Afghanistan,
nhìn lại từ đầu
Khoảng
năm 100 trước Công Nguyên, khi vua Vũ Đế nhà Hán mở rộng thế
lực về phía cực tây Trung Hoa thì “Con đường lụa” hay còn
gọi là “Con đường hồ tiêu” (SilkRoute hay SpiceRoute) hình
thành, bằng cách nối những con đường đã có sẵn, từ Bắc kinh
(Trung Hoa) về phía tây nước nầy, xuyên qua vùng sa mạc ở
Nội và Ngoại Mông, vượt cao nguyên Karakoram và Taklamakan ở
Tân Cương, qua phía bắc Ấn Độ, qua các nước Trung Á rồi tới
Afghanistan để qua Trung Đông (Iran, Iraq), các hải cảng lớn
trên bờ biển phía nam Địa Trung Hải như Syri và Alxandri của
Ai Cập. Tại các hải cảng nầy, hàng hóa sẽ được chuyển qua Ý
và châu Âu. Hoặc hàng từ châu Âu đi ngược lại con đường ấy.
Con đường lụa dài khoảng 7 ngàn cây số, vượt qua nhiều địa
hình trắc trở, khó khăn và khí hậu khắc nghiệt. Nhưng những
món hàng chuyên chở trên con đường nầy, như lụa và hồ tiêu
của Trung Hoa đem bán cho châu Âu và vàng, bạc, châu báu từ
châu Âu bán cho Trung Hoa là những món lợi lớn nên rất hấp
dẫn các thương nhân thời ấy.
“Con đường lụa” thịnh suy tùy thời kỳ. Sau khi nhà Hán suy
tàn, con đường nầy không còn dùng được nữa vì rất nhiều giặc
cướp. Đến cuối đời Tống, con đường lụa lại thịnh lên rồi tàn
lụi rất nhanh. Chỉ đời nhà Nguyên, vì các vua là người Mông
Cổ. Các ông vua nầy cũng đem quân qua tới châu Âu, việc buôn
bán trên “Con đường lụa” lại thịnh lên. Do đó, một người Ý
tên là Marco Polo, theo bọn thương nhân mà qua Trung Hoa.
Ông nầy làm quan ở Trung Hoa đời nhà Nguyên những 20 năm,
rồi trở về châu Âu theo đường biển (đi qua Việt
Nam).
Về tới châu Âu, Marco Polo xuất bản cuốn du ký giới thiệu
nước Trung Hoa với châu Âu. Bấy giờ người châu Âu mới biết
rõ thêm về nền văn minh Trung Hoa, mà trước đó, có lẽ cũng
qua “Con đường lụa” mà người châu Âu học thêm về thuốc súng,
hỏa tiển, giấy, la bàn do người Tầu khám phá trước đó.
Như trên đã nói, “Con đường lụa”, trước khi tiến vào vùng
Trung Đông đã đi qua Afghanisan, bằng hai nhánh. Vị trí vùng
nầy là huyết mạch của “Con đường lụa”, buộc phải đi qua đây
để vào Trung Đông.
Chỉ kể cuốn sách của Marco Polo mà thôi, cũng cho người ta
thấy vai trò văn hóa của “Con đường lụa”. Trong khi mang
hàng hóa buôn bán Đông Tây, “Con đường lụa” cũng đóng vai
trò giao lưu văn hóa của các dân tộc trên con đường nầy.
Dĩ nhiên, tôn giáo cũng theo con đường nầy, - cùng với thế
lực của các đế quốc -, như đế quốc La Mã, Ottoman, nên tôn
giáo đã phát triển thêm rộng ra: Đạo Thiên Chúa, đạo Hồi,
đạo Phật… Đạo Hồi, đạo Phật qua tới Mông Cổ và
Afghanistan.
Vì vậy, một thời đạo Phật rất thịnh ở
Afghanistan.
Vị trí
Afghanistan
là gạch nối giữa vùng Trung Á và Trung Đông. Từ Trung Á, đi
về hướng
Pakistan
là vào vùng Nam Á. Cũng từ Trung Á, đi về hướng
Afghanistan
là vào Trung Đông. Trong lịch sử, văn minh Lưỡng Hà (sông
Euphrate và sông
Tigre
- vùng
Iraq)
là cái nôi văn minh của nhân loại. Xa hơn nữa, tới Ai Cập,
ai cũng biết nước nầy có một nền văn minh vĩ đại với các kim
tự tháp, v.v… Quanh Địa Trung Hải là văn minh Địa Trung Hải.
Xem thế, người thấy tính cách quan trọng trong sự giao tiếp
của các nền văn minh của nhân loại. Cũng vì vị trí đó,
Afghanistan
có khi được coi là thuộc Trung Á, có khi thuộc Trung Đông.
Cũng vì tính cách đó, lịch sử
Afghanistan,
trước khi hình thành quốc gia
Afghanistan
hồi giữa thế kỷ thứ 18 rất phức tạp.
Tại vùng nầy, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những cổ vật cho
thấy cách nay 50 ngàn năm, con người đã xuất hiện và sinh
hoạt ở vùng nầy rồi.
Như đã nói,
Afghanistan
là ngã tư đường của văn minh Ấn -Âu, nơi sinh sống của nhiều
sắc tộc. Đây cũng là nơi một thời mang lịch sử của Đế Quốc
Ba-Tư, Đế Quốc
Parthia…
Đây cũng là nơi sinh sản một tôn giáo rất sớm của nhân loại,
trước CN gần 2 ngàn năm. Đó là Đạo Thờ Thần Lửa (Bái Hỏa
Giáo). Alexandre Đại Đế xâm lược
Afghanistan
và các nước lân cận và đã phát triển văn minh Hy-La ở đây.
Cũng có môt thời gian dài, vùng đông-bắc
Afghanistan
bị sát nhập vào Ấn Độ, nên Phật giáo được truyền bá ở đây
nữa. Hồi thế kỷ thứ nhứt sau CN,
Afghanistan
là trung tâm đế chế của người Kushan.
Trong một thời gian dài khoảng hơn 1 ngàn năm, vùng nầy là
nơi tranh chấp của nhiều đế chế. Tuy nhiên, quan trọng nhất
là ở thế kỷ thứ 13, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đã tàn
phá
Afghanistan.
Người ta không lạ gì khi thấy sau khi quân Mỹ đánh đuổi quân
Taliban hồi năm 2001, người dân
Afghanistan
đem bán rất nhiều cổ vật để kiếm sống. Nó chứng tỏ nhiều nền
văn minh cổ xưa của nhân loại đã phát triển ở xứ nầy. Và qua
đó, người ta cũng hiểu thêm, tại sao Afghnistan là một nước
Hồi giáo mà lại có hai tượng Phật rất lớn, bị Taliban ra
lệnh phá hủy, khiến nhiều nước cũng như Liên Hiệp Quốc lên
tiếng phản đối.
Quốc gia Afghanistan chỉ mới “tượng hình” hồi đầu thế kỷ
thứ 18 khi Khan Hotak, một người thuộc bộ tộc Pashtun đánh
bại người Ba Tư, là người chủ trương cải đạo Hồi của người
Sunny sang Shi’a. Khan Hotak chiếm giữ vùng
Kandahar.
Con trai của Khan Hotak là Mahmud Hotaki lên nối ngôi, tấn
công vào
Iran
rồi tự xưng là vua Ba-Tư. Cuối
cùng
Hotaki
bị
Nader Shah
lật đổ.
Năm 1738, Nader Shah và quân đội của ông,
gồm bốn ngàn người Pashtun chinh phạt vùng Kandahar,
Kabul.
Sau
khi Nader Shah
qua đời, người
Afghan đã tụ tập tại
Kandahar
chọn Ahmad Shah làm vua.
Ahmad Shah
thường được coi là người sáng lập nước Afghanistan
hiện đại.
Ahmad Shah mở rộng lãnh thổ, truyền ngôi lại cho con là
Timur Shah. Timur dời đô về
Kabul.
Cùng trong phong trào chiếm thuộc địa của các nước châu Âu,
Anh đem quân chiếm
Afghanistan
vào thế kỷ 19. Vua Amanullah Khan lên ngôi năm 1919, giành
được quyền độc lập hoàn toàn trong lãnh vực ngoại giao từ
tay người Anh.
Việc phân chia ranh giới quốc gia giữa
Afghanistan
và Ấn Độ thuộc Anh cũ (nay là
Pakistan)
tạo ra sự căng thẳng giữa hai quốc gia nầy.
Khi vua Zahir Shah cầm quyền (từ 1933 đến 1973), tình hình
Afghanistan
được ổn định. Tuy nhiên nhà vua đã bị em rể là Daouid Khan
cướp ngôi. Nhà vua bị lưu đày qua Ý. Sau khi quân Mỹ chiếm
đóng Afghnistan 2001, vua Zahir Shah được mời trở về nước.
Vì tình hình đã thay đổi, và người Mỹ quyết tâm ủng hộ Hamid
Karzai lên cầm quyền nên vua Shah không giữ một vị trí quan
trọng nào, mặc dù, tuy đã già ông cũng còn muốn giúp nước.
Ông có mặt và ủng hộ Hamid Karzai trong lễ tuyên thệ nhậm
chức tổng thống của ông nầy. Vì bệnh, cựu hoàng Shah được
đưa qua chữa trị ở Ấn Độ. Ông qua đời hồi tháng 7 năm 2007
tại
Kabul.
Daouid Khan, người cướp ngôi của vua Zahir Shah cùng với gia
đình bị giết sau khi Cộng Sản lên cầm quyền ở
Afghanistan.
Trong chiến tranh lạnh, Liên Xô bị bao vây, hạm đội Hắc Hải
của Liên Xô, muốn đi chuyển từ Hắc Hải ra Đại Tây Dương
không thể tránh khỏi sự kiểm soát của phe tư bản ở eo biển
Istambul thuộc Thổ Nhĩ Kỳ (phe Mỹ) và eo biển Gibraltar, ở
bán đảo Tây Ban Nha.
Vì vậy, Liên Xô, muốn mở con đường bộ đi xuống vịnh Ba-Tư
thì phải chiếm lĩnh
Afghanistan.
Thực ra, việc làm nầy cũng chỉ lập lại mưu đồ của Nga Hoàng
ngày xưa nhưng chưa thực hiện được mà thôi.
Do Liên Xô đạo diễn, một cuộc cách mạng do đảng Dân Chủ Nhân
Dân thực hiện đã xảy ra ở
Afghanistan.
Đây là một đảng Mác-xít do Liên Xô đẻ ra. Sau khi lật đổ
chính quyền, đảng Cộng Sản
Afghanistan
thành lập nước Cộng Hòa Dân Chủ
Afghanistan.
Vốn là một vùng đất từng có nhiều phân ly, được kết hợp một
cách phức tạp nên ngay trong nội bộ đảng Cộng Sản
Afghanistan
cũng chia nhiều phe phái chống đối nhau kịch liệt. Tuy vẫn
dùng chính sách cai trị tàn ác và đẫm máu như các nước Cộng
Sản khác, việc cai trị của Cộng Sản ở đây cũng không thể nào
ổn định được, cuối cùng, năm 1979, Liên Xô phải đem hơn 150
ngàn quân, cùng 100 ngàn quân của chính phủ Cộng Sản
Afghanistan do Babrac Karman làm tổng bí thư, lo tiểu trừ
các lực lượng chống Cộng ở đây.
Việc nầy được xem như là một cái bẫy sập của Brzezinski, cố
vấn của tổng thống Jimmy Carter. Người Mỹ, qua chính quyền
Pakistan,
đã ngấm ngầm yễm trợ nhiều mặt cho Mujahideen. Mujahideen là
lực lượng chống chính phủ Cộng Sản Afghanistan
và quân đội Liên Xô.
Mujahideen gồm những người Hồi giáo chống Cọng sản vô thần.
Cuộc chiến tranh nầy khiến hơn 5 triệu người
Afghanistan
bỏ quê hương chạy loạn qua
Pakistan,
Iran
và nhiều nước khác.
Sau 10 năm đem quân vào Afghanistan mà không đạt được thắng
lợi, với hơn 15 ngàn binh sĩ bị giết và vì áp lực quốc tế
ngày càng nặng, năm 1988, Liên Xô rút quân đội về nước,
chính phủ thân Cộng ở đây sụp đổ theo. (1)
Hình như Hoa Kỳ đã “bỏ quên” Afghanistan trong vòng 10 năm,
sau khi Liên Xô rút quân về, những phần tử tinh hoa của đất
nước đã tìm mọi cách trốn ra ngoại quốc. Cuối cùng,
Afghanistan
chỉ còn lại những phần tử Mujahideen hiếu chiến và chia rẻ,
chia ra từng phe phái chống đối lẫn nhau.
Vốn dĩ đất nước nầy gồm nhiều phần sa mac và núi non hiểm
trở, sự đa dạng trong sắc tộc và ngôn ngữ khiến dân tộc nầy
khó có thể thống nhứt được, khiến nhiều phe phái chống đối
lẫn nhau, các lãnh chúa địa phương lại nổi lên tranh giành
quyền lực. Nhóm dân đông nhứt là người Pashtun, ít hơn là
các nhóm dân Tajik, Hazara….
Nhóm Taliban thuộc chủng tộc Pashtun chiếm được 95% lãnh
thổ, chiếm
Kabul
năm 1996. Chống lại Taliban chỉ còn nhóm gọi là “Liên Minh
Bắc Afghan.”
Chính quyền Taliban áp dụng chính sách cai trị hà khắc, và
trở thành nơi nương thân cho bọn khủng bố Al Qaeda của bin
Laden. Thủ lãnh Taliban là Mullah Omar là con rể (và nhận
tài trợ) của bin Laden.
Trong bảy năm cầm quyền của Taliban, đa số dân cư nước này
phải sống trong tình trạng hạn chế đến cùng cực các quyền tự
do và sự vi phạm vào quyền sống của họ. Phụ nữ bị cấm làm
việc, trẻ em gái không được đi học. Những người chống đối bị
trừng phạt ngay lập tức. Những người Cộng sản bị tiêu diệt
một cách có hệ thống và trộm cắp bị trừng phạt bằng cách
chặt chân chặt tay. Tuy nhiên, tới năm 2001 Taliban đã hầu
như tiêu diệt được việc trồng cây thuốc phiện tại
Afghanistan.
Ngày 11 tháng 9/ 2001, sau khi cuộc khủng bố diễn ra ở Hoa
Kỳ do Al Qaeda chủ trương chưa đầy 24 giờ đồng hồ, toàn bộ
nước Afghanistan, chính quyền Taliban và Al Qaeda đốt pháo
bông tổ chức mừng thắng lợi.
Nước Mỹ, với gần 30 cơ quan tình báo không biết trước việc
khủng bố sẽ xảy ra?
Trong 8 năm cầm quyền của Bill Clinton, thì ở Afghanistan,
bọn khủng bố Al Qaeda đã thành lập các trại huấn luyện, tổ
chức các nhóm khủng bố, chuẩn bị tấn công nước Mỹ mà tổng
thông Bill Clinton không biết gì hết? Hay tổng thống có biết
mà không quan tâm, hay không cho nó là quan trọng, hay cố ý
làm lơ? Thế rồi, William Bush ngồi ghế tổng thống chưa nóng
chỗ, đã kinh hồn hoảng vía vì cuộc tấn công của Al Qaeda vào
tòa tháp đôi, vào Ngũ Giác Đài?
Thế rồi tổng thống Bush tung ra chiến dịch “Tự Do Bền Vững”
Talian và AlQaeda bị đánh bật ra khỏi Afghanistan một cách
mau lẹ, dễ dàng. Tora Bora là vùng người ta nghi bọn thua
trận sẽ chạy trốn ở đó. Nếu có như thế thì bọn chúng cũng
chẳng sẽ được an toàn vì một người đàn bà Việt Nam, (1) tác
giả loại bom áp nhiệt (Thermobaric Bomb) đã ngăn chận không
cho chúng vào ẩn núp ở pháo đài thiên nhiên kiên cố đó.
Tháng 12 năm 2001, các lãnh tụ của các nhóm đối lập ở
Afghanistan gặp nhau ở Bonn, (Đức) để thành lập một chính
phủ mới cho quốc gia nầy. Ông Hamid Karzai, một người thân
Mỹ, gốc thuộc bộ tộc Pashtun lên cầm quyền. Tiếp đó là các
cuộc bầu cử tổng thống, quốc hội. Hiến pháp được ban hành.
Phụ nữ được hưởng các quyền bầu cử, ứng cử như ở các nước
tiến bộ.
Công cuộc khôi phục và xây dựng của Afghanistan gặp rất
nhiều khó khăn vì sự nghèo đói, thiếu thốn của dân chúng.
Các cơ sở giáo dục và y tế đều bị tàn phá và bỏ bê qua một
thời gian lâu dài. Kinh tế khó khăn, nông nghiệp khôi phục
chậm khiến dân chúng nhiều người đổ xô trồng cây anh túc -
loại cây làm thuốc phiện - để kiếm sống. Thuốc phiện chiếm
hơn 1 phần 3 tổng sản lượng quốc gia.
Do tình trạng đó, bọn Taliban càng ngày càng phục hồi, chiếm
cứ thêm nhiều vùng. Vã lại, sau chiến tranh Irăq, chính phủ
Bush tập trung vào chiến trường nầy, việc hỗ trợ cho chính
phủ Afghanistan càng ngày càng giảm sút làm cho chính quyền
của tổng thống Hamid Karzai thêm yếu đi.
Bây giờ, chính sách của tổng thống Obama tập trung vào
Afghanistan hơn vào Iraq. Sau khi nhậm chức, tổng thống
Obama liền cho điều 17 ngàn quân từ Iraq sang Afghanistan và
mới đẩy, tăng cường thêm 4 ngàn quân nữa. Tổng thống Obama
cũng đưa ra một chiến lược mới, nhằm tấn công Taliban trên
nhiều mặt khác nhau.
Truớc hết, để lực lượng Taliban yếu đi, Mỹ sẽ đối thoại với
các phần tử Taliban “không cực đoan”, kêu gọi về hợp tác với
chính phủ Kabul và chia cho họ một ít quyền hành. Chính sách
đó, bày tỏ sự khôn ngoan và uyển chuyển của tổng thống Mỹ.
Kinh nghiệm cho thấy Liên Xô đã sa lầy ở Afghanistan, chịu
thua trận và rút quân. Từ kinh nghiệm đó, người ta có thể
rút ra một số nhận định như sau:
Chiến tranh ở Afghanistan là chiến tranh du kích, không
thuộc sở trường của quân đội các nước phát triển. Người lính
Mỹ được huấn luyện để tham gia những cuộc chiến tranh qui
ước, trận địa với xe tăng, đại pháo, hải yễm, không yễm...
Họ có thể chiến thắng dễ dàng và mau lẹ trên các mặt trận
lớn, nhưng lại rất khó xoay xở trong các loại chiến tranh du
kích, rình rập, bất ngờ, rất khó phản ứng kịp thời.
Hơn thế nữa, kiểu chiến tranh khủng bố liều mạng hiện nay
như ở Iraq và Afghanidtan là một hình thái chiến tranh du
kích đạt tới đỉnh cao của nó. Du kích quân là những trai gái
còn trẻ, có sức khỏe để có thể lội suối băng đèo tham gia
trận chiến. Chiến tranh khủng bố phức tạp và bất ngờ hơn.
Trẻ con, ông già bà lão, cũng có thể mang vài ba ký lô thuốc
nổ, có thể tự cho nổ hoặc được kích nổ từ xa, khiến người
lính hay viên chức chính quyền không thể đề phòng, ngăn chận
được.
Người ta cũng khó phân biệt ai là lính, ai là dân. Lính là
dân, mà dân cũng là lính.
Du kích là một hình thái chiến tranh thích hợp với nông
thôn, sình lầy và núi non hiểm trở. Do đó, người ta cần có
những loại vũ khí, khí tài, xe cộ thích hợp với loại địa
hình chiến tranh nầy.
Afghanistan là một vùng lãnh thổ gồm nhiều núi non, phần
nhiều là núi đá và sa mạc, có khí hậu lục địa, thiếu nước
ngọt. Quân du kích di chuyển bằng ngựa, mau lẹ và tiện lợi,
trong khi các loại cơ giới cần có đường sá hoặc địa thế
thích hợp, rất khó xoay chuyển trong vùng địa lý như thế
nầy.
Trong tình hình hiện tại, chính phủ Afghanistan có một quân
đội với 80 ngàn người là quá ít, Cảnh Sát cũng có một lực
lượng tương đương và hiện đang phát triển thêm, bên cạnh
binh lính Mỹ và NATO có một lợi thế đặc biệt là xử dụng trực
thăng. Phương cách tấn công bằng trực thăng và trực thăng
vận rất hữu ích và bất ngờ. Tuy nhiên, trực thăng cũng
thường là mục tiêu rất dễ bắn trúng của các loại súng phòng
không và hỏa tiễn.
Tôn giáo đã bị bọn Taliban lợi dụng và tuyên truyền tối đa.
Sự kỳ thị tôn giáo ở Trung Đông có tính truyền thống, trước
hết là giữa những người Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi
giáo. Lòng thù hận tôn giáo nầy bắt nguồn từ các cuộc Thập
Tự Chinh hàng mấy trăm năm trước, và được nuôi dưỡng bằng
xung đột tôn giáo, chính sách cai trị bóc lột của người Tây
phương với các thuộc địa. Các nước Trung Đông ở ngay trên
các mỏ vàng đen, nhưng các nước Tây phương, đặc biệt là Mỹ
đã khai thác và hưởng lợi tối đa trên nguồn lợi thiên nhiên
nầy.
Thêm vào đó, sự hình thành một nước Do Thái, tạo sự xung đột
với người Palestine là một vấn đề giai dẵng không thể giải
quyết được kéo dài hơn nửa thế kỷ nay. Qua đó, người Hồi
giáo luôn luôn đứng về phía người Palestine cùng tôn giáo
với họ.
Bọn quá khích Hồi giáo lợi dụng những người cuồng tín tôn
giáo để khuyến khích, dụ dỗ họ chết vì đạo, tự tử vì đạo để
được ân thưởng của đấng tối cao. Phần thưởng mơ hồ đó lại
rất hấp dẫn những người nghèo khổ và cuồng tín.
Chiến tranh du kích là hình thái của loại chiến tranh nhân
dân, có nghĩa là mọi người đều tham gia trận chiến. Do đó,
cuộc chiến tranh nầy không có trận địa, giới tuyến. Cũng từ
tình cảm chủng tộc, dân tộc và tôn giáo, tình báo nhân dân
rất dễ phát triển có lợi cho phía người đồng chủng, cùng một
đất nước, lịch sử hơn là binh lính viễn chinh. Trong cuộc
chiến tranh nầy, các phương tiện tình báo chiến thuật, chiến
lược hiện đại rất ít tác dụng.
Nguồn cung cấp vũ khí, tài chánh và người cho lực lượng du
kích là yếu tố sinh tử. Người thường được tuyển mộ ngay tại
địa phương. Tuy nhiên, nhiều phong trào du kích bị thất bại
là vì lý do đặc biệt của nó. Ví dụ: Cộng Sản Singapor sở dĩ
bị tiêu diệt dễ dàng là vì Singapor là một thành phố, du
kích không thể lập các căn cứ địa, và nguồn tiếp tế phía
ngoài không thực hiện được. Du kích Mã Lai, tuy có địa thế
thuận lợi là nhờ rừng rậm, nhưng cũngvì không có đường tiếp
tế từ ngoài vào nên du kích Mã Lai cũng không phát triển,
đến khi Trung Cộng bắt tay với Mỹ thì hai lãnh tụ du kích Mã
Lai là Trần Bình (gốc Tầu) và Rashid (gốc Mã Lai) phải xin
hợp tác với chính phủ Mã Lai. Vì ở giữa đảo, không đường
tiếp tế nên du kích Huk ở Phi luật Tân cũng chung số phận.
Ở Việt Nam, và ở miền Nam Việt Nam, Trung Cộng và Liên Xô là
những nguồn tiếp tế lớn của Việt Cộng, lại thêm Campuchia
làm hành lang cho quân Việt Cộng Bắc Việt tiếp tế và xâm
nhập, nên quân đội miền Nam không thể chống cự lâu dài với
quân Việt Cộng.
Trong tình hình Afghanistan hiện nay, nguồn tiếp liệu vũ khí
đạn dược cho lực lượng Taliban là từ đâu tới?
Nguồn tiếp tế đó phải là từ các nước chung quanh
Afghanistan. Phía đông nam của Afghanistan là một vùng biên
giới rất dài với Pakistan, gần 2,500 Km. Phía tây là Iran.
Phía bắc là các nước Trung Á, lãnh địa cũ của Liên Xô như
Turkmenistan, Uzbekistan, Tajikistan và một khu vực nhỏ cực
đông có chung biên giới với Trung Quốc.
Hiện nay, Taliban đang ẩn núp vùng biên giới Afghanistan và
Pakistan. Đây là vùng núi non hiểm trở, phần đông là các bộ
lạc với những lãnh chúa nhiều quyền uy, che chở cho Taliban
vì quyền lợi. Vùng biên giới mà lằn ranh không định rõ nên
dễ bị nhầm lẫn. Trước đây, mặc dù tổng thống Pakistan đã
nhận hàng tỷ mỹ kim của Mỹ, nhưng tính hình không tiến triển
chút nào. Trong khi đó, các viên chức quân sự Pakistan cũng
bao che cho Taliban. Theo Robert Burns, phái viên hãng AP
thì “Các quan chức quân sự Mỹ đã chỉ ra bằng chứng mới cho
thấy quân đội Pakistan, vốn có những quan hệ từ lâu với
phong trào Taliban, đã cố tình làm ngơ cho những cuộc xâm
nhập của tổ chức nầy.” Burns cũng nói thêm: “Một sĩ quan
tình báo quân sự Mỹ đã nói với các phóng viên, số lượng
những cuộc tấn công của bọn phiến loạn đã tăng 300 phần trăm
từ tháng 9 năm 2006, khi chính phủ Pakistan đưa thỏa thuận
hòa bình với các lãnh đạo bộ tộc vào thực hiện ở vùng miền
bắc
Waziristan, dọc theo biên giới phía đông của Afghanistan.”
Nên nhớ rằng Al Qaeda không thiếu tiền để mua chuộc lãnh
chúa các bộ tộc vùng nầy cũng như các quan chức quân sự có
trách nhiệm trên vùng biên giới giữa hai nước.
Tình hình căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Iran cũng không thuận
tiện cho việc Iran ngăn chận hoạt động của Taliban trên vùng
biên giới phía tây, mặc dù, ngay từ đầu, Iran đã không ủng
hộ Taliban và rất ngại nguồn ma túy từ Afghanistan đổ vào
Iran.
Trên phía bắc, mặc dù các quốc gia Trung Á không còn ở trong
liên bang Xô Viết cũ, nhưng nếu như mối quan hệ giữa các
nước nầy với Nga còn sâu đậm thì họ sẽ đứng về phía Nga khi
có mâu thuẫn với Mỹ. Tuy Nga không ủng hộ Taliban nhưng liệu
Nga có thể quên mối hận Mỹ đã ủng hộ cho phe Mujahuideen
đánh bại Nga trong cuộc chiến tranh trước?
Afghanistan là một quốc gia lạc hậu, mọi thứ đều không hoặc
chưa phát triển như hệ thống giao thông, đường bộ, đường xe
lửa, v.v… Hệ thống giao thông lạc hậu thì thương nghiệp khó
phát triển, làm sao đời sống được nâng cao? Dân tộc
Afghanistan thuộc vùng văn hóa chăn nuôi: dê, bò sữa, nhiều
hơn nông nghiệp. Đất đai phần nhiều là sa mạc và núi non
hiểm trở nên lúa mì được trồng rất ít. Afghnistan có những
trường đại học khá cổ, nhưng trong thời kỳ Taliban cai trị,
việc giáo dục là không cần thiết nên nó càng ngày càng lụn
bại. Ngành y tế cũng rất lạc hậu, khi Taliban cai trị, hạn
chế tiếp xúc với tây phuơng nên nước nầy thiếu nhiều cơ sở y
tế hiện đại. Các địa phương, các vùng xa xôi núi non hiểm
trở, thiếu vắng các y tế cơ sở và y tá.
Hiện nay, việc giáo dục và y tế đang được chấn chỉnh, xây
dựng, phát triển, nhưng những công việc đó cần có thời gian
và nhân sự có đủ khả năng.
Đây là một cuộc chiến tranh nhân dân, với dân số 32 triệu
người, rộng gấp đôi lãnh thổ Việt Nam, 647 ngàn Km2, yếu tố
nhân dân là rất quan trọng, sinh tử. Phe nào nắm được dân,
được dân chúng ủng hộ thì có hy vọng thắng lợi.
Trước hết, việc an ninh của người dân là ưu tiên. Một người
dân thường, khi đứng về phe nầy hoặc phe kia là vì muốn bảo
vệ tính mạng của họ. Trong những vùng tranh chấp, ban ngày,
phe địch rút lui, núp lén đâu đó, trong các hang động, mật
khu chẳng hạn. Đêm tối, chúng sẽ bung ra hoạt động. Trước
hết chúng khủng bố, giết chóc, trừng trị những người nào hợp
tác với chính quyền. Do đó, người dân sợ hãi, nằm im, thúc
thủ.
Thứ nữa, bọn lãnh đạo, chỉ huy du kích thường che dấu bộ mặt
độc ác của chúng dưới những bình phong tốt đẹp, giả dối mà
người dân rất dễ bị lầm lạc. Chẳng hạn, bọn Taliban khích
động tinh thần tôn giáo của người theo đạo Hồi, khuyến khích
lòng cuồng tín, cũng như sự mâu thuẫn giữa người Tây phương,
người theo đạo Thiên Chúa với người Hồi; giữa người Do Thái,
quốc gia Do Thái, xung đột với Palestine mà người Palestine
theo Hồi giáo. Điều đó, khá giống với Việt Cộng ngày trước
núp dưới chiêu bài dân tộc, tinh thần chống Pháp thực dân đô
hộ Việt Nam gần 100 năm.
Đặc biệt, đối với người dân Afghanistan ở những vùng xa xôi
hẻo lánh, tinh thần bộ tộc còn mạnh. Họ giữ lòng trung thành
với lãnh chúa hơn là ủng hộ chính phủ dân chủ trung ương.
Họ vâng lời các lãnh chúa hơn là chấp hành luật pháp
chính phủ. Đó là những trở ngại rất lớn khiến nhiều khi
chính phủ trung ương, Kabul cũng như Islamabad đành chịu bó
tay. Vì vậy, chính phủ trung ương phải dàn hòa và bắt tay
với các lãnh chúa địa phương.
Cuộc chiến tranh người Mỹ phải đối đầu hiện nay là một cuộc
chiến tranh toàn diện, có nghĩa là ngoài lãnh vực quân sự,
an ninh, còn có các lãnh vực kinh tế (công nông nghiệp, chăn
nuôi, giao thông, thương mại,v.v…) giáo dục và y tế…
Như cách nói ngày trước ở Việt Nam, phải tát nước và bằt con
cá (du kích).
Các nước trong thế giới tư bản, dĩ nhiên, có rất nhiều
chuyên gia về chiến tranh chống du kích. Nổi tiếng nhứt là
Sir Robert Thomson, người Anh, đã từng giúp chính phủ Mã Lai
và Philippine diệt trừ du kích ở các nước nầy.
Hiện nay, những chuyên viên chống du kích không thiếu gì ở
các đại học Mỹ. Tuy nhiên, không giống như Sir Robert
Thomson ngày trước, chưa thấy ai ra mặt để tham gia trưc
tiếp và tại chỗ để góp phần diệt trừ Taliban ở Afghanistan.
Ấy là chưa kể, người Mỹ có nhiều hạng khác nhau. Nhiều người
Mỹ rất hãnh tiến. Nếu họ là cấp chỉ huy các cuộc chiến
tranh, như kiểu Rumsfeld hoặc Dick Cheney ở Iraq thì việc
thu phục nhân tâm khó lắm. Thu phục nhân tâm là yếu tố bắt
buộc trong cuộc chiến tranh nhân dân.
Cuộc chiến tranh nầy không hy vọng chấm dứt sớm được. Nếu
ngăn chận được các nguồn tiếp liệu từ các nước chung quanh
đưa vào cho Afghanistan như Pakistan, Iran, các nước Nam Á
thì cũng phải năm ba năm mới thành công hoàn toàn. Còn nếu
các nước chung quanh còn muốn “đá giò lái” Hoa Kỳ, hoặc vừa
ăn tiền vừa “đá giò lái” như Pakistan đã làm thì 5 năm, 10
năm nữa, hết vài ba đời tổng thống Mỹ, tình hình xem ra cũng
chưa xong. Điều đó, làm cho chúng ta nhớ, vì nguồn tiếp liệu
và hành lang xâm nhập từ bên ngoài, tháng 3 năm 1970, quân
Mỹ, sau đó là quân đội Việt Nam Cộng Hòa tấn công vào
Campuchia, lật đổ chế độ Sihanouk.
Một điều đáng trách cứ. Chính các nước Tây Âu, với chính
sách thực dân, từng bóc lột và hưởng nhiều quyền lợi ở
Afghnistan và nhiều nước ở Trung Đông, nhắm bộ không tích
cực lắm trong việc góp tay với Mỹ để tiêu diệt Taliban. “Khi
vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai”, ngoài
một mình nước Mỹ.
hoànglonghải
(1) Tháng 12 năm 1978, Việt Cộng vượt biên giới tấn công
Kampuchia. Ngày 7 tháng 1 năm 1979, Việt Cộng chiếm thủ dô
Phnom pênh. Tháng 2 năm nầy (sau Việt Cọng 1 tháng), Liên
Xô đem quân vào Á Phủ Hãn. Năm 1988, Liên Xô rút quân khỏi
Á Phủ Hãn thì năm sau, 1799, Việt Cộng rút quân khỏi
Kampuchia. Thầy trò tấn thối rất hòa nhịp.
(2)
Dương Nguyệt Ánh (1960
– ) là một phụ nữ
người Mỹ
gốc Việt với vai trò lớn trong
Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ. Bà sinh ở Việt Nam, cùng gia đình
tỵ nạn sang Mỹ năm
1975
khi chính thể
Việt Nam
Cộng hoà sụp đổ.
Dương Nguyệt Ánh tốt nghiệp
Đại học
Maryland ngành
kỹ sư hóa
học,
khoa học
điện toán và
quốc gia
hành chính. Sau đó bà làm việc cho Bộ Quốc phòng
Hoa Kỳ với chức Tổng giám đốc Khoa học và Kỹ thuật của
Trung tâm
Vũ khí Hải quân Hoa Kỳ (Naval Surface Warfare
Center) tại
Maryland,
tiểu ban chất nổ với nhiều giải thưởng. Bà từng là người đại
diện cho Hoa Kỳ trong
Liên minh
Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO). Bà cũng là
tác giả của
bom áp
nhiệt (thermobaric bomb).
Bà nhận giải Dr. Arthur Bisson Award for Naval Technology
Achievement vào năm 2000, giải Civilian Meritorious Medal
năm 2001 và giải Service to America Medal for National
Security năm 2007.
Dương Nguyệt Ánh có lập trường chống Cộng sản rõ rệt và
thường phát biểu quan điểm chống đối của bà đối với chính
quyền Cộng Sản Việt Nam.
Dương Nguyệt Ánh là dòng dõi cụ nghè
Vân Đình
Dương Khuê,
là cháu ruột của nhạc sĩ
Dương Thiệu
Tước.
(theo Wikipedia)
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|