Viễn ảnh bauxite
Việt Nam
qua sự hình thành chủ nghĩa
thực dân Trung quốc tại Congo
-
PSN -
5.05.2009 | Trần Trung Đạo
Peking power: A Chinese supervisor cajoles local workers
as they dig a trench in Kabwe, Zambia |
Những tuổi thơ trong mỏ quặng
Em Adon Kalenga làm việc cho một hãng thu mua quặng. Công
việc của em mỗi ngày là vác những bao quặng nặng gần 100 kí
lô từ những hầm sâu, ẩm thấp đi rửa sạch và vác trở về cho
chủ hãng thầu. Như em tả, cả thân thể em đều cảm thấy đau
nhức và cả mười ngón tay trầy trụa sau một ngày dài rửa
quặng. Em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi. Trong lúc hầu hết
thiếu niên cùng tuổi em trên thế giới đang đến trường thì em
phải làm việc không ngưng nghỉ suốt bảy ngày mỗi tuần. Em
không đủ tiền để đóng học phí, trung bình khoảng 6 Dollar
một tháng. Em không có nhà ở. Đêm về, em ngủ nhiều nơi trên
đường phố và cũng có khi tìm đến tạm trú trong các trại mồ
côi. Cha của Adon chết khi em mới 9 tuổi. Mẹ em sau đó cũng
bỏ nhà ra đi. Bà con thân thích không ai nhận nuôi dưỡng em
khi chính họ còn không đủ sức nuôi con của họ. Em trở thành
đứa bé mồ côi. Sau khi lang thang bụi đời một thời gian, các
bạn của em gợi ý nên đi đào quặng bán lại cho các công ty
thu mua Trung Quốc. Thế là em cùng các bạn đi đào quặng để
kiếm sống. Trong năm đầu tiên em có lần suýt chết khi trời
mưa lớn làm đất sụp thành bùn đè lên những người đang làm
dưới hầm sâu. Bốn người bạn của em, Fabrice, Jean, Patient
và Patrick đều bị bùn chôn sống trong tai nạn đó. Em may mắn
sống sót nhưng thương tích đầy mình. Adon nói "Cuộc sống của
em rất khó khăn. Em không hiểu tại sao."
Một người bạn của Adon tên là Carlito Muamba, cũng chỉ mới
15 tuổi nhưng mỗi ngày phải chui vào những hố sâu trong lòng
đất để đào bằng tay và chiếc xẻng nhỏ. Phía trên hầm không
có gì che, mỗi khi đào, đất và bụi rớt xuống phủ kín chiếc
đầu không tóc của em. Áo quần em biến thành màu đỏ nhưng em
vẫn tiếp tục đào. Mồ hôi trộn lẫn vào bụi đỏ. Không có thang
để trèo. Mỗi khi muốn vào hay ra khỏi hầm, em phải bò bằng
chân tay. Và đến cuối ngày em cũng được chủ thầu phát một số
tiền tương đương với 3 Dollar. Khi được hỏi lý do em làm
việc cực nhọc, Carlito trả lời "em cần tiền để mua thức ăn."
Rất đông các bạn cùng tuổi em đi đào quặng.
Mặc dù trên giấy tờ Congo có ký vào hiệp ước quốc tế nghiêm cấm lao động trẻ em vị thành
niên, trong thực tế chẳng bao giờ được áp dụng. Ở châu Phi
giá trị của mạng sống con người rất rẻ. Nhiều chuyện còn
quan trọng hơn như việc hàng trăm người trong đó có bốn trẻ
em bạn của Adon, bị đất sụp chôn sống cũng chẳng được ai
quan tâm nói chi là chuyện trẻ em đi làm. Bà Wangari
Maathai, người phụ nữ Phi châu đầu tiên được trao giảo Nobel
Hòa bình năm 2004, quy trách nhiệm không chỉ lên chính phủ
Congo mà cả các công ty đầu tư cũng đã vi phạm luật lạm dụng
lao động trẻ em: "Tại những quốc gia, nơi nhân quyền không
được tôn trọng và người dân không thể buộc chính phủ để chịu
trách nhiệm thì chính phủ của các công ty đầu tư phải đề ra
những điều kiện lao động." Chính phủ mà bà muốn nói là Trung
Quốc và các công ty thu mua quặng cũng là các công ty Trung
Quốc tại Congo, nhưng phía chính phủ Trung Quốc bao giờ họ
cũng trả lời "đó là vấn đề của Congo, không liên quan gì đến
công ty hay chính phủ Trung Quốc."
Adon và Carlito là hai trong số 67 ngàn người Congo đang
sống bằng nghề đào quặng tại tỉnh Katanga, phía nam Congo,
và câu chuyện cảm động về hai em Adon Carlito do một nhóm
phóng viên của hãng Bloomberg thực hiện.
Cuối tháng Tám 2008 trên báo
Daily Mail ở
Anh, nhà báo Peter Hitchens trong phóng sự "Làm thế nào
Trung Quốc đã dựng nên một đế quốc nô lệ mới tại Phi Châu" (How
China has created a new slave empire in Africa),
đã mô tả đời sống của những người dân Congo mà tác giả gọi
là "nghèo khổ, vô vọng, giận dữ" khi phải chui vào những hố
sâu 25 mét trong những mỏ quặng bỏ hoang để tìm những mảnh
quặng đồng còn sót lại, rửa sạch từ những vũng nước dơ và
chất thành những kiện nặng tới hàng trăm kí-lô trên những
chiếc xe đạp già nua để đem bán cho các thương gia Trung
Quốc đang cần nguyên liệu. Nhiều trong số họ đã chết khi
những hầm đất sụp hay bị thương nhưng không có thuốc men.
Phần lớn đều có con nhỏ. Nhưng nếu họ may mắn sống sót và
sau một ngày thu nhặt quặng thành công, họ kiếm được 3
Dollar để nuôi sống bản thân và gia đình trong những thôn
xóm tồi tàn đầy bịnh tật. Và cũng theo phóng sự của Peter
Hitchens, đời sống một người dân Congo hôm nay không khác gì
của ông bà họ ở thế kỷ 18, nếu có khác chăng họ phải làm
việc nhiều lần khổ hơn trong một điều kiện cũng tệ hại hơn
nhiều.
Dù sao, công việc đào quặng đó cũng chỉ là một phần của các
công ty thu mua tư doanh Trung Quốc, thỏa hiệp kinh tế được
ký kết giữa chính phủ Congo và Trung Quốc đầu năm 2008 lớn
hơn nhiều. Hiệp ước kinh tế trị giá hàng chục tỉ Dollar, có
ảnh hưởng gần như hầu hết các mặt trong đời sống xã hội tại
Congo không phải chỉ trong vòng 10 năm tới mà trong một thời
gian rất dài và cũng không chỉ ảnh hưởng về mặt kinh tế mà
cả xã hội, văn hóa, truyền thống.
Để cảm thông với số phận Congo, có lẽ nên đi ngược dòng lịch sử tìm hiểu thêm về vùng đất giàu tài
nguyên nhất nhưng là một đất nước chịu đựng nhiều thiệt thòi
và bất hạnh nhất trên lục địa Phi châu.
Tội ác diệt chủng bị lãng quên
Cộng hòa Dân chủ Congo (Democratic Republic of the Congo,
thời Mobutu được gọi là Zaire, thường dễ bị lầm lẫn với Cộng
hòa Congo hay Congo-Brazzaville) là một quốc gia vùng trung
Phi, có diện tích 2.3 triệu kilô mét vuông và dân số 64
triệu theo thống kê 2008, thủ đô là Kinshasa.
Congo
có nhiều nguồn tài nguyên phong phú như đồng, vàng, kim
cương, cao su, cobalt nhưng lợi tức đầu người hàng năm chỉ
có 140 Dollar.
Congo
tập hợp của khoảng 200 sắc dân. Về căn bản,
Congo
vẫn là một quốc gia nông nghiệp nhưng từ 1985 việc đô thị
hóa ngày càng gia tăng. Về mặt chính trị, chính phủ
Congo
hiện nay chi phối bởi hiến pháp 2006. Để đạt được một xã hội
tạm yên như hiện nay, nhân dân Congo cũng đã phải trả một giá bằng máu của nhiều triệu dân
Congo.
Không giống chế độ thực dân tại các nước khác được mở đầu
bằng võ trang xâm lược, chế độ thực dân Bỉ có mặt tại Congo
được diễn ra dưới hình thức mua bán, trao đổi giữa Henry M.
Stanley, đặc sứ của vua Bỉ Leopold đệ nhị và các lãnh đạo
Congo địa phương sống dọc sông Congo. Cuối năm 1884,
Stanley
đã ký 450 hiệp ước thay mặt cho vua Leopold. Kết quả, Congo
trở thành một nước có tên gọi mỉa mai "Nước Congo Tự do"
dưới quyền sở hữu cá nhân của vua Leopold với thủ đô đặt tại
Boma, một quận nằm bên bờ sông Congo.
Dưới sự bóc lột sức lao động tàn nhẫn để phục vụ cho túi
tham không đáy của vua Bỉ Leopold đệ nhị, người dân Congo
trải qua gần một thế kỷ trong địa ngục trần gian. Nhân loại
nhắc nhiều về Holocaust, diệt chủng Armenian nhưng so với
tội ác của Bỉ tại Congo, số người Do Thái bị Hitler giết hay
Armenian bị Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt còn thấp hơn nhiều. Khoảng
một nửa dân số Congo thời bấy giờ, 10 đến 15 triệu dân, đã
bị quân đội và tay sai dưới quyền của vua Leopold tàn sát.
Mặc dù chưa bao giờ đặt chân đến
Congo,
đất nước đã là phần tài sản của ông ta. Vua Leopold đệ nhị
thành lập một hệ thống lao động khổ sai trong đó con người
đơn giản chỉ là một dụng cụ sản xuất. Những năm giá cao su
lên cao, Leopold chỉ thị cho phu đồn điền phải tăng giờ làm
việc. Những ai không làm việc được bị hành hạ bằng nhiều
cách như đánh roi, tra tấn và giết chết. Nhiều cuộc nổi dậy
của dân chúng đã bị quân đội riêng của vua Leopold được gọi
là Lực lượng Công cộng (Force Publicque) tàn sát không
thương tiếc. Quân lính trong Lực lượng Công cộng có thông lệ
mỗi khi giết một kẻ chống đối, họ chặt một cánh tay mang về
trình lên cấp chỉ huy để làm chứng cho số lượng đạn dược đã
dùng. Nhiều lính của Leopold thích đi săn khỉ, để giải thích
cho số đạn đã bắn ra, chúng đã chặt tay thường dân để đem về
trình thượng cấp. Việc chặt tay không chỉ bị xảy ra cho
người lớn mà cả trẻ em vô tội. Hình phạt chặt tay này còn
tồn tại đến hôm nay tai
Sierra Leone là vết tích của chế độ thực dân mà vua Bỉ Leopold đã để lại tại
châu Phi. Mặc dù được các nước thực dân châu Âu cố tình che
đậy và dìm vào quên lãng, tội ác diệt chủng của vua Leopold
đã được ghi lại trong một số tác phẩm, tiểu thuyết, hồi ký
và sử học, trong đó có sử liệu
Tội ác tại Congo (The crime of the Congo) của Arthur Conan
Doyle xuất bản tại London ngay trong năm Leopold chết, 1909,
và Bóng ma của vua
Leopold (King Leopold' Ghost) của sử gia Adam
Hochschild được xuất bản năm 1999.
Congo độc lập trong nhiễu nhương, phân hóa (1960 - 1965)
Trước áp lực dư luận quốc tế và cả quốc hội Bỉ, sau 1908,
Congo
bị sáp nhập vào Bỉ lần nữa. Quốc gia gọi là "Nước Congo Tự
do" do Leopold lập ra dần dần bị giải tán nhưng điều kiện
sống của người dân
Congo
không phải nhờ đó mà tốt đẹp hơn. Dân
Congo
vẫn một nước thuộc địa, không có một chút quyền hành gì
trong bộ máy hành chính từ cấp trung ương đến địa phương.
Đến 1955, ngọn lửa đòi độc lập được nhen nhúm từ các nhà ái
quốc Phi châu lan rộng đến nhiều nước. Tại
Congo
nổi bật nhất là Patrice Emery Lumumba. Sau lời hứa trao trả
độc lập dành cho các quốc gia thuộc địa Pháp của Tổng thống
Pháp Charles de Gaulle nhân chuyến viếng thăm Trung
Congo (nay thuộc
Congo) đã kích thích việc đòi hỏi tự do của quốc gia trong lục địa Phi
châu. Cuối cùng, Bỉ đã quyết định trao trả độc lập cho
Congo
vào ngày 30 tháng 6 1960. Patrice Emery Lumumba, 35 tuổi,
trở thành Thủ tướng đầu tiên. Chính sách ngu dân và cô lập
Congo
với thế giới bên ngoài của vua Leopold và thực dân Bỉ để lại
một hậu quả vô cùng trầm trọng về mọi mặt trong đời sống xã
hội
Congo
sau khi được trao trả độc lập. Bản thân Thủ tướng Lumumba
cũng chỉ học được bốn năm tiểu học và một năm huấn luyện làm
nhân viên bưu chính. Dù ít học, Lumumba là một người rất
thông minh, có lòng yêu nước sâu sắc, có tài ăn nói và giàu
năng lực làm việc. Năm 1958, Lumumba và một nhóm thanh niên
có học thành lập Phong trào Quốc gia Congo (Movement Natioal
Cogolais, MNC) và là tổ chức chính trị có nhiều ảnh hưởng
trong quần chúng nhất lại Congo lúc bấy giờ. Giành được độc
lập là một chuyện nhưng điều hành đất nước lại là chuyện
khác. Vào 1960, cả nước Congo chỉ có 30 thanh niên là tốt
nghiệp đại học và 136 học sinh hoàn tất chương trình trung
học. Congo không có ngay cả một bác sĩ, không có thầy hay cô giáo và sĩ quan
quân đội. Cấp cao nhất trong quân đội mà một người
Congo
được thăng là thượng sĩ và người đó không ai khác hơn là
Joseph Mobutu, nhà độc tài sắp xuất hiện trong lịch sử
Congo.
Để thay thế quân đội Bỉ, Lumumba phong Mobutu lên chức tham
mưu trưởng của quân đội
Congo.
Trước một đất nước có chủ quyền mà coi như vô chủ với hơn 50
phe nhóm chính trị được hình thành trong giai đoạn chuyển
tiếp, Thủ tướng Lumumba vốn không có thiện cảm với các đế
quốc thực dân, kể cả Mỹ, đã trở nên cực đoan trong cách giải
quyết những xung đột nội bộ Congo. Ông kêu gọi Liên Hiệp
Quốc giúp ổn định trật tự tại
Congo. Sau khi quân đội Liên Hiệp Quốc đổ bộ xuống
Congo,
Lumumba còn đi xa hơn khi đòi trục xuất toàn bộ quân đội Bỉ
chưa rút hết khỏi
Congo,
nếu không ông ta sẽ cầu cứu Liên-Xô. Trong thời kỳ chiến
tranh lạnh đang ở cao điểm, việc Lumumba cầu cứu Liên-Xô là
một thách thức lớn đối với Mỹ. Sự có mặt của Liên-Xô ngay
trong trái tim của Phi châu đối với Mỹ là một sự kiện không
thể chấp nhận được. Tổng thống Eisenhower không muốn thấy
một
Cuba
tại Phi châu nên đã quyết định loại trừ Lumumba bằng mọi
cách, kể cả ám sát nếu cần. Mỹ mua chuộc được Joseph Mobutu,
một phụ tá tin cẩn Lumumba và cũng là đương kim tổng tham
mưu trưởng quân đội để thực hiện cuộc đảo chánh không đổ
máu. Một trong những hành động đầu tiên của Mobutu là trục
xuất các nhà ngoại giao Liên-Xô và các quốc gia thuộc khối
cộng sản ra khỏi
Congo.
Lumumba bị bắt, bị tù và cuối cùng bị phe
Katanga
thù địch thân Bỉ giết chết lúc 10 sáng 17 tháng Giêng 1961.
Việc thiếu tin tưởng vào Tây phương và Mỹ đã dẫn Lumumba đến
những quyết định sai lầm, không thực tế trong thời gian ngắn
lãnh đạo Congo và bản thân Lumumba cũng chịu trách nhiệm một
phần không nhỏ cho tình trạng xáo trộn của Congo, tuy nhiên,
không thể phủ nhận tinh thần yêu nước, lập trường chống thực
dân kiên quyết mà ông đã theo đuổi từ những ngày còn nhỏ.
Sau khi Lumumba bị giết hàng trăm cuộc biểu tình chống Bỉ
được phát động khắp thế giới. Patrice Emery Lumumba đã trở
thành biểu tượng cho khát vọng độc lập của nhân dân
Congo
và nhiều chính đảng tại Congo hiện nay mang tên ông. Từ đó cho đến ngày 17 tháng 5 1997,
Congo
nằm trong tay của nhà độc tài tham nhũng Joseph Mobutu.
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga (1965 - 1997)
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga hay viết gọn là
Mobutu Sese Seko, với tên trong khai sinh là Joseph Mobutu
sinh ngày 14 tháng 10 1930 tại Lisala, một tỉnh Congo thuộc
Bỉ. Cha mất sớm nhưng Mobutu đã xoay xở để theo học trong
các trường đạo cho đến khi bị trục xuất vì lý do hạnh kiểm.
Mobutu đăng lính. Với trình độ học vấn sẳn có và nói thạo
tiếng Pháp, trong quân đội Mobutu được huấn luyện nghề thư
ký kế toán tại tổng hành dinh của Lực lượng Công cộng.
Mobutu được phong tới chức thượng sĩ, chức vụ cao nhất mà
một người lính Congo được phong. Sau khi trở về đời sống dân
sự Mobutu đi làm báo. Với tính thông minh, lanh lợi, Mobutu
quen biết nhiều người, nhiều phe nhóm trong đó có cả nhà
cách mạng chống thực dân Patric Emery Lumumba lẫn các nhân
viên tình báo CIA. Mặc dù chưa bao giờ trực tiếp tham gia
chống thực dân hay các phong trào cách mạng giành độc lập
Mobutu đã vận dụng sự quen biết để tạo một vị trí chính trị
lẫn quân sự vững chắc cho mình trong giai đoạn chuyển tiếp
tranh tối tranh sáng tại Congo.
Sau khi chính thức nắm toàn quyền lãnh đạo Congo từ 1965,
Mobutu lần lượt loại bỏ ra ngoài vòng pháp luật tất cả đảng
phái, ngoài trừ Phong trào Nhân dân Cách mạng (Movement
Populaire de la Revolution, MPR) do chính ông ta lập ra.
Trong suốt 32 năm cai trị Congo, Mobutu dành dụm cho mình
một tài sản được ước tính khoảng 5 tỉ Dollar trên sự nghèo
đói cùng cực của đại đa số dân Congo. Con số 5 tỉ này tương
đương với toàn bộ số nợ mà Congo phải vay mượn thế giới.
Những lời tung hô lãnh tụ đầy tính nịnh bợ, các khẩu hiệu
tuyên truyền dối trá nhưng rất êm tai Mobutu nghe được trong
những dịp viếng thăm các quốc gia cộng sản như Trung Quốc,
Bắc Hàn, Rumania, hấp dẫn y đến nỗi khi về nước một trong
việc làm đầu tiên của Mobutu không phải xây cầu, đắp đập mà
là hình thành ngay một tư tưởng Mobutu. Mobutu ra lịnh thay
đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10 năm
1971 thay cả tên nước. Báo chí quốc doanh ca tụng Mobutu như
một bậc tiên tri. Mobutu, người bị tố cáo đã giao nộp
Lumumba cho phe Katanga giết để tránh tiếng sát nhân, phục
hồi danh dự cho Lumumba. Y làm việc này không phải phát xuất
từ sự kính phục lòng yêu nước của Lumumba, mà để giải tỏa dư
luận, và đồng thời để tự phong mình là nhân vật số hai trong
lịch sử Congo, sau Lumumba, có công giành độc lập.
Bạn thân nhất của Mobutu là nhà độc tài Nicholas Ceauşescu
của Romania. Quan hệ của hai nhà độc tài không chỉ giới hạn
ở cấp đảng, nhà nước mà cả cá tính thích sùng bái cá nhân
cùng cực. Mobutu cũng thán phục chính cá tính độc lập của
Nicholas Ceauşescu đối với Liên-Xô. Sự thân thiết của giữa
Mobutu và Nicholas Ceauşescu phổ biến đến mức trong các câu
chuyện trào phúng tại Congo, Mobutu Sese Seko được gọi thành
Mobutu Sesesescu. Tháng 11 1996, Laurent-Desire Kabila với
sự yểm trợ của Burundi, Uganda, Rwanda, đã phát động chiến
tranh được gọi là chiến tranh Congo thứ nhất nhằm lật đổ
Mobutu. Mobutu đang bị bịnh ung thư tiền liệt tuyến vào giai
đoạn cuối, không chống trả nổi, phải lưu đày sang Morocco và
chết một thời gian ngắn sau đó.
Laurent-Desire Kabila (1997 - 2001)
Một trong những kẻ thù thuộc loại kỳ cựu của Mobutu là
Laurent-Desire Kabila, một lãnh tụ cộng sản hoạt động từ
thời Lumumba. Trong thời gian Lumumba làm Thủ tướng,
Laurent-Desire Kabila là một lãnh tụ thanh niên có trình độ
đại học của một đảng nhỏ liên minh với Phong trào Quốc gia
Congo của Lumumba trong quốc hội. Khi Lumumba bị giết,
Kabila trốn vào rừng và thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng
Congo. Với sự yểm trợ võ khí của Trung Quốc, Kabila dù chỉ
mới 24 tuổi, tuyên bố thành lập chính phủ ly khai theo chế
độ cộng sản tại tỉnh Nam Kivu, phía tây hồ Tanganyika.
Năm 1965, Kabila liên kết với một trong những người cộng sản
nhiều huyền thoại nhất của Mỹ châu là Che Guevara. Che nhận
xét, trong số những người ông ta gặp, Kabila là ngưòi có
nhiều điều kiện để lãnh đạo quần chúng. Kabila có tương lai
vì tuổi còn rất trẻ và từng theo học triết học tại đại học ở
Pháp. Tuy nhiên, cách sống xa hoa, chìm đắm trong rượu chè
và chỉ biết quanh quẩn với gái của lãnh tụ cộng sản Kabila
đã làm Che thất vọng và cuối cùng bỏ đi vào cuối năm 1965.
Nhà nước cộng sản nhỏ nhoi nầy bị Mobutu càn quét và tan vỡ.
Báo chí và cả Mobutu đều nghĩ rằng Kabila đã chết, nhưng
không, ba mươi năm sau, Kabila lại xuất hiện và lần nầy lãnh
đạo một liên minh quân sự của nhiều nước dưới danh nghĩa
Liên minh Các Lực lượng Dân chủ Giải phóng Congo (Alliance
des Forces Democratiques pour la Liberation du Congo-Zaire).
Quân đội của liên minh đánh bại quân đội của Mobutu chỉ
trong vòng vài tháng, và Kabila chiếm thủ đô Kinshasa ngày
20 tháng 5 năm 1997.
Sau khi đánh bại Mobutu, Kabila tự phong là chủ tịch nước
đứng đầu một chính phủ cứu nguy dân tộc và đổi tên nước là
Cộng hòa Dân chủ Congo như đang được gọi hiên nay. Cuộc đời
30 năm sống trong bí mật của Laurent-Desire Kabila cho đến
nay cũng còn nhiều huyền bí vì khi còn sống Kabila thường
đánh trống lảng khi được hỏi về quá khứ của mình. Tuy nhiên
theo các phóng viên điều tra trong đó có ABC News, lãnh tụ
cộng sản Kabila và phe phiến loạn của ông đã sống bằng việc
giết voi để lấy ngà, đào mỏ, buôn vàng, kim cương qua ngã
Burundi, một nước nhỏ trên biên giới phía đông của Congo và
cả bắt cóc người để tống tiền, trong đó ít nhất một người là
Mỹ. Nhân dân Congo tránh vỏ dưa gặp phải vỏ dừa vì tham vọng
của nhà độc tài Maoist Laurent-Desire Kabila không kém gì
của Mobutu. Các nhóm dân chủ thật sự đều rút ra khỏi liên
minh hay bị loại bỏ. Laurent-Desire Kabila bị một cận vệ ám
sát ngày 18 tháng Giêng 2001. Con trai Laurent-Desire Kabila
là Joseph Kabima được trao quyền Tổng thống thay cha.
Joseph Kabila và quan hệ Trung Quốc (từ 2001)
Joseph Kabila lên kế vị cha nắm chức vụ Tổng thống Cộng hòa
Dân chủ Congo khi chỉ mới 29 tuổi. Tuổi thơ ấu của ông ta
cũng có nhiều huyền bí. Joseph Kabila sinh khoảng tháng 4
năm 1971 tại một nơi nào đó hoặc miền đông Congo hay tại
Tanzania. Mẹ của ông ta là vợ thứ ba của Laurent-Desire
Kabila. Tuy còn trẻ nhưng Joseph Kabila tỏ ra khôn khéo về
ngoại giao hơn cha. Trong chuyến thăm viếng Mỹ theo lời mời
của Tổng thống George Bush sau khi được quốc hội Congo giao
quyền Tổng thống, Josehp Kabila mong muốn có một Congo hòa
bình sau khi đã trải qua hai cuộc chiến, Congo thứ nhất từ
1996 đến 1997 và Congo thứ hai từ 1998 đến 2003, với trên 4
triệu người chết. Trong buổi tiếp xúc Ngoại trưởng Mỹ Colin
Powell, Joseph Kabila cũng hứa hẹn sẽ có những cải cách dân
chủ và nhân quyền tại Congo. Tháng 12 năm 2005, một cuộc
trưng cầu dân ý Congo chấp thuận một hiến pháp mới. Josehp
Kabila ghi danh ứng cử với tư cách độc lập. Đối thủ của
Joseph Kabila là Jean-Pierre Bemba, cựu phó Tổng thống và
cũng là bạn chiến đấu của cha ông ta. Vì vòng đầu cả hai đều
không đạt tỉ lệ trên 50 phần trăm như luật bầu cử quy lịnh,
cuộc bầu cử phải tiến vào vòng hai, và lần nầy Kabila đắc cử
Tổng thống với 58.5 phần trăm tổng số phiếu bầu. Còn khá sớm
để đánh giá Joseph Kabila liệu có trở thành một Mobutu hay
Laurent-Desire Kabila hay không, nhưng có nhiều dấu hiệu cho
thấy Joseph Kabila đã có nhiều thay đổi như việc sắp xếp lại
cơ cấu hành chánh và cho về hưu các viên chức quá già trong
hệ thống công quyền. Joseph Kabila có quan hệ mật thiết với
Trung Quốc. Khi vào tuổi 25, Joseph Kabila đã từng là tư
lịnh binh đoàn Kadogos nổi tiếng đánh chiếm thủ đô Kinshasa.
Sau khi cha làm Tổng thống, Joseph Kabila được gởi sang
Trung Quốc để theo học quân sự tại Đại học Quốc phòng Quân
Giải phóng Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh. Xa hơn nữa, quan
hệ mật thiết giữa Trung Quốc và gia đình Kabila bắt đầu từ
khi Joseph Kabila chưa ra đời. Bản thân Kabila cha là một
Maoist và công khai bày tỏ lòng kính phục đối Mao Trạch
Đông. Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc của Joseph Kabila
vào 22 tháng 3 năm 2002, chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân
cũng nhắc lại tình hữu nghị cố cựu giữa cha con Kabila và
Trung Quốc. Uống nước nhớ nguồn, Josheph Kabila cũng bày tỏ
lòng biết ơn đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc vì đã hết lòng
ủng hộ cha con ông ta trong giai đoạn khó khăn dài trước đó.
Chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc tại Phi châu
Sau khi thiết lập chế độ cộng sản tại lục địa Trung Hoa,
Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu tìm cách tạo ảnh hưởng tại
Phi châu thể hiện qua các chuyến viếng thăm châu Phi ba tuần
của Thủ tướng Chu Ân Lai và ngoại trưởng Trần Di vào đầu năm
1964. Tuy còn rất nghèo nàn nhưng đối với các phong trào du
kích tại nhiều nước Á, Phi, Trung Quốc được xem như là ngọn
hải đăng cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp. Trung Quốc sử dụng lý luận cách mạng để tạo ảnh hưởng
và củng cố vị trí quốc tế qua việc khuyến khích các cuộc nổi
dậy võ trang dưới hình thức cách mạng nhân dân tại các quốc
gia đang đấu tranh vì độc lập hay vừa được trao trả độc lập
nhưng chưa ổn định. Trong thập niên 50 và đầu thập niên 60,
ngoài một số vũ khí phần lớn là chế tạo rập theo khuôn mẫu
của Liên-Xô, Trung Quốc là một nước lạc hậu về kinh tế kỹ
thuật. Vốn liếng và võ khí mạnh nhất của Trung Quốc là lý
luận cách mạng chống thực dân đế quốc.
Tại đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 9 năm 1962,
Mao nhấn mạnh sự liên hệ giữa đấu tranh giai cấp trong nước
phải được tiến hành đồng thời với việc yểm trợ các cuộc
tranh đấu võ trang của các nước khác. Về mặt chính trị,
Trung Quốc tích cực tham gia Hội nghị Bandung lịch sử, diễn
ra từ 18 đến 24 tháng Tư 1955 tại thành phố Bandung, Nam
Dương và sau đó một thời gian ngắn là sự ra đời của Phong
trào các Quốc gia không Liên kết.
Về mặt quân sự, các phong trào Maoist được Trung Quốc võ
trang hình thành khắp nơi, không những trong các quốc gia
đang là thuộc địa, các quốc gia đã được trao trả độc lập mà
cả những quốc gia chưa từng bị thuộc đia. Trung Quốc huấn
luyện du kích quân thuộc phong trào FRELIMO tại Mozambique,
PAIGC tại Guinea, ZANU in Rhodesia (Zimbabwe), ANC tai Nam
Phi. Năm 1963, Trung Quốc gởi quân dụng và vũ khí đến các
lực lượng du kích đang hoạt động tại miền đông Congo dưới sự
lãnh đạo của Antoine Gizenga, nguyên là một bộ trưởng trong
chính phủ Lumumba, chống lại Mobutu thân Mỹ. Điểm đặc biệt,
khác với Liên-Xô và Mỹ, Trung Quốc nhắm vào các mục đích đầu
tư dài hạn nên võ khí tặng cho các phong trào Maoist phần
lớn đều dưới hình thức cho không.
Cuối thập niên 50, lý luận “giương cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc” không còn hiệu quả vì phần lớn các nước đã giành
được hay được trao trả độc lập, Trung Quốc chuyển hướng đấu
tranh sang việc phát động phong trào chống thực dân mới và
đế quốc Mỹ. Trung Quốc cảnh cáo các nước Á, Phi, độc lập
chính trị chỉ là bước đầu trong tiến trình giải phóng đất
nước, quan trọng là phải có độc lập về kinh tế. Một số thỏa
hiệp kinh tế, dù rất tượng trưng, đã được ký kết giữa Trung
Quốc và các quốc gia như Ghana, Guinea, Mali, Tanzania.
Trong nội bộ phong trào cộng sản thế giới Trung Quốc tấn
công vào chủ nghĩa xét lại Khrushchev.
Để chứng tỏ Trung Quốc không chỉ là một mớ lý luận và những
võ khi thô sơ, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
không ngần ngại thực hiện vài đề án lớn với một số nước Phi
châu như trường hợp đề án đường rầy xe lửa Tanzam nối liền
Zambia và bờ phía đông của Tanzania năm 1970. Đề án Tanzam
được xem như là một đề án lớn nhất của Trung Quốc thời bấy
giờ với kinh phí 500 triệu Dollar để xây dựng một hệ thống
đường xe lửa dài 1870 kí lô mét từ Dar es Salamm đến khu vực
mỏ quặng chính của Zambia. Số nhân công được sử dụng gồm 50
ngàn tuyển mộ từ Tanzania và 25 ngàn được đưa sang từ Trung
Quốc. Bất chấp nắng mưa, chết chóc, 75 ngàn người đã làm
việc suốt 5 năm dài, bắt 300 cầu, đào thông 23 hầm và đặt
147 trạm xe lửa. Đề án được Trung Quốc ca ngợi như một thành
công vĩ đại vào năm 1975 mặc dù Trung Quốc biết cả vốn lẫn
lời có thể đều không thu lại được. Trung Quốc thực hiện đề
án Tanzam không nhằm theo đuổi mục đích lợi nhuận kinh tế
nhưng qua đó thiết lập một đầu cầu quan trọng cho việc đổ bộ
ồ ạt vào Phi châu trong đầu thiên niên kỷ này và đồng chứng
tỏ cho các lãnh đạo các nước Phi châu thấy không chỉ có Mỹ
hay Liên-Xô mới khả năng thực hiện các đề án lớn.
Các chính sách đổi mới kinh tế của Đặng Tiểu Bình bắt đầu
thập niên 80, về mục tiêu có nhiều thay đổi, nhưng một số
điểm trong chính sách đối với châu Phi thời Mao vẫn được duy
trì. Giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sử dụng và khai thác
lịch sử như một vũ khí chiến lược để phục vụ cho mục tiêu
bành trướng. Trung Quốc vẫn lặp đi lặp lại khẩu hiệu hợp tác
hữu nghị, tình đồng chí anh em thắm thiết giữa các quốc gia
cùng cảnh ngộ được như Chu Ân Lai đã tuyên bố từ Hội nghị
Bandung hơn nửa thế kỷ trước, có khác chăng các lãnh tụ
phiến loạn ngày xưa nay đã là những tổng thống và Trung
Quốc, lãnh tụ của thế giới thứ ba nghèo khổ, nay là một siêu
cường.
Các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc
-
Thỏa mãn nhu cầu năng lượng và nguyên liệu
Phát triển kinh tế đòi hỏi trước hết là nguyên liệu. Sự thất
thoát và lãng phí nguyên vật liệu trong sản xuất đã làm nhu
cầu nguyên liệu của Trung Quốc vốn đã thiếu hụt lại càng
thiếu hụt trầm trọng hơn. Để đuổi kịp các nước tư bản phát
triển và vượt qua những khiếm khuyết trong sử dụng nguyên
liệu, giới lãnh đạo kinh tế Trung Quốc không áp dụng các
phương pháp kinh doanh truyền thống mà Mỹ và các nước Tây Âu
đã và đang áp dụng. Các chuyên viên đặt hàng của các công ty
Trung Quốc không ngồi trong các phòng có gắn máy lạnh, trước
máy vi tính và mua nguyên vật liệt từ các thị trường nguyên
liệu quốc tế mà đến tận nơi, mua tận gốc và mua với giá rẻ
nhất. Tệ hại hơn cả các chế độ thực dân trước đây, Trung
Quốc vơ vét đủ cách, đủ kiểu, chính thức qua các hợp đồng
nhà nước và không chính thức qua trung gian các công ty thầu
thu mua do người bản xứ điều hành. Các công ty Trung Quốc
bất chấp các nguyên tắc, luật lệ lao động và họ không quan
tâm các bao quặng kia do ai đào ra, dù từ bàn tay của một
phụ nữ Congo đang cõng trên lưng một đứa bé sơ sinh hay một
em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi.
-
Giải quyết nạn thặng dư dân số tại Trung Hoa lục địa
Nội
dung của chủ nghĩa bành trướng thế giới của Trung Quốc không
chỉ giới hạn về kinh tế mà đồng thời để giải quyết được nạn
thặng dư dân số tại nội địa Trung Quốc. Dân số Trung Quốc
theo thống kê tháng 7 2008 là 1 tỉ 330 triệu người. Trong 20
năm qua, việc thực thi chính sách kiểm soát dân số mỗi gia
đình một con khá hữu hiệu đã giúp mức gia tăng dân số chậm
lại tại mức 0.65 phần trăm mỗi năm. Nếu cứ tiếp tục duy trì
chính sách hạn chế sinh đẻ như hiện nay, nghĩa là cứ hai
người lớn tuổi mới có một em bé, số lượng người già trong
dân số Trung Quốc theo tỉ lệ sẽ tăng nhanh hơn số lượng trẻ
em. Theo các nhà phân tích dân số, nếu mức phát triển dân số
không thay đổi, trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ là
một viện dưỡng lão khổng lồ.
Việc thỏa mản các nhu cầu an sinh, xã hội, y tế cho nhiều
trăm triệu người già không còn khả năng lao động, là một
viễn ảnh đầy lo sợ của giới lãnh đạo Trung Quốc. Theo báo Sunday
Times xuất bản tại Anh số tháng Hai 2008, một chuyên
viên về Trung Quốc ước lượng rằng chính phủ Trung Quốc cần
phải đưa ra khỏi Trung Hoa lục địa 300 triệu người mới có
thể giải quyết nạn thặng dư dân số. Đưa đi đâu? Bất cứ nơi
nào, nhưng nơi di dân thích hợp nhất của thời đại ngày nay
không đâu khác hơn là Phi châu đất rộng, người thưa, tài
nguyên phong phú. Trung Quốc cũng tìm cách truyền bá tiếng
phổ thông Trung Quốc sang các nước Phi châu. Mặc dù rất khó
học, các lớp dạy tiếng Trung Quốc được mở khắp mọi nơi.
Chính phủ Trung Quốc ước lượng sẽ có 100 triệu người nước
ngoài, hẳn nhiên đa số sẽ từ châu Phi, nói tiếng Trung Quốc.
Tại Kenya còn có một học viện mang tên Viện Khổng Tử chuyên
dạy về văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc.
Theo phân tích của các tác giả tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc
tế và Chiến lược (the Center for Strategic and International
Studies) trong tổng kết China the Balance Sheet, Trung Quốc
là một nước già, và vào giữa thế kỷ này Trung Quốc sẽ có 349
triệu cao niên. Hệ thống dưỡng lão tại Trung Quốc ngày nay
vẫn còn theo kiểu con cái phụng dưỡng cha mẹ già nhưng 30
năm nữa một người trẻ phải phụng dưỡng bốn người già. Tình
trạng mất cân đối giới tính trong dân số Trung Quốc cũng là
một mầm mống khác cho những bất ổn xã hội tương lai. Mặc dù
trên giấy tờ chính phủ Trung Quốc nghiêm cấm việc phá thai
dựa theo giới tính nhưng tình trạng phá thai một cách bất
nhân khi đã biết bào thai là còn gái vẫn xảy ra rất phổ biến
tại Trung Quốc. Điều đó dẫn đến tình trạng trai thừa gái
thiếu. Phương pháp để giải quyết tình trạng đó là mua vợ từ
các nước Á châu khác.
-
Xuất cảng hàng hóa tiêu dùng
Không giống các quốc gia Tây phương, viện trợ và đầu tư được
tính toán một cách cân đối dựa trên nhu cầu ngắn hạn và dài
hạn của một quốc gia, trong đó có đầu tư về giáo dục, huấn
luyện nghề nghiệp, khoa học kỹ thuật, các đầu tư của Trung
Quốc nhắm nhiều nhất vào các mục đích tiêu dùng và dịch vụ
như phi trường, sân vận động. Tập san nghiên cứu China
Monitor của Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc tại Congo
cho rằng việc Trung Quốc xây dựng các công trình chẳng khác
mang cá đến cho người dùng mà không chỉ cho họ cách để tự
đánh cá.
Như một nước nông nghiệp với nhiều triệu dân là những người
tỵ nạn chiến tranh vừa mới hồi cư, sản phẩm công nghiệp
Congo không phải là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa Trung
Quốc. Đường phố Lubumbashi, thủ phủ tỉnh Katanga, là một phố
Tàu lớn với các cơ sở thương mại Trung Quốc, từ các ngân
hàng, các công ty lớn cho đến các nhà hàng, tiệm ăn, tiệm
tạp hóa và cả tiệm thuốc bắc. Về hàng hóa, không chỉ đồng
hồ, TV, radio, điện thoại mà ngay cả loại vải truyền thống
nhiều màu mà phụ nữ Phi châu ưa chuộng, vốn là đặc sản
Congo, cũng được may từ Trung Quốc đem sang. Ngoài việc đánh
gục hàng nội địa, các công ty Trung Quốc còn cạnh tranh với
cả hàng nhập cảng. Công ty điện thoại di động Congo Chinese
Telecomps (CTT) bán các điện thoại phẩm chất không thua kém
các công ty lớn thế giới nhưng giá rất thấp so với các sản
phẩm nhập từ Mỹ hay châu Âu.
-
Mua chuộc và bao che cấp lãnh đạo để khai thác lâu dài
Các lãnh đạo Phi châu không phải là không biết thâm ý của
Trung Quốc nhưng họ vẫn muốn hợp tác kinh tế với Trung Quốc
hơn là các nước Tây phương. Như đã trình bày trong
bài trước,
hợp tác với Trung Quốc, các lãnh đạo Phi châu không phải bận
tâm về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền vì chính sách
của Trung Quốc không can thiệp vào nội bộ của các nước khác.
Trong khi các vấn đề nhân quyền đã đẩy các công ty phương
Tây ra khỏi châu Phi thì Trung Quốc trở thành nước độc quyền
đầu tư và khai thác kinh tế. Ngoài ra, hợp tác với Trung
Quốc không phải thông qua các thủ tục, các điệu kiện phức
tạp như khi vay tiền của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế). Thảo
luận hay ký kết các hợp đồng thương mại với các công ty
Trung Quốc cũng chẳng khác gì ký kết với chính phủ Trung
Quốc và do đó không cần phải thông qua sự chấp thuận của
chính phủ hay quốc hội, nếu có cũng chỉ là vấn đề thủ tục.
Trung Quốc ưu đãi, bao che và nếu cần sẽ sẵn sàng tiếp tay
cho giới lãnh đạo để đàn áp các thành phần đối lập, các tầng
lớp nhân dân. Giống như chế độ thực dân đế quốc trước đây,
Trung Quốc nuôi dưỡng, bao che, cung cấp cho giới lãnh đạo
Phi châu tiền bạc, súng đạn, an ninh cá nhân và bảo vệ chế
độ bằng sử dụng quyền phủ quyết trong các cơ quan quốc tế
như Liên Hiệp Quốc.
Trung Quốc và Congo
Riêng với Congo, năm 1964, Mao Trạch Đông đã tuyên bố “Nếu
chúng ta có được Congo, chúng ta sẽ có được cả Phi châu”. Về
mặt lịch sử, người Trung Quốc có mặt ở Congo từ lâu lắm. Các
nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích người Trung Quốc có mặt
tại Phi châu từ thế kỷ thứ sáu. Trong thế kỷ 18, thời kỳ vua
Leopold cai trị Congo, nhiều ngàn người Hoa đã bị đưa tới để
làm đường rầy xe lửa. Đa số đã bị chết vì đói khát hay kiệt
sức lao động, một số ít sống sót đã chạy về các thành phố.
Tức khắc sau khi Bỉ trao trả độc lập cho Congo, Thủ tướng
Trung Quốc Chu Ân Lai đã gởi điện văn chúc mừng Thủ tướng
Lumumba và công nhận Congo độc lập. Tuy nhiên hai quốc gia
sau đó đã có xung đột ngoại giao khi Tổng thống Kasavubu
thiết lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan. Để trả đũa, Trung
Quốc gởi võ khí cho quân đội của Gizenga đang chống lại
chính quyền Congo trung ương của Kasavubu và Mobutu.
Sau khi loại bỏ Tổng thống Kasavubu, siết chặt quyền lãnh
đạo tại Congo, Mobutu bắt đầu có có tham vọng lãnh đạo cả
lục địa Phi châu. Để làm được điều đó nhà độc tài xứ Congo
cần phải hòa hoãn với Trung Quốc, quốc gia có ảnh hưởng nhất
trong Phong trào các Quốc gia không Liên kết. Congo và Trung
Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 1972. Cũng
trong năm này, Mobutu công nhận đàn em thân tín của Trung
Quốc là Bắc Hàn. Mobutu thăm Trung Quốc 5 lần trong khoảng
thời gian từ 1973 đến 1994. Đáp lại, từ 1973, các lãnh đạo
đảng và nhà nước Trung Quốc viếng thăm Congo, đầu tiên với
Ngoại trưởng Hoàng Hoa thăm Congo 1978, đến phó Thủ tướng Lý
Tiên Niệm đến Congo 1979. Trung Quốc nắm lấy cơ hội các quốc
gia dân chủ Tây phương và Mỹ dưới thời Tổng thống Jimmy
Carter bắt đầu tẩy chay chế độ độc tài Mobutu để gây ảnh
hưởng với Mobutu. Năm 1983, Trung Quốc tuyên bố hủy bỏ số nợ
100 triệu Dollar Congo đã vay của Trung Quốc, ngoài ra còn
gởi khoảng 1 ngàn chuyên viên Trung Quốc sang làm việc trong
các đề án nông và lâm nghiệp tại Congo.
Khi nhà độc tài Mobutu bị Laurent-Desire Kabila lật đổ, quan
hệ hai quốc gia chẳng những không gián đoạn mà còn được củng
cố vững chắc thêm. Quan hệ giữa Tổng thống Laurent-Desire
Kabila và Bắc Kinh không chỉ là quan hệ giữa hai nước mà còn
là quan hệ đồng chí anh em vì Laurent-Desire Kabila vốn là
một nhà Maoist và đã từng được Mao yểm trợ võ khí khi còn ở
trong rừng. Chỉ một thời gian ngắn sau khi lật đổ Mobutu,
Tổng thống Congo Laurent-Desire Kabila lên đường viếng thăm
Bắc Kinh. Khi Laurent-Desire Kabila bị ám sát, con trai của
ông ta lên làm Tổng thống cũng đã thăm Trung Quốc để xin
viện trợ, và đổi lại Trung Quốc được hưởng nhiều đặc quyền
khai thác quặng mỏ, nhất là đồng và cobalt. Trung Quốc bắt
đầu xây dựng hệ thống đường sá, khách sạn, phi trường, nhà
máy điện, cơ sở giáo dục cho Congo, cũng như khai thác gỗ và
dần dần lan đến các đề án nông nghiệp, ngay cả cà-phê,
đường, cây trái.
Cuối tháng 9 năm 2007, Trung Quốc ký với Congo một hợp đồng
được xem là lớn nhất từ trước đến nay với một quốc gia Phi
châu. Tổng giá trị của hợp đồng lên đến 9.25 tỉ Dollar. Ngân
hàng Xuất nhập Cảng Trung Quốc Exim (Export-Import Bank of
China) đã đồng ý cho Congo vay để tân trang hệ thống đường
sá tại Congo. Đổi lại, Trung Quốc được quyền khai thác 10.6
triệu tấn đồng và 626,619 tấn cobalt. Theo nội dung của hiệp
ước khai thác quặng, được đàm phán tại Bắc Kinh giữa luật sư
Pual Fortin thay mặt cho công ty quốc doanh Gecamines của
Congo và chính phủ Trung Quốc, số tiền sẽ được chi thành 3
giai đoạn, mỗi giai đoạn 3 năm phù hợp với tiến trình xây
dựng và khai thác quặng mỏ. Sau thời gian 10 năm, vai trò
độc quyền của Trung Quốc sẽ chấm dứt và hai quốc gia sẽ hợp
tác với 2 phần 3 thuộc về Trung Quốc và 1 phần 3 thuộc về
Congo, để tiếp tục khai thác quặng mỏ. Hiệp ước đã được Quốc
hội Congo chấp thuận tháng 5 năm 2008.
Một số nhà phân tích cho rằng đây là một hiệp ước hai bên
cùng có lợi vì Congo sẽ có một số cơ sở xây dựng mà họ chưa
từng có như Tổng thống Joseph Kabila tuyên bố: “Lần đầu tiên
trong lịch sử, nhân dân Congo có thể thấy những quặng đồng,
kẽm của Congo đem về những kết quả tốt”. Tuy nhiên theo luật
sư Georges Kapiamba, một trong số ít người đọc được nội dung
của thỏa hiệp, cho rằng thỏa hiệp ký kết vào năm 2008 cũng
chẳng khác gì “thỏa hiệp” mà Congo phải ký dưới thời vua
Leopold đệ nhị của Bỉ. Cộng hòa Dân chủ Congo, trên thực tế
sẽ bị thực dân hóa lần nữa. Có khác chăng, vua Leopold chưa
bao giờ đặt chân đến Congo nhưng người Hoa sẽ tràn ngập
Congo. Congo sẽ được Trung Quốc xây dựng 176 bịnh viện, hai
trường đại học, một cảng, 500 chung cư. Đó là những công
trình xây dựng lớn, tuy nhiên so sánh giữa gì sẽ nhận về và
những gì sẽ mất đi, Congo sẽ bị thiệt hại nhiều hơn. Đừng
nói gì đến chủ quyền đất nước và tài nguyên thiên nhiên, chỉ
riêng về thu nhập tiền lời, với giá quặng mỏ vẫn còn cao,
các nhà phân tích ước lượng, sau thời hạn 10 năm Trung Quốc
sẽ thu lại từ 42 tỉ Dollar đến 90 tỉ Dollar.
Trung Quốc trong vai trò thực dân của họ, hơn ai hết mong
được thấy một Cộng hòa Dân chủ Congo ổn định để khai thác
tài nguyên của quốc gia này, nhưng liệu ước muốn đó có là
một hiện thực hay không là điều khó ai biết trước. Lịch sử
đã chứng minh Mỹ, Pháp, Anh không bao giờ nhường Phi châu
cho Trung Quốc một cách dễ dàng. Khi thỏa hiệp được trình
lên Quốc hội Congo tháng 5 năm 2008, 105 nghị sĩ thuộc các
đảng đối lập Congo đã bước ra khỏi phòng để phản đối. Tháng
10 năm 2008, lực lượng Tutsi dưới quyền của tướng Laurent
Nkunda đánh bại các lực lượng chính phủ Cộng hòa Dân chủ
Congo và có ý định tiến về phía khu hầm mỏ Congo. Tướng
Nkunda tuyên bố một trong những điều kiện đàm phán giữa ông
ta và chính phủ của Tổng thống Joseph Kabila là Congo phải
hủy bỏ hiệp ước 9 tỉ Dollar với Trung Quốc. Mặc dù tướng
Nkunda vừa bị bắt cách đây 3 tháng nhưng các thành phần
chống chính phủ vẫn còn rất mạnh. Thỏa hiệp kinh tế 9 tỉ
Dollar vì thế đã trở thành con tin cho cuộc tranh chấp giữa
nhiều phe phái. Máu có thể sẽ đổ lần nữa trên đất Congo và
giống như hàng trăm năm qua, giọt máu đầu tiên hay cuối cùng
cũng chỉ là máu của nhân dân Congo vô tội.
Và Việt Nam?
Bên cạnh nhiều điểm khác nhau về mức độ phát triển kinh tế,
khoa học kỹ thuật, địa lý chính trị, hai dân tộc Congo và
Việt Nam có chung nhiều điểm bất hạnh giống nhau. Cobalt
Congo và Bauxite Việt Nam đều là bước đầu của chủ nghĩa bành
trướng của thực dân đỏ Trung Quốc, và viễn ảnh đen tối bị lệ
thuộc lâu dài vào Trung Quốc là điều có thực. Giống như
Congo, dân tộc Việt Nam cũng trải qua một cuộc chiến tranh
dài, với số người chết gần bằng nhau, và cả hai dân tộc đều
nằm dưới sự cai trị của một giới lãnh đạo tự nguyện đặt mình
dưới sự bảo hộ của Trung Quốc. Bởi vì, chỉ có cộng sản Trung
Quốc mới làm ngơ trước các hành động bỏ tù, tra tấn, chặt
tay, bịt miệng người dân, chỉ có cộng sản Trung Quốc mới im
lặng khi giới cầm quyền sống xa hoa, phung phí trên máu
xương, mồ hôi nước mắt của nhân dân, và chỉ núp dưới bóng
của cộng sản Trung Quốc giới lãnh đạo có mới thể kéo dài
quyền cai trị đất nước. Giống như Congo, Việt Nam cũng có
tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, lẽ ra hôm nay đã
thành một con rồng, con phụng ở Á châu, nhưng không, Việt
Nam vẫn còn là một nước nghèo về kinh tế và có một cơ chế
chính trị còn lạc hậu hơn cả Congo.
Dân tộc Việt Nam, sau 34 năm nguyền rủa, van xin, đánh thức
lương tâm của giới lãnh đạo cộng sản bằng bao nhiêu bức tâm
thư, bao nhiêu lời thỉnh nguyện. Tất cả chỉ là những giọt
nước rơi vào biển cả, không tạo được âm vang, không gây nên
chút sóng. Đảng Cộng sản đã chọn lựa cho họ một con đường
riêng để tồn tại thì dân tộc Việt Nam cũng phải biết đứng
lên để thay đổi vận mệnh của chính mình. Lịch sử nhân loại
chứng minh, những kẻ độc tài thường không bước xuống theo
nguyện vọng nhân dân, họ chỉ chết già trong quyền lực hay bị
lật đổ.
Tham khảo
-
Richard Dowden,
Africa, Altered States, Ordinary Miracles,
Public Affairs, New York 2008
-
Adam Hochschild, King Leopold’s
Ghost: A Story of Greed, Terror, and Heroism in Colonial
Africa,
Mariner Books 1999.
-
Arthur Conan Doyle, The Crime of the
Congo, London Hutchinson & Co, 1909
-
Martin Meredith, The Fate of
Africa,
Public Affairs 2005
-
Princeton Lyman, Director of Africa
Policy Studies, Council on Foreign Relation,
China’s Rising Role in Africa,
July 2005
-
Center for Strategic and International
Studies and the Peter G . Peterson Institute for
International
Economics,
China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
-
David Pugh, Chinese Foreign Policy
during the Maoist Era and its Lessons for Today
-
Peter Hitchens,
How China has created a new slave
empire in Africa, Mail
28th September 2008
-
Wenran Jiang,
Chinese Inroads in DR Congo: A
Chinese “Marshall Plan” or Business? , The
Jamestown Foundation, Jan 12 2009.
-
Amb David H. Shinn,
China’s Relations with Zimbabwe,
Sudan, and the Democratic Republic of the Congo
-
Hannah Edinger & Johanna Jansson,
Center for Chinese Studies,
China and the Democratic Republic
of Congo:Partners in Development? October
2008
-
Simon Clark, Michael Smith and Franz
Wild,
China Lets Child Workers Die
Digging in Congo Mines for Copper,
Bloomberg, July 22 2008.
-
Richard Behar,
Mineral Wealth of the Congo,
June 1 2008
-
F William Engdahl,
China’s US$9bn hostage in the
Congo war, Asia Times,
Dec 2 2008
-
Jon Swain,
Africa, China’s new frontier
Time,
February, 10 2008
-
Hình ảnh từ mục chinaafrica của website
paolowoods.net
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc
chính là con đường. |
|