Lịch sử sau này
sẽ ghi chép về hai vị lãnh đạo tối cao Hoa-Kỳ đầu thế kỷ 21
ra sao? Vô cùng rõ rệt là phản ứng của Tổng Thống Bush khi
được đặt câu hỏi này. Ông trả lời: “Lịch sử? Ta không thể
nào biết được. Lúc đó chúng tôi đã chết hết rồi, còn gì
nữa?”
Chúng ta cũng chưa biết được, nhưng lịch sử “tươi,” hay lịch
sử “ghi chép trong thì hiện tại” (gồm truyền thông, báo chí,
những phân tích, nghiên cứu của giới đại học, chuyên gia)
như đã nhận định khá rõ rệt. Nhật báo Nam California Los
Angeles Times với uy tín toàn quốc và thế giới ghi nhận một
số thành quả quan trọng của chính quyền (như chương trình
giúp người già mua thuốc men Medicare, trợ giúp bệnh AIDS ở
Phi Châu) nhưng nhấn mạnh những năm thời ông Bush là một
giai đoạn với nhiều “cơ hội bỏ lỡ, lạm quyền khủng khiếp, và
ngang nhiên chà đạp những giá trị công lý và lịch sử của
nước Hoa Kỳ.” Năm 2001, sau khi Tối Cao Pháp Viện với đa số
bảo thủ ra lệnh ngưng kiểm phiếu lại, đưa đến kết quả ông
thành tổng thống (dù thua ứng viên Al Gore nửa triệu phiếu
dân chúng), ông Bush đã hứa hẹn xây dựng “một đất nước với
công lý và cơ hội.” Nhưng sau đó, phần lớn những gì chính
quyền làm đều vi phạm những hứa hẹn này: từ chính sách chống
khủng bố không có ý kiến của lập pháp (Quốc Hội) cho tới
thái độ kiêu ngạo coi thường hiến pháp, những dữ kiện khoa
học rành rành cũng như dư luận thế giới, hoặc trung thành mù
quáng và để mặc cho Tổng Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld
và Tổng Trưởng Tư Pháp Alberto Gonzales ở lại trong nội các
sau những lộng hành lộ liễu.
Nét nổi bật nhất của chính quyền là thái độ độc đoán, trịch
thượng, phản dân chủ, xem mình như vạn toàn, vạn năng và
không thể nào sai lầm được-dựa trên thuyết “đơn phương” hành
động (unilaterialism) của tay trí thức tân bảo thủ thân Do
Thái Charles Krauthammer (xin xem Phái Tân Bảo Thủ và Chính
Sách Ngoại Giao Mỹ, trên tạp chí Thế Kỷ 21, Tháng Mười 2004,
cùng người viết). Người ủng hộ Tổng Thống Bush đưa ra lập
luận rằng vụ tấn công khủng bố vào Hoa Kỳ 11 Tháng Chín,
2001 đã thay đổi tất cả. Trong diễn văn giã từ, ông Bush cho
biết thời gian qua đi cho mọi người, nhưng ông đã không còn
như trước khi cuộc tấn công xẩy ra. Chẳng ai trách cứ tổng
thống phải cảnh giác để tránh những tấn công kế tiếp, nhưng
rõ rệt chính quyền Bush đã dùng cuộc tấn công không những
như một ủy thác bảo vệ “đất nước” mà còn như một cái “nguyên
cớ toàn năng” làm căn bản cho mọi chính sách phá sản khác
như cuộc tấn công Saddam Hussein và chiếm cứ Iraq với những
lý do chính hoàn toàn “bịa đặt.” Cả Iraq và cuộc chiến chống
khủng bố toàn cầu (G-WOT, Global War On Terror) đều bị thúc
đẩy bởi suy nghĩ sai lầm nhưng ngang ngạnh, không cần xét
lại: qua mặt Quốc Hội và hệ thống tòa án quân sự trong việc
bắt giữ, xử án tình nghi khủng bố, thay đổi định nghĩa pháp
lý để toàn quyền “tra tấn,” và “nghe lén” không có trát tòa,
những chính trị hóa Bộ Tư Pháp dưới quyền ông Gonzales sẵn
sàng nghe theo-tất cả đi đến vi phạm hiến pháp nghiêm trọng
có thể bị bãi nhiệm (impeachment; ông Bush và Cheney đã làm
áp lực Tổng Trưởng Gonzales nhưng sau đổ cho ông này khuyến
cáo những vi phạm là hợp pháp). Ðây chưa kể đến những khó
khăn đầy thử thách trong nước.
Ngày 20 Tháng Giêng đầu năm những chuyện này đã thành quá
khứ, chính quyền Bush-Cheney chính thức chấm dứt, nhưng với
hệ quả sâu xa còn đeo đẳng chính quyền kế tiếp Barack Obama:
chính quyền mới sẽ phải cởi xóa cái di sản quá tiêu cực.
Trong diễn văn nhậm chức lịch sử nhưng tương đối ngắn
ngủi-chỉ 18 phút, so với tiêu chuẩn những diễn văn tự viết
khá dài của mình-ông Obama đã tỏ ra không hùng hồn, văn
chương và đầy thách đố. Người ta đã thất vọng vì không nghe
thấy một diễn văn đi vào sử sách (mà ông Obama có đủ khả
năng thực hiện) tương xứng với “biến cố” đầy ý nghĩa trong
thiên niên kỷ thứ ba Hoa Kỳ; đúng ra, ông Obama chỉ chú tâm
vào những vấn đề cấp bách hiện đại.
Ðầy lạc quan trước những khó khăn quá khổ, như Tổng Thống
Ronald Reagan đầu thập niên 1980, ông nhấn mạnh khía cạnh
tích cực về vị thế quốc gia trên thế giới cũng như con người
Hoa Kỳ tưởng như đã mất mát tám năm qua. Nhưng ông cũng
nghiêm khắc vạch ra cái thất bại tập thể (“collective
failure”) đã khiến người Mỹ không làm được những quyết định
khó khăn để lên đường về một tương lai sáng sủa hơn. Tuy
không hùng hồn như diễn văn đêm thắng cử ở công viên
Chicago, ông vẫn nhấn mạnh “trách nhiệm” và “kỷ luật tự
giác,” cũng như đòi hỏi “hy sinh” cho phúc lợi chung; ông
cảnh cáo “đây là lúc phải gạt bỏ những cái ấu trĩ”-đã đến
lúc phải tự động, tự giác và bắt tay vào việc xây dựng lại
một nước Hoa Kỳ đổ nát nhiều mặt.
Ðây không phải chỉ riêng về mặt tài chính, kinh tế trong
nước mà còn là một khẩn khoản về vai trò xây dựng hòa bình
thế giới. Ông như không chùn chân trước những chỉ trích lúc
tranh cử rằng ông sẵn sàng nói chuyện với “kẻ thù” hoặc
những ai nghi ngờ thiện chí của Hoa Kỳ. Thật rõ rệt ông
tuyên bố, “Với thế giới Hồi Giáo, ta nhìn thấy con đường đi
tới, dựa trên căn bản quyền lợi hỗ tương và lòng tương
kính”-khác hẳn với nhãn hiệu “khủng bố” hay “phát-xít” Hồi
Giáo của chính quyền Bush trước đây. Tuy nhiên, ở mặt này
nhiều người cũng khó chịu về nhận xét và ngôn từ không
nghiêm chỉnh, như lập lại lời ông Bush, “Chúng ta đang ở
trong thời chiến với một mạng lưới lớn rộng đầy bạo hành và
thù hận.” Có lẽ ông Obama người rất chính xác với ngôn từ đã
quá cẩn thận và sợ mất lòng những tổ chức thiên Do Thái với
thế lực quá khổ ở Hoa Kỳ (xin xem Ảnh Hưởng Lốp-Bi Do Thái Ở
Hoa Kỳ, trên tạp chí Thế Kỷ 21, bốn số cuối năm 2007, cùng
người viết).
Ði vào chi tiết hơn, về mặt trong nước, ông Obama không chọn
những tung hô, liên hoan thích hợp với môi trường ngày nhậm
chức khi gần 70% dân chúng phơi bầy lòng ngưỡng mộ. Trước
mắt là vô số những thử thách gian nan, không mấy gì đáp ứng
dễ dàng hoặc nhanh chóng được- “nhưng đất nước và con người
chúng ta sẽ đáp ứng được,” không phải khẩu hiệu tranh cử dễ
lập lại “Yes, we can!” Ông nhắc lại những tiền lệ gian nan
trong sách giáo khoa lịch sử: Abraham Lincoln thời nội chiến
điêu tàn, Franklin Delano Roosevelt (FDR) thời khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đằng đẵng, và George Washington thời cách
mạng lập quốc tưởng chừng đã bị vùi dập. Ðây có thể là chiến
lược chính trị căn bản; dân chúng đặt rất nhiều cao vọng
không thực tế vào tổng thống mới; họ cần phải hiểu phục hồi
kinh tế không phải dễ hoặc nhanh chóng, và người lãnh đạo
chỉ vẫy tay là xong. Chính quyền mới muốn dân chúng giúp đỡ
trong khoảng thời gian cấp bách để Quốc Hội thông qua kế
hoạch kích thích kinh tế 775 tỉ bạc và còn có thể lên cao
hơn nữa. Chính quyền muốn tích cực sử dụng số tiền này cộng
với khoảng 350 tỉ nữa từ những “cứu vãn” của Bộ Tài Chính
dồn vào những mục tiêu các cố vấn kinh tế chọn lựa. Tổng
thống muốn Quốc Hội thông qua kế hoạch bảo hiểm y tế toàn
diện, một điều mà chưa nhiệm kỳ Quốc Hội nào trước đây muốn
bàn luận đến. Ngay sau đó Quốc Hội sẽ phải đương đầu với
những vấn đề gai góc liên quan đến Medicare và An Sinh Xã
Hội!
Ông Obama vội nhắc nhở dân chúng ngay: đây bao gồm những kế
hoạch đầy tham vọng, nhưng vẫn có thể thực hiện được dựa
trên tiền lệ lịch sử như Ronald Reagan (dùng truyền hình) và
FDR (dùng truyền thanh) để trực tiếp vận động dư luận dân
chúng làm áp lực lên Quốc Hội đi theo đường lối hành pháp
yêu cầu. Ông Obama sẽ dùng phương tiện điện toán và truyền
thông mới (đã rất nhiều sầm xì về việc ông nhất định không
chịu bỏ điện thoại lưu động cá nhân Blackberry) để trực tiếp
vận động hàng chục triệu người từng tình nguyện tranh cử cho
ông nay sẵn sàng làm đạo quân “lốp-bi nhân dân.” Theo thăm
dò dư luận dân chúng mới nhất của tờ Times và thông tấn xã
Bloomberg, ở mức dân chúng ủng hộ 79% ông Obama nắm vững
triển vọng thực hiện những gì ông hứa hẹn trong tranh cử và
cần thiết khi đắc cử tổng thống.
Nhưng ông Obama không ngừng ở đây, ông còn muốn chấm dứt
“những than van nhỏ nhen và hứa hẹn hão huyền, những đổ lỗi,
buộc tội lẫn nhau, và giáo điều sờn rách từng đầu độc bầu
khí chính trị trong xã hội chúng ta... Vấn nạn hôm nay không
phải là chính quyền quá to lớn hoặc nhỏ bé, nhưng là chính
quyền có hữu hiệu hay không.” Tham vọng và tự tín quá mức,
một số trí thức đối lập đã lên tiếng nhận xét! Họ, như cây
bút phê bình bảo thủ nhiều người đọc George Will, nhận ra
ngay ông Obama không ngần ngại chỉ ra nhược điểm người Mỹ
tiêu thụ vật chất, đòi hỏi những hàng vật và dịch vụ quá
mức, và thiếu kỷ luật tự giác. Họ cũng đồng ý với ông, và
ông Reagan rằng chính quyền lớn nhỏ không phải chuyện đáng
bận tâm; điều chính là nó phải hữu hiệu. Và ông Obama cũng
sẽ thu tóm nhiều quyền lực hành động vì những thay đổi
nghiêm trọng ghê gớm trong vòng bốn tháng qua đã làm nhòa
cái đường phân ranh giữa đâu là phân bộ công đâu là thế giới
tư nhân, đâu là địa hạt chính quyền, chỗ nào nằm trong địa
hạt tư. Những trở lực hạn chế khả năng chính quyền từ nay sử
dụng quyền lực hành pháp để chuyển phần tài nguyên quốc gia
lớn lao vào các mục tiêu ưu tiên cũng yếu đi.
Về mặt đối ngoại, ông Obama như đi theo triết lý công chính
về quyền lực người nắm quyền phải tuân theo. Ông nhắc nhở
người Mỹ, “quyền lực của chúng ta đi lên khi ta sử dụng nó
một cách khôn ngoan, thận trọng; an ninh của chúng ta xuất
phát từ cái công chính của mục tiêu chung, sức mạnh của tấm
gương ta muốn người khác noi theo, phẩm chất ôn nhu của
khiêm nhường và tự chế.” Như đồng thanh với triết lý này,
một tuần trước lễ nhậm chức bà Hillary Clinton (nay đã được
thượng viện chấp thuận chức vụ ngoại trưởng) tuyên ngôn hùng
hồn không kém: “Hoa Kỳ không thể nào một mình giải quyết
những vấn đề cấp bách nhất, và thế giới cũng không thể giải
quyết những vấn đề này mà không có Hoa Kỳ... Ta phải sử dụng
điều gọi là ‘sức mạnh sáng suốt,’ tất cả những công cụ ta có
trong tay.” Sức mạnh “sáng suốt” là một tổng hợp uy thế
“cứng” (hard power, sức mạnh quân sự) và uy thế “mềm” (soft
power, sức mạnh ngoại giao).
Theo giáo sư viện Ðại Học Harvard, Joseph Nye (tác giả The
Power To Lead), “soft power” là khả năng đạt được những gì
ta muốn bằng cách lôi cuốn người khác đến với mình thay vì
ép buộc hay mua chuộc bằng quyền lợi vật chất. Dư luận thế
giới cho thấy Hoa Kỳ đã mất mát rất nhiều thiện chí từ Châu
Âu, Châu Mỹ La-Tinh (Trung và Nam Mỹ) và rõ rệt nhất là thế
giới Hồi Giáo. Soft power bao gồm văn hóa, giá trị được tôn
quý và những chính sách. Trong tám năm qua Hoa Kỳ đã bị hạn
chế rất nhiều về soft power, nhất là ở thế giới Hồi Giáo,
nơi dân chúng bị trực tiếp tấn công bởi văn hóa, những giá
trị và nhất là chính sách của chính quyền Bush-Cheney. Dĩ
nhiên, trong ba thành phần của soft power, chính sách là
phần dễ thay đổi hơn cả, và ông Obama đã đưa ra dấu hiệu lạc
quan với ưu tiên và hành động nhanh chóng dành cho thế giới
Hồi Giáo. Hai nhân vật uy tín và kinh nghiệm nguyên Nghị Sĩ
George Mitchell được bổ làm đặc sứ về vấn đề hòa bình gai
góc giữa Do Thái-Palestine, và nguyên Thứ Trưởng Ngoại Giao
Richard Holbrooke về an ninh khu vực Pakistan-Afghanista n;
ông Obama cũng trực tiếp thành khẩn nói chuyện với thế giới
Hồi Giáo qua phỏng vấn trên truyền hình Hồi Giáo.
Dĩ nhiên soft power không là giải pháp cho mọi vấn đề trong
bang giao quốc tế. Nhà độc tài Kim Jong Il ở Bắc Hàn thích
“văn hóa” Hollywood qua phim ảnh Mỹ, nhưng soft power không
thể thuyết phục ông bỏ chương trình vũ khí hạch nhân; soft
power cũng chẳng lấy lại được sự ủng hộ Taliban cực đoan
dành cho al-Qaeda ở Afghanistan (một chiến trường sẽ “đẫm
máu” không kém Iraq, theo Phó Tổng Thống Joe Biden). Nhưng
những mục tiêu giá trị như xiển dương dân chủ thực sự (thay
vì hình thức) và nhân quyền dễ đạt đến hơn với soft power-và
nhất là Hoa Kỳ phải làm gương mẫu về mặt này. Ngay trong
tuần lễ đầu tiên sau nhậm chức, ông Obama đã giữ lời hứa đưa
ra nhiều nghị định, sắc lệnh với ý nghĩa quan trọng (tuy
không nhất thiết là dễ thi hành trên thực tế): đóng cửa nhà
tù Guantanamo từ 2001 từng giam giữ những người bị tình nghi
là khủng bố Hồi Giáo mà không có bằng cớ hoặc được xét xử
theo đúng hiến pháp Mỹ, một vết nhơ lớn trong lịch sử Mỹ;
hạn chế hoặc cấm ngặt người trong chính quyền làm việc hay
liên hệ vào chuyện vận động hành lang (“lốp-bi”), một
“truyền thống” được chính quyền Bush mở rộng, vân vân.
Nhận xét về diễn văn nhậm chức của ông Obama, ký giả kỳ cựu
và sắc bén ở Washington, ông Ronald Brownstein xem đây rất
hùng hồn nhưng cũng vô cùng cứng rắn và thực tiễn. Ông tỏ ra
rất cương quyết, hơn là hân hoan như nhiều nguyên thủ quốc
gia khác trong cùng trường hợp. Ông rất thẳng thắn về các
trở lực, khó khăn trước mắt. Ông đặt những hứa hẹn hòa giải
hòa hợp trong nước cùng với cảnh cáo rằng ông có những ý
kiến và giải pháp rõ ràng về việc bắc nhịp cầu ở đâu và ra
sao. Diễn văn như “một đóa hồng với nguyên vẹn những cái gai
nhọn.” Ví dụ về thái độ chính quyền đi trước sau tấn công 11
Tháng Chín, “Ta xem thái độ chọn lựa giữa an ninh và những
lý tưởng nước Mỹ là hoàn toàn sai lầm,” ông Obama tuyên bố
với vị trí rõ ràng rằng chính quyền Bush đã làm nhơ lý tưởng
Mỹ để chuộc lấy an ninh tạm bợ. Ông Obama cũng vô cùng mạnh
mẽ trong việc nối liền sự “đồng lòng” của người trong nước
với “thay đổi”-hai ý tưởng thường mâu thuẫn nhau. Ðây quả là
rất tự tín cũng như tham vọng.
Giới báo chí, truyền thông nói chung đã tỏ ra rất cởi mở, hồ
hởi với ông Obama, ngay từ thời ông còn tranh cử gắt gao
trong đảng rồi ngoài đảng. Nhiều người nhận ra cái “thiện”
của người từng trải hiểu biết, cái công chính của người trí
thức học rộng, hiểu nhiều; thậm chí có người đã “tương tư”
ông đến một mức độ nào đó. Với cái nhìn tỉnh táo về vai trò
quan trọng của truyền thông như một quyền không liệt kê
trong hiến pháp nhằm quân bằng quyền lực (cùng với ba quyền
có liệt kê: lập pháp, hành pháp, tư pháp) trong chế độ thực
sự dân chủ, cột báo này sẽ giữ thái độ vô tư, độc lập có thể
được với chính quyền mới.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|