Chủ quyền
Việt Nam
tại bãi Tu Chính - Vũng Mây
và vùng trũng Nam Côn Sơn
-
30.03.2009 |
Trương Nhân Tuấn
Sự việc hai hãng khai thác dầu ExxonMobil (Hoa Kỳ) và BP (Anh) lần
lượt rút khỏi Việt Nam là một gáo nước lạnh, một cái tát rát mặt cho
phía Việt Nam, nhưng cũng là một dịp may để các học giả Việt Nam xét
lại các dữ kiện cơ bản mà phía Việt Nam dựa lên đó chứng minh chủ
quyền của mình tại vùng trũng nam Côn Sơn và bãi Tu Chính - Vũng Mây
(TC-VM). May vì còn thời giờ để thảo luận lại nghiêm túc. Đồng thời
cũng là dịp để phía Việt Nam đặt lại toàn bộ lý lẽ của mình về chủ
quyền Hoàng Sa-Trường Sa và hải phận Biển Đông cách nào cho hợp lý.
Các lô của BP khai thác là 5.2 và 5.3 (xem bản đồ), nằm giữa quần
đảo Trường Sa với bờ biển Việt Nam. Hai mỏ được phát hiện các nơi đây
năm 1996 là Hải Thạch và Mộc Tinh. Việc thăm dò tạm ngừng từ tháng 6
năm 2007, BP giải thích vì vùng khai thác đang có tranh chấp giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Phía BP nói rằng việc tạm ngưng là: «để cho các
nước liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề». Tuần qua, ngày
19-3-2009, BP thông báo chính thức rút lui, hủy bỏ hợp đồng khai thác
với Việt Nam. Trước đó, tháng 9 năm 2008, ExxonMobil cũng rút lui sau
khi đã có những thỏa thuận với Việt Nam sau chuyến Mỹ du của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng tháng 5 năm 2008.
Một ngày sau khi BP tuyên bố rút lui, ông Lê Dũng, phát ngôn Bộ
Ngoại giao Việt Nam nói rằng: «Điều tôi có thể khẳng định là những
lô này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam,
hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.»
Ông Dũng nói thế, người Việt Nam nào cũng nghĩ như thế, vùng biển
đó là của Việt Nam không ai có thể chối cãi. Nhưng đối với người
ngoài, các nước trên thế giới họ nghĩ gì? Thái độ rút lui của BP (Anh)
rõ ràng là do việc tranh chấp; của ExxonMobil (Hoa Kỳ) lại càng rõ rệt
hơn, vì lô khai thác của tập đoàn này nằm trong vùng TC-VM, xa bờ biển
Việt Nam hơn cả hai lô 5.2 và 5.3 do BP trúng thầu khai thác. Việc này
bắt buộc mọi người Việt Nam phải suy nghĩ lại.
Về địa lý, các lô 5.2 và 5.3 nằm cách đảo Côn Sơn khoảng 200km,
cách đảo Đá Lát (thuộc Trường Sa) khoảng 200km và cách bờ biển Vũng
Tàu khoảng 350km. Các con số ghi nhận không chính xác, lấy từ việc đo
đạc ước lượng trên bản đồ, chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Hai lô 5.2 và
5.3 nằm trong đường giới hạn ZEE 200 hải lý của Việt Nam, đường này
trên bản đồ là đường xanh đậm. Để ý, đường giới hạn vùng ZEE của Việt
Nam không ăn khớp với đường bờ biển Việt Nam. Ở khoảng các tỉnh miền
Trung thì đường này cách bờ đúng 200 hải lý, phù hợp với qui định của
luật quốc tế về biển 1982, nhưng ở vùng các tỉnh miền Nam thì đường
này phình lớn ra, nơi lớn nhất đo khoảng 270 hải lý. Việc bất thường
này có hai giải thích: 1. do hiệu quả của đường cơ bản của bờ biển
Việt Nam ; 2. do hiệu quả của đảo Hòn Hải (thuộc nhóm đảo Phú Quí).
Nhưng Hòn Hải lại là điểm A6 của hệ thống đường cơ bản, do đó tuy có
hai cách giải thích khác nhau nhưng hiệu quả thì như nhau.
Vùng TC-VM là hình đa giác vẽ bằng màu tím trên bản đồ. Vùng này có
hai lô 133 và 134 tô màu vàng. Xét trên bản đồ thì vùng TC-VM một phần
nằm ngoài đường ZEE của Việt Nam, rất gần các đảo Trường Sa nếu so với
bờ biển Việt Nam.
Phía Trung Quốc cho rằng các lô trên có chồng lấn với hải phận (và
thềm lục địa) của Trung Quốc, vì thế phía Việt Nam không thể đơn
phương khai thác. Hai tập đoàn, BP đang khai thác ở hai lô 5.2 và 5.3,
ExxonMobil dự định khai thác các lô thuộc TC-VM, đều rút lui. Lý lẽ
nào của phía Trung Quốc đã khiến cho BP và ExxonMobil rút lui? Phía
bên Việt Nam cố gắng giải thích việc rút lui là do lý do kinh tế, khai
thác không có lợi, nhưng không hề thuyết phục. Hai lý lẽ thuyết phục
nhất có lẽ là: 1. sức ép của Trung Quốc; 2. các bằng chứng thuyết phục
về chủ quyền của Trung Quốc.
Về sức ép của Trung Quốc, điều này đúng, vì Trung Quốc hiện nay là
đầu tàu của sự phát triển kinh tế thế giới, là chủ nợ của Hoa Kỳ. Mặt
khác, Anh Quốc có rất nhiều quyền lợi tại Trung Quốc do đó BP nhượng
bộ yêu sách của Trung Quốc cũng hợp lý. Nhưng khi nói Trung Quốc có
chủ quyền ở các vùng này, trên quan điểm Việt Nam thì không có gì phi
lý và ngang ngược hơn. Nhưng thái độ của BP và ExxonMobil, dầu sao
cũng là các tập đoàn khai thác dầu khí lớn nhất nhì thế giới của Anh
và Hoa Kỳ, họ chỉ nhưọng bộ nếu các lý lẽ phía Trung Quốc là hợp lý.
Đây là hậu quả của một sự sơ suất to lớn, phía Việt Nam dường như
không hề màng đến các lý lẽ của Trung Quốc, sai lầm kéo dài từ năm
1958 đến nay.
Sai lầm vì, các viên chức Việt Nam lạc quan đã đành, học giả Việt
Nam cũng vậy, nhưng thật ra phần lớn đều thiếu tầm nhìn, chỉ giải
thích vấn đề theo cảm tính, theo ý muốn của mình mà bất chấp thực tế
đã xảy ra như thế nào. Đến hôm nay một số học giả Việt Nam vẫn loay
hoay với hỏa mù của Trung Quốc tung ra, mất thời giờ tìm hiểu và giải
thích ý nghĩa tấm bản đồ chữ U, còn gọi là bản đồ 9 gạch hay bản đồ
«lưỡi bò», mà không biết rằng đó chỉ diện, là hỏa mù có công dụng đánh
lạc hướng Việt Nam (và cả thế giới), làm cho phía Việt Nam nếu không
mất thì giờ thì cũng trở thành khinh địch.
Việc loay hoay này thấy rõ qua buổi «Hội thảo biển Đông» vừa qua
trong nước. Có người mất không biết bao nhiêu thời gian để tìm hiểu và
chứng minh «biển lưỡi bò» không thể là biển lịch sử của Trung Quốc
v.v… Nhưng các việc đó đều vô ích.
Cả buổi hội thảo,
tôi đã nói trên blog của mình từ ngày 19-3, đã không nói
lên việc gì mới (ngoài việc tổ chức là mới). Mọi người chỉ nói cho
nhau nghe những cái mà mọi người đều biết. Những cái mới, như hồ sơ
của Trung Quốc ra sao, lý lẽ họ thế nào, việc phản biện của họ có căn
cứ gì hay không… thì không nghe nói tới, từ lịch sử cho đến pháp lý,
mặc dầu tài liệu của Trung Quốc nhiều gấp trăm lần tài liệu của phía
Việt Nam. Rõ ràng như ban ngày, Trung Quốc làm gì có chủ quyền ở HS và
TS, nhưng họ có cả trăm đầu sách, tài liệu, một mặt bắt bẻ, phản biện
các lý lẽ của Việt Nam, mặt khác chứng minh chủ quyền của Trung Quốc
tại các nơi này. Phía Việt Nam, nếu không nói quá, thì là tay trắng.
Học giả Việt Nam đang tự mãn dưới đáy giếng hay đang là con ngựa thồ
bị bịt cả hai mắt? Một hai người hiếm hoi có thể đem lại cái mới cho
hội thảo, như
nhà nghiên
cứu Phạm Hoàng Quân, thì không thấy có mặt. Có lẽ là do
phía nhà nước mà thôi. Những học giả như ông Nguyễn Quang Ngọc đã có
bài tham luận rất giá trị, đã đi đúng phương hướng, nhưng lại bị giới
hạn vì những vật cản chung quanh. Nhà nước có nói với ông Ngọc thế
này: «phía học giả Việt Nam đang làm khó nhà nước trong việc hoạch
định chính sách». Thì ra nhà nước muốn học giả Việt Nam viết theo định
hướng của chính sách nhà nước, tức viết theo lối vuốt đuôi, trong khi
các nước khác, chính sách của nhà nước được đặt trên các nghiên cứu
của các nhà khoa học. Ai mà không bất mãn?
Trở lại vấn đề là ngày hôm nay, trên hầu hết các Atlas nước ngoài
đều ghi nhận công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã công nhận HS
và TS thuộc chủ quyền của Tàu. Điển hình, cuốn L’Atlas des atlas
tháng 9 năm 2008 của Courrier International, một cơ sở truyền
thông uy tín hàng đầu thế giới, đã ghi ở trang 91 như thế.
Sự thật là sự thật, nhưng học giả Việt Nam, một số chỉ muốn tự
sướng, giải thích cho nhau nghe rằng công hàm này không hề có giá trị
về pháp lý. Ai nói khác thì kẻ đó làm lợi cho Tàu, nếu không phản động
thì cũng là chống cộng cực đoan. Nhưng không có ai đủ khả năng giải
thích được cho dư luận nước ngoài là công hàm này không có giá trị.
Phải cay đắng mà kết luận rằng những học giả này vừa kém về phẩm vừa
kém về tinh thần học thuật.
Như thế, trước dư luận quốc tế, HS và TS đã là của Trung Quốc. Các
học giả Việt Nam (có thể) không biết, và cũng (có thể) không muốn
biết, phía Trung Quốc đã đưa các tài liệu gì để vừa thuyết phục vừa đe
dọa BP và ExxonMobil?
Về pháp lý cũng vậy, một số các học giả, những nhà nghiên cứu Việt
Nam cũng chỉ nghiên cứu theo lối uống thuốc an thần, chỉ giải thích
luật lệ theo ý muốn của mình. Việc giải thích bộ Luật Quốc tế về Biển
1982 là một điển hình.
Mọi người đều biết bộ luật này còn rất nhiều điểm chưa hoàn chỉnh.
Ở một số điều người ta có thể giải thích theo nhiều cách khác nhau mà
cách nào cũng đúng. Trường hợp tranh cãi giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về
chiếc tàu Impeccable là một thí dụ. Đây là một trong nhiều kẻ hở của
Luật Biển 1982. Vậy mà một số học giả Việt Nam chỉ giải thích luật này
theo lối có lợi cho mình, không cần nghiên cứu xem đối thủ của mình
giải thích ra sao! Biết địch biết ta mới hy vọng thắng. Biết ta không
cần biết địch, mà biết ta cũng rất lơ mơ, thua là cái chắc.
Các bài viết của ông Dương Danh Huy đã đăng rộng rãi trên các kênh
truyền thông lớn trong nước và hải ngoại gần đây về hải phận Biển Đông
và chủ quyền HS và TS là thí dụ điển hình cho lối làm việc đó.
Ông này viết về chủ quyền của Việt Nam tại TC-VM như sau: «Thật
ra, theo luật quốc tế, giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về
Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa, thì vùng Tư Chính - Vũng Mây và
bồn trũng Nam Côn Sơn nằm ở phía bắc ranh giới với Indonesia vẫn thuộc
về Việt Nam…»
«Trong việc vạch ranh giới, tập quán luật quốc tế và ngoại giao
không tính những đảo nhỏ, xa bờ, tự thân không có các điều kiện cho sự
cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng, như các đảo trong hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để tránh việc những đảo này ảnh hưởng
không công bằng tới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nguyên tắc
này được Toà án Công lý Quốc Tế tuyên bố từ năm 1969 trong phiên toà
chia thềm lục địa Bắc Hải và được khẳng định trong Điều 121, Khoản 3
của UNCLOS. Từ năm 1969 tới nay, Toà án Công lý Quốc Tế luôn luôn tôn
trọng nguyên tắc này, thí dụ như trong những phiên toà Lybia/Malta,
Vịnh Maine, Guniea/Guniea-Bisseau…»
http://www.tuanvietnam.net/Việt Nam/tulieusuyngam/5522/index.aspx
Tác giả viết rằng «giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về
Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa» thì ảnh hưởng các đảo này
không ăn thua gì hết, TC-VM vẫn là của Việt Nam.
Tác giả giải thích Luật Biển 1982 trên tinh thần chủ quan và đưa ra
những bằng chứng là các phiên tòa và các án lệ quốc tế như đã dẫn
trên.
Nhưng các bằng chứng này không đúng với sự thật. Thí dụ, việc phân
định hải phận và thềm lục địa giữa Lybia và Malta, tại đây việc phân
định đặt trên tinh thần đồng đẳng theo đường trung tuyến chứ không có
việc «không tính các đảo nhỏ xa bờ» như ông Huy đã nói. Về Vịnh Maine
là một vịnh nhỏ của USA và Canada, không hề quan hệ và không thể so
sánh với các đảo HS và TS. Việc phân định giữa Guniea và
Guniea-Bisseau cũng thế, không thể so sánh với các đảo HS và TS. HS và
TS là những quần đảo, quan trọng của nó là vùng nước giữa đảo này với
đảo kia.
Tác giả Dương Danh Huy đưa chứng từ sai - một lỗi học thuật rất
nặng - để chứng minh một lập trường không có lợi cho Việt Nam, thuyết
phục Việt Nam chấp nhận lập trường đó, là có dụng ý gì nếu không phải
là muốn Việt Nam bỏ HS và TS cho Trung Quốc vì nó không có giá trị?
Hiện nay ai có thể có những bài viết, tài liệu dồi dào mà các nhà
nghiên cứu khác không thể có, được ưu tiên đăng ở các kênh truyền
thông nhà nước, nếu không phải là người của chính quyền? Tôi cho rằng
các bài viết của tác giả này phản ảnh lập trường của nhà nước Việt
Nam, viết theo định hướng của chính sách nhà nước, trong vấn đề HS và
TS và hải phận của Việt Nam tại Biển Đông. Những bài viết này có tác
dụng chuẩn bị dư luận. Nguy cơ nhà nước Việt Nam muốn bỏ HS và TS cho
Trung Quốc là có thật.
Trở lại lời thì thầm của nhà nước cho ông Nguyễn Quang Ngọc: «học
giả Việt Nam đang làm khó nhà nước trong việc dựng chính sách».
«Chính sách» của nhà nước ẩn hiện quan các bài viết này đấy! Học
giả Việt Nam bỏ công nghiên cứu làm chi nữa, mọi việc đã an bài.
Phía Trung Quốc thì giảng giải luật theo ý của họ (và tập quán quốc
tế). Qui chế về đảo theo điều thứ 121 của Luật Quốc tế về Biển 10
tháng 12 năm 1982 như sau:
1. Une île est une étendue naturelle de terre entourée d’eau
qui reste découverte à marée haute.
2. Sous réserve du paragraphe 3, la mer territoriale, la zone
contiguë, la zone économique exclusive et le plateau continental d’une
île sont délimités conformément aux dispositions de la Convention
applicables aux autres territoires terrestres.
3. Les rochers qui ne se prêtent pas à l’habitation humaine ou
à une vie économique propre, n’ont pas de zone économique exclusive ni
de plateau continental.
(1/ Ðảo là một dải đất tự nhiên, có nước bao bọc chung quanh và
không bị nước phủ lúc thủy triều lên. 2/ Một đảo có lãnh hải [lãnh địa
hải phận], vùng tiếp cận, vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa
riêng, ngoại trừ điều kiện ghi dưới phần 3. 3/ Những bãi đá [cồn đá]
mà người ta không thể sinh sống, hoặc tạo một nền kinh tế tự tại thì
không có vùng kinh tế độc quyền cũng như không có thềm lục địa).
Với định nghĩa như thế mọi người có thể suy diễn theo ý của mình về
thế nào là đảo. Một kiến nghị đưa lên Liên hiệp Quốc nhằm phân biệt
đảo, nội dung như sau:
- Đá (rocks) có diện tích nhỏ hơn 0,001 hải lý vuông
- Đảo nhỏ (islets) có diện tích 0,001 - 1 hải lý vuông
- Đảo vừa (isles) có diện tích 1 - 1.000 hải lý vuông
- Đảo lớn (islands) có diện tích trên 1.000 hải lý vuông
Như thế đảo là những thứ nhô lên mặt biển có diện tích khoảng trên
1km².
Nhưng cũng có nhiều trường hợp ngoại lệ. Một thí dụ: Năm 1955, Nữ
hoàng Anh đã ra lệnh cho hải quân cắm cờ, dựng bia chủ quyền trên Rock
All rộng 3 m vuông, cao 21 m, để tuyên bố vùng đặc quyền về kinh tế
xung quanh Rock All là 200 hải lý. Mặc dầu hiện nay Anh đã rút lại đòi
hỏi về hải phận ZEE nhưng về thềm lục địa họ vẫn giữ nguyên tuyên bố
200 hải lý quyền khai thác.
Các đảo TS, hầu hết đều lớn hơn đảo Rock All, có đảo có nước ngọt
và cây cối, hơn nữa đây là một «quần đảo», tọa lạc trên một vùng biển
có diện tích rất lớn, chiều Bắc Nam dài hơn 500 Km, chiều Ðông Tây dài
hơn 1.000 km, chiếm khoảng 160.000 km2, ước nào có chủ quyền ở đây (và
HS) đương nhiên chiếm lĩnh cả Biển Đông, vì biển giữa quần đảo được
xem gần như là nội hải. Theo Luật Biển 1982: Quốc gia quần đảo có chủ
quyền với vùng nước, vùng trời và vùng đáy và lòng đất tương ứng cũng
như tài nguyên ở đó.
Kết quả hôm nay BP rút lui, ExxonMobil bỏ cuộc, trong khi dư luận
quốc tế đứng về phía Trung Quốc. Các bản đồ Atlas trên thế giới hiện
nay hầu hết đều cho là HS&TS là của Trung Quốc, đặc biệt có ghi chú
công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng công nhận TS&HS thuộc Trung Quốc.
Thái độ rút lui của BP và ExxonMobil càng làm cho tư thế của Trung
Quốc thêm vững tại Biển Đông. Điều dễ hiểu, nếu Trung Quốc có chủ
quyền ở TS thì họ có quyền lên tiếng phản đối và đe dọa, nếu cần họ sử
dụng vũ lực mà không ai có thể can thiệp, nếu Việt Nam khai thác tại
các lô 5.2 và 5.3 hay vũng Nam Côn Sơn và bãi TC-VM, là các vùng có
chồng lấn ZEE của các đảo TS.
Đảo Trường Sa của Việt Nam, nằm gần bãi Tu Chính - Vũng Mây hội đủ
các điều kiện về đảo để có vùng ZEE và thềm lục địa. Nếu đảo này thuộc
Trung Quốc, đương nhiên Việt Nam phải phân định hải phận với Trung
Quốc để chia vùng biển này.
Lý lẽ của Trung Quốc hiện nay là như thế mà họ không nói ra. Trung
Quốc úp úp, mở mở trong bản đồ chữ U, các học giả Việt Nam lần mò đi
theo giải mã, đi lý giải luật biển theo lối tự sướng, thật là một việc
mất thì giờ.
Sự việc sẽ đơn giản nếu ta chịu khó giải thích Luật Biển theo lối
Trung Quốc và theo tập quán quốc tế.
Vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở TC-VM vì thế tùy thuộc vào ai là
chủ quyền của các đảo TS.
Nói như ông Dương Danh Huy «Thật ra, theo luật quốc tế, giả sử
như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp đi
nữa, thì vùng Tư Chính - Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn nằm ở phía
bắc ranh giới với Indonesia vẫn thuộc về Việt Nam» là nói theo
lối uống thuốc an thần, là vừa dọn sân để nhà nước làm bàn thờ «cống»
TS cho Trung Quốc, vừa để mất bãi Tu Chính - Vũng Mây.
Tóm lại, Việt Nam muốn có chủ quyền vùng trũng Nam Côn Sơn và bãi
Tu Chính - Vũng Mây thì Việt Nam phải khẳng định chủ quyền của mình
tại TS. Không cách nào khác hơn được vì Việt Nam đã có bằng chứng
không thể chối cãi về chủ quyền của mình ở HS và TS.
Nhưng Trung Quốc cũng có bằng chứng không thể chối cãi là công hàm
của ông Đồng công nhận hai quần đảo này là của Trung Quốc.
Các học giả Việt Nam nói cho nhau nghe là công hàm này không có giá
trị pháp lý nhưng quốc tế đâu có nghe như vậy!
Trở lại bài viết của tôi mới đây về «ý
nghĩa pháp lý của công hàm ông Phạm Văn Đồng», tôi đã
thấy sự việc từ lâu, trước dư luận thế giới công hàm ông Đồng có giá
trị về pháp lý (hay tuyên truyền), dư luận hiểu và nhìn nhận HS&TS là
của Trung Quốc. Mặc dầu không muốn nói nhưng cuối cùng tôi phải nói.
Vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam mà tôi nói, không thể để trễ hơn.
Tôi nói để các học giả Việt Nam thận trọng, qua những dấu hiệu vừa
thấy, nhà nước Việt Nam sắp buông tay tại HS và TS.
Thời hạn chót nộp hồ sơ thềm lục địa mở rộng là ngày 13 tháng 5,
chỉ còn không đến hai tháng nữa. Nhiều bài viết lên tiếng yêu cầu Việt
Nam công bố hồ sơ thềm lục địa mở rộng, nhưng việc quan trọng không
phải kêu gọi Việt Nam phải nộp cho đúng thời hạn, vì rất thừa, nhà
nước Việt Nam biết mình phải làm gì, quan trọng là nội dung hồ sơ đó
như thế nào! Trong số các bài viết đó, có vài bài tính cách như dọn
sân để nhà nước Việt Nam làm lễ triều cống HS và TS cho Trung Quốc hơn
là khuyến cáo nhà nước có một hồ sơ vững chắc, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của Việt Nam.
Một
trong các bài viết theo lối dọn sân đó của ông Dương Danh Huy, dựa (?)
trên thèse của ông Marc Valencia người Phi Luật Tân, thì các nước chia
đôi với nhau Biển Đông theo Luật Biển, các đảo HS&TS chỉ có lãnh hải
12 hải lý mà không có vùng kinh tế độc quyền ZEE 200 hải lý. Viết như
thế cũng là một hình thức uống thuốc an thần và cũng là một hình thức
tự bắn vào chân mình. Bắn vào chân vì HS và TS là của Việt Nam, đương
nhiên các đảo này phải có hiệu lực theo định nghĩa của Luật Biển chứ
tại sao chỉ có lãnh hải 12 hải lý mà không có ZEE 200 hải lý? Nhưng có
biết rằng Trung Quốc giải thích các đảo này như thế nào và tập quán
quốc tế ra sao?
Nếu thông minh hơn thì xét lại bản đồ luật biển của Phi Luật Tân
vừa công bố. Các đảo TS của Việt Nam mà họ giành lấy, ngoài khoanh
vàng trong khoanh xanh, có ghi chú: Regime of Islands. Qui chế của các
đảo được Luật Biển 1982 định nghĩa theo điều 121 có ghi trên. Như thế
Phi Luật Tân đâu loại trừ vùng biển ZEE của các đảo, đặc biệt vùng
biển ở giữa các đảo? Luật biển nào cấm việc này?
Kết luận
Nếu vụ khai thác Bô-xít hiện nay tại Tây Nguyên là nguy hại cho
Việt Nam về môi trường và địa-lý chiến lược, thì việc để mất HS&TS cho
Trung Quốc thiệt hại còn lớn gấp ngàn lần; vì đó là vùng sinh tồn của
các thế hệ Việt Nam trong tương lai.
Nhà nước Việt Nam không thể công bố bất kỳ hồ sơ nào hay một tuyên
bố nào có ảnh hưởng đến chủ quyền của Việt Nam tại HS và TS qua hồ sơ
thềm lục địa mở rộng sắp tới. Sẽ là một tội phạm trời đất không dung
thứ nếu nhà nước Việt Nam bỏ HS&TS cho Trung Quốc hay có những tuyên
bố có hàm ý như thế. Công việc của nhà nước ngày hôm nay là làm các
việc cần thiết để giải độc công hàm của ông Phạm Văn Đồng. Công việc
của trí thức Việt Nam là thảo luận rốt ráo các ngõ ngách của luật lệ
để vô hiệu hóa công hàm của ông Đồng. Bài viết của tôi về hiệu lực
pháp lý của công hàm này đang chờ sự phản biện nghiêm túc từ các học
giả Việt Nam. Chạy trốn nó là chạy trốn một sự thật: dư luận thế giới
đã công nhận HS&TS của Trung Quốc là do hiệu lực của công hàm 14 tháng
9 năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng.
Tài liệu tham khảo
- Sổ tay pháp lý cho người đi biển do Tuần Việt Nam tóm
lược và đăng tải 16-03-2009. Sách do Bộ Ngoại giao, Ban Biên giới
Chính phủ và NXB Chính trị Quốc gia phát hành, năm 2002.
http://www.tuanvietnam.net/Việt
Nam/nghexemdoc/sachhaynendoc//6509/index.aspx
- Bản đồ của Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Dương Danh Duy công bố
(minhbien.org). Bản đồ đính kèm luật biển Phi Luật Tân, nguồn Tuần
Việt Nam.
- Atlas des Atlas, Courrier International, 2008
- 20 ans de jurisprudence de la Cour internationale de
justice, 1975-1995, Par Brigitte Stern, Edition: illustrated,
Publié par Martinus Nijhoff Publishers, 1998, ISBN 9041111220,
9789041111227.
- Luật Quốc tế về Biển 1982
© 2009 Trương Nhân Tuấn
© 2009 talawas blog