
Địa
chiến lược Tây nguyên (mở
lớn) |
Những người tự giác quan tâm đến việc nước đã có những phút hồ hởi,
thở phào nhẹ nhõm khi được đọc những dòng này trong “
Thông báo Kết luận số 245- TB/TW, ngày 24/4/2009 của Bộ Chính trị về
Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai
đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025 ”:
- “ Phát triển ngành công nghiệp khai thác bauxite, chế biến
alumin, nhôm phải bảo đảm lợi ích trước mắt, lâu dài và bền vững của
đất nước; có bước đi thích hợp, từ nhỏ đến lớn, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái,
an ninh, quốc phòng ”.
- “ Tây Nguyên là khu vực nhạy cảm, cần đặc biệt quan tâm đến
vấn đề an ninh, quốc phòng cho cả trước mắt và lâu dài, đến môi trường
tự nhiên và môi trường văn hóa ”.
- “ Tiếp thu các ý kiến đúng đắn của các đồng chí nguyên lãnh
đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học, Ban cán sự đảng
Chính phủ chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế-xã hội của cả nước và khu vực Tây Nguyên trong
từng thời kỳ; gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, bảo đảm an sinh xã
hội, phù hợp với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế để đạt hiệu
quả toàn diện ”.
- “ Riêng Dự án Nhân Cơ, cần rà soát lại toàn bộ các vấn đề có
liên quan, nhất là việc đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi
trường, nếu thực sự có hiệu quả và bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi
trường thì mới tiếp tục triển khai thực hiện ”.
- “ Việc lựa chọn công nghệ là một nội dung quan trọng; yêu cầu
là phải sử dụng thiết bị và công nghệ hiện đại trên thế giới ”.
- “ Chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước
ngoài; sử dụng lao động trong nước ”
- “ Ban cán sự đảng Chính phủ chuẩn bị báo cáo vấn đề này với
Ban Chấp hành Trung ương trong kỳ họp giữa năm 2009 và chỉ đạo việc
chuẩn bị báo cáo Quốc hội trong phần báo cáo về kinh tế - xã hội năm
2009 ”.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân dù phê phán một cách rất rụt rè: “ Như
nhiều người, tôi cũng đã mong đợi Kết luận của Bộ Chính trị được đưa
ra sớm hơn, bởi một lẽ dĩ nhiên, ra sớm hơn sẽ tốt hơn ”, nhưng cũng
đã hoan nghênh: “ Nhưng điều chính yếu là các ý kiến phản biện đã được
lắng nghe và nhờ vậy đã có những điều chỉnh quan trọng ”.
Vậy mà, phút hồ hởi vui tin này tuồng như chỉ rất ngắn ngủi và đã qua
đi khi chỉ vài ngày sau đó, trên hệ thống truyền thông, báo chí của
Đảng, thấy xuất hiện nhiều bài viết, nhiều bản báo cáo, nhiều thuyết
trình … hoá giải hầu hết các huấn thị trên kia.
Hóa ra, người ta bảo rằng họ đã am tường từ trước, đã làm đúng đắn
từ trước tất cả rồi, Bộ Chính trị không nắm được gì nên cứ “ Khổ lắm,
biết rồi, nói mãi ! ”.
Song, thực tế thì sao ?
*
Thứ trưởng
Bộ Công Thương
Lê Dương Quang
nói:
“
Trong lĩnh vực sản xuất alumina - nguyên liệu luyện nhôm thì tất cả
các nhà sản xuất lớn trên thế giới đều áp dụng công nghệ Bayer, đã
được khẳng định qua gần 100 năm nay. Hiện nay, Mỹ, Úc, Pháp đều áp
dụng công nghệ này. Ý kiến cho rằng công nghệ lựa chọn đưa vào Nhân Cơ
và Tân Rai không phải công nghệ gốc, công nghệ nguồn là không xác
đáng. Chưa kể, suốt bao nhiêu năm qua, công nghệ này đã được cải tiến,
nâng cấp, được hoàn thiện hơn. Cả 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai đều lựa
chọn công nghệ Bayer hòa tách bauxite ở nhiệt độ 145 độ C – áp suất 5
atm cho hiệu suất hòa tách đạt 85,5% và hiệu suất thu hồi alumina toàn
bộ đạt 83,6%”
- Tiến sỹ Nguyễn Thanh Sơn nói: “
Nhìn chung, bôxit của Tây Nguyên thuộc loại “phong hóa”, khác bôxit
thuộc loại “sa khoáng” về nguồn ngốc địa chất. Như vậy, công nghệ và
kinh nghiệm của nhà thầu về bôxit sa khoáng khác với công nghệ và kinh
nghiệm về bôxit phong hóa. Chất lượng quặng bôxit: có ảnh hưởng rất
quyết định đến tính khả thi về mặt kinh tế cũng như tính cạnh tranh
của công nghệ được lựa chọn. Nhìn chung, công nghệ Bayer được áp dụng
cho loại bôxit có chất lượng cao, có hàm lượng SiO2 thấp. …Theo đánh
giá chung, chất lượng bôxit của VN thuộc loại thấp, So với bôxit của
các nước trên thế giới, bôxit của Tây Nguyên thuộc loại chất lượng
thấp nhất, đòi hỏi phải có thêm công đoạn tuyển rửa quặng nguyên khai
để tăng modun silic, vì vậy tính cạnh tranh khi sử dụng công nghệ
Bayer cũng là thấp.”.
* Những người được hưởng
lợi lớn từ Dự án Khai thác Bôxit Tây Nguyên ở
Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản
Việt
Nam (TKV) nói: “
Hiện nay công ty chúng tôi đã tận thu được hơn 1,3 triệu tấn quặng
bôxit. Tùy theo khu vực, có những nơi quặng nằm lộ thiên, có những nơi
quặng nằm dưới lớp đất dày 0,5-3m. Chúng tôi dùng xe máy bốc hết lớp
đất trên mặt đi, sau khi khai thác hết quặng bên dưới sẽ trả lại lớp
đất về chỗ cũ và đảm bảo đất sẽ tốt hơn khi chưa khai thác quặng.
- Nhưng thực tế thì: tại Bảo Lộc ( Lâm Đồng ) có một mỏ bôxit
nhỏ đã được khai thác hàng chục năm nay. Diện tích bị đào bới lên tới
36ha nhưng sau khi khai thác, chỉ 2ha trong số được hoàn thổ. Đất hoàn
thổ ở đây cũng chỉ thấy trồng bạch đàn và keo, song ngay cả hai loại
cây này cũng phát triển kém.
* Thông báo Kết luận số 245- TB/TW, ngày
24/4/2009 của BCT nêu: “ Phát triển ngành
công nghiệp khai thác bauxite, chế biến alumin, nhôm phải bảo đảm lợi
ích trước mắt, lâu dài và bền vững của đất nước; có bước đi thích hợp
”
- Một Hội thảo khoa học nghiêm túc do GS.
NGND Nguyễn Văn Chiển, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam,
Chủ nhiệm chương trình Tây Nguyên I chủ trì, có sự tham gia của một số
nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh tế có uy tín như: Nhà văn Nguyên
Ngọc ; GS.TSKH Đặng Trung Thuận, Chủ tịch Hội Địa hóa Việt Nam ; GS.TS
Trần Nghi, Chủ tịch Hội trầm tích, tổng Hội Địa chất VN ; GS.TS Phạm
Duy Hiển, Nguyên Viện trưởng Viện Hạt nhân Đà Lạt ; PGS.TS Khổng Diễn,
Nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học ; PGS.TS Hà Huy Thành, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền vững, Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam ; PGS.TS Trần Đình Thiên, Quyền Viện trưởng Viện Kinh tế
Việt Nam... đã khẳng định: “ Việt Nam không nên quá vội vã trong việc
khai thác Bauxit và xây dựng các nhà máy sản xuất Alumin để xuất khẩu,
bởi giá trị của Alumin chỉ bằng 12% giá trị của Nhôm kim loại. Bauxit
là tài nguyên không tái tạo, khi khai thác và sử dụng thì nó sẽ vĩnh
viễn mất đi vì thế chúng ta không nên vội vàng lãng phí tài nguyên mà
hãy để dành Bauxit đến khi có điều kiện (điện năng, công nghệ…) để sản
xuất thành các sản phẩm có giá trị cao như nhôm và các sản phẩm nhôm.
Bài học kinh nghiệm từ ngành than cho thấy sau bao nhiêu năm khai thác
và xuất khẩu, đến nay Việt
Nam đã phải tính đến việc nhập khẩu 3,5 triệu tấn than
/ năm từ
Indonesia ”.
Lại nữa, vì biết rằng quá trình oxy hóa của nhôm
kim loại sẽ giải phóng một lượng nhiệt cực lớn, các nhà khoa học coi
nhôm kim loại là vật tích năng lượng tiềm ẩn vô giá. Công nghệ nano
nhôm đang được tích cực nghiên cứu triển khai. Bột nano nhôm được xếp
đầu bảng về năng lực phản ứng và hiệu quả tích năng lượng cao. Chỉ vài
ba thập kỷ nữa, khi công nghệ nano nhôm phát triển mạnh thì chính
bôxit Tây Nguyên sẽ là nguồn năng lượng dự trữ khổng lồ cứu vãn tình
hình đói năng lượng cho nước ta khi dầu mỏ, than … đều sẽ cạn kiệt.
Cho nên, muốn “
bảo đảm lợi ích trước mắt, lâu dài và bền vững của đất nước ” thì
chưa nên xúc tiến đề án khai thác bôxit Tây Nguyên một cách
ồ ạt như đang bắt đầu triển khai..
Tinh thần “ Dân biết, dân bàn ” dấy lên mạnh mẽ như
vừa qua, đã đóng góp cho các nhà lãnh đạo những ý kiến hết sức xác
đáng với đầy trí tuệ và tâm huyết nhẽ ra phải được những người lãnh
đạo cao nhất chân thành cảm ơn và nhiệt liệt biểu dương
Trớ trêu sao, người ta lại chỉ thị mở chiến dịch
phản kích họ một cách rất tàn nhẫn !
- Báo Nhân Dân, số ra ngày 26-4-2009 đăng: “
Cần cảnh giác và có thái độ rõ ràng, kiên quyết với những mưu toan
chính trị hóa vấn đề của các thế lực thù địch, thiếu thiện chí, muốn
chia rẽ nội bộ chúng ta; xuyên tạc sự thật, lợi dụng những tình cảm
thiêng liêng trong trái tim, khối óc mỗi người để kích động hòng thực
hiện những mưu đồ xấu xa của họ ”.
- Tờ Tuần Việt Nam đăng: “ Chúng ta không thể đồng tình và cần
cảnh giác với lối phản biện có tính chất chia rẽ xã hội, thù địch và
hằn học của những kẻ tiểu khí nhằm thỏa mãn những toan tính vụ lợi cá
nhân, vì xét cho đến cùng đó chỉ là lối phản biện “té nước theo mưa“
rất vô trách nhiệm và không có hiệu quả.”
- Báo cáo của Bộ Công Thương viết: “ Cả ba nội dung trong kiến
nghị ( do giáo sư Nguyễn Huệ Chi, GSTS Nguyễn Thế Hùng, nhà giáo Phạm
Toàn khởi xướng, đã thu thập được trên hai vạn chữ ký ) đều không có
cơ sở và không đúng tình hình thực tế. Hoàn toàn mang tính bịa đặt và
kích động”. “Điều đáng buồn là các nhà khoa học, do thiếu thông tin,
lại ký vào một bản kiến nghị sai trái như vậy.”
- Thứ trưởng
Lê Dương Quang
quy chụp các người phản biện là: “Rất kém xây dựng, hoàn toàn dựa trên
những thông tin sai lệch, dựng chuyện, trầm trọng hóa, thậm chí mang
tính kích động và bị các tổ chức phản động lợi dụng ”.
Không kể các nhà báo có thể là được thuê viết, phát biểu của ông Lê
Dương Quang phải được đánh giá là hàm hồ và hỗn xược. Chẳng nhẽ bao
nhiêu tên tuổi như: đặc đẳng công thần Võ Nguyên Giáp; những trí thức
lão trượng như Nguyên Ngọc, Nguyễn văn Chiển, Hoàng Tụy, Trần Văn Khê,
Nguyễn Trung …; những lão tướng cách mạng như Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng
Sỹ Nguyên …; những nhà khoa hoc trứ danh như Nguyễn Thanh Sơn, Phan
Đình Diệu, Chu Hảo, Lê Văn Cương, Hà Sỹ Phu, Nguyễn Quang A, Lê Đăng
Doanh …; những nhà văn, nhà báo nổi tiếng như Dương Tường, Bùi Minh
Quốc, Trần Văn Thủy, Hoàng Hưng, Phạm Đình Trọng, Lê Phú Khải …; những
trí thức giầu lòng yêu nước đang ở nước ngoài như Ngô Bảo Châu, Ngô
Vĩnh Long, Trần Văn Thọ, Trịnh Xuân Thuận, Vũ Quang Việt …. cùng hàng
trăm, hàng vạn người đã đứng tên trong các bản Kiến nghị đề ngày 3
tháng 3 năm 2009 và Kiến nghị đề ngày 17 tháng 4 năm 2009 không đủ làm
cho ông thứ trưởng hậu sinh này dù không còn đức khiêm tốn vẫn cần
phải biết nghiêm túc lắng nghe và thận trọng trước khi nói sao ? !
Cũng thật đáng tiếc là ngay cả giáo sư Nguyễn Ngọc Trân dù biết thừa
nhận “ những ý kiến lạc lõng này chỉ càng làm sáng hơn các phản biện
xây dựng và khách quan ” vẫn nói như để trả ơn những ai đã cơ cấu mình
vào làm đại biểu Quốc hội: “ trong thời gian qua, bên cạnh những ý
kiến phản biện tâm huyết và khoa học của các giới, đã có những phát
biểu mang tính xuyên tạc của một số người muốn lợi dụng vấn đề bô-xít
để kích động, chia rẽ dân tộc ”! ( Có thể đúng như giáo sư nói: “
đã có những phát biểu mang tính xuyên tạc của một số người muốn lợi
dụng vấn đề bô-xít để kích động, chia rẽ dân tộc ”, tuy nhiên số ý
kiến như thế có là bao và đáng kể gì )
Thật ra thì, không ai lạ gì cái ngón nghề sở trường này của nhà cầm
quyền. Mồi khi bị búa dìu dư luận chĩa mũi nhọn phê phán quyết liệt
vào, họ thường vẽ ra một bóng ma ghê rợn để hù dọa nhân dân, đồng thời
dùng đó vừa làm khiên chắn cho họ, vừa để đánh lạc mục tiêu.
Trong khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành khẩn hứa sẽ trình Quốc hội
các dự án khai thác bôxit ở Đak Nông và Lâm Đồng thì chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Phú Trọng lại phủi bỏ: "Dự án Nhân Cơ có tổng vốn đầu tư hơn
600 triệu đôla, chưa thuộc dự án phải đặt dưới sự giám sát của Quốc
hội.".
Là chủ cơ quan lập pháp của Nhà nước nhưng phải chăng ông Trọng
không nhớ rằng theo Nghi quyết của Quốc hội, bất cứ dự án, công trình
quan trọng quốc gia nào thuộc về một trong năm tiêu chí sau đây thì
đều phải được Quốc hội duyệt xét:
:
1 - Quy mô vốn đầu tư từ hai mươi nghìn tỷ đồng Việt
Nam
trở lên đối với dự án, công trình có sử dụng từ ba mươi phần trăm vốn
nhà nước trở lên.
2 - Dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc
tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường
3 - Dự án, công trình phải di dân tái định cư từ hai mươi
nghìn người trở lên ở miền núi, từ năm mươi nghìn người trở lên ở các
vùng khác.
4 - Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng
đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh hoặc có di tích quốc gia có
giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử, văn hóa.
5 - Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách
đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.
Dự án Khai thác Bôxit Tây Nguyên không rơi vào điều quy định số 1
nhưng vào điều 2 và điều 4.
Trong buổi tiếp xúc với cử tri quận Ba Đình ngày 4 tháng 5 vừa qua,
ông Trọng còn quả quyết rằng: chủ trương khai thác bôxit ở Tây
Nguyên "đã được thống nhất trong các Nghị quyết 9, 10 của
Đảng ".
Ông Trọng đã ngụy biện !
Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX còn ghi đó: “ Khai
thác chế biến các loại khoáng sản: phát triển công nghiệp khai thác
bôxit, luyện alumin và chế biến nhôm theo một trong hai phương án: sản
xuất 300 nghìn tấn/năm alumin để điện phân 75 nghìn tấn nhôm sử dụng
trong nước; sản xuất 1 triệu tấn alumin cho xuất khẩu, giai đoạn sau
nâng lên 3 triệu tấn. Đầu tư khai thác và tuyển quặng đồng, khai thác
inmênit, đá quý, vàng, đất hiếm; xây nhà máy luyện kẽm Thái Nguyên,
luyện đồng ở Lào Cai ”.
Không hề nói khai thác bôxit ở Tây Nguyên, càng không hề nói phải
đưa Trung Quốc vào Tây Nguyên.
Vậy mà trong chuyến đi Trung Quốc năm 2008 tổng bí thư Nông Đức Mạnh
đã thỏa thuận:
“
Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp
tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp
chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và
các lĩnh vực quan trọng khác. Hai bên tăng cuờng hợp tác trong các dự
án như: Bôxit Đắc Nông, các dự án trong khuôn khổ “ Hai
hành lang, một vành đai kinh tế” và các dự án lớn khác. Hai bên khẳng
định tăng cường hợp tác trong các cơ chế kinh tế khu vực, liên khu vực
và quốc tế như Tổ chức Thương mại thế giới ”.
Sao ông Nông Đức Mạnh lại làm như vây !
Trước khi quyết định mời Trung Quốc vào làm bôxit ĐakNông ông đã bàn
kỹ ở Trung ương chưa ? Đã tham khảo ý kiến các nhà khoa học chưa ? Đã
thông qua Quốc hội chưa?
Cho nên người ta thấy đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc đã nén một
tiếng thở dài, nghẹn ngào thốt lên: chuyện ấy đã an bài !
Có ai đó đặt câu hỏi: ông Mạnh đã bị lừa, hay đã bị mua ? hay là cả
hai ?
Không bị lừa thì không thể nào lại dại dột như thế !
Bị mua thì có thể bằng cả hai giá. Cái giá chính trị: lời hứa bảo vệ
ngai vàng. Và cái giá tài chính không biết là bao nhiêu ?
( Dân gian truyền tụng: ” Theo Tàu mất nước, theo Mỹ mất Đảng ”. Khẩu
lệnh “ thiên đình”: “ Trung với Đảng ” ( chứ không phải “ Trung với
Nước ” như lời Hồ chủ tịch ). Có nghĩa là thà mất Nước chứ quyết không
để mất Đảng ! Mất Tổng Bí thư tức là mất Đảng chăng? ).
Vậy là ông Mạnh đã đặt Đảng vào thế kẹt của “ chuyện đã rồi ”. Làm
theo lời khuyến dụ chân chính để bảo vệ quyền lợi Tổ quốc thì Tổng Bí
thư thất hứa với Bắc triều. E rằng, vần đề không chỉ là danh dự và uy
tín.
Cho nên, chẳng cần bàn thảo thêm nữa làm gì. Như tiếng “ Sát Thát ”
ngày nào, toàn dân Việt Nam hãy hô xé trời khẩu lệnh này: “
Không được cho Trung Quốc vào Tây Nguyên!”
“ Không được cho Trung Quốc vào Tây Nguyên ”, bởi đã thêm một lần ta
nghe lời căn dặn thiết tha hôm thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm Võ
đại tướng nhân kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ: “ Rất
mong các đồng chí lưu tâm đến chuyện khai thác bôxit Tây Nguyên. Đây
là địa điểm chiến lược quan trọng của đất nước, có ý nghĩa quan trọng
về quốc phòng an ninh không chỉ với Việt Nam mà cả với Đông Dương
“.
Tây Nguyên đã từng là hậu cứ giúp vua Quang Trung chống quân Thanh và
từ đây tấn công đè bẹp Chiêm Thành khi người ta muốn tạo thế gọng kìm
giúp nhà Thanh quấy phá nước ta.
Tây Nguyên đã tạo thế chân kiềng kết nối ta với các nước bạn Lào và
Campuchia trong suốt mấy cuộc kháng chiến vừa qua.
Tây Nguyên đã khởi đầu cuộc tháo chạy của quân đội Mỹ và mở màn cho
chiến dịch dẫn đến đại thắng 1975.
Các nhà quân sự Pháp đã đánh giá: “Tây Nguyên là xương sống Việt Nam
và là chỗ dựa không gì hơn của đất nước này. Nếu mất nó là Việt Nam
mất nước, nếu giữ vững nó thì không kẻ thù nào có thể đánh bại được họ
”.
Vậy mà, ai không thể không giật mình thảng thốt khi nghe thiếu tướng
PGS TS Lê Văn Cương, đương kim viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học
Công an thông báo: “ Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn
ở tỉnh Munbunkiri, sát biên giới tỉnh Đắc Nông với thời gian 99 năm và
Trung Quốc đã làm chủ các dự án lớn ở tỉnh Atapư, cực nam của Lào,
giáp với Việt Nam và Campuchia ( tại Ngã Ba Đông Dương ) ”.
Và, thiếu tướng cảnh báo khẩn thiết: “ Đây là hậu họa khôn lường đối
với an ninh quốc gia. Không rõ những người quyết định cho Trung Quốc
vào Tây Nguyên có biết điều này không ? ”.
Người ta không chỉ lo lắng mà còn rất nghi ngại. Đúng như tâm trạng
của nhà văn Nguyên Ngọc: “ Theo tôi, người ta vẫn giữ ý định của người
ta muốn làm vì do những áp lực hay do những cái gì đấy … cho nên cái
thông báo ( ngày 24/4/09 của BCT ) nó cũng phản ánh một sự dằng co. “.
Không nghi ngờ sao được khi, cho đến 24 tháng 4 năm 2009 Bộ Chính trị
còn thông báo: “ Chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân
nước ngoài; sử dụng lao động trong nước ”, vậy mà cờ quạt, biểu ngữ
Trung Quốc đã trưng đỏ Tây Nguyên.
Người ta bảo số Trung Quốc mới kéo vào Tây Nguyên chỉ khoảng 600 nhưng
có nguồn tin cho biết đã lên tới hàng ngàn. Phóng viên báo Nhân Dân ở
Tân Rai viết trong báo cáo: “ Hầu hết số lao động Trung Quốc
đang có mặt tại công trình là lao động phổ thông ”.
Chính trung tướng Đồng Sỹ Nguyên cũng vô cùng bức xúc: “ Tại sao có
chuyện dự án nước ngoài thắng thầu và đưa lao động phổ thông của nước
họ vào làm việc ngang nhiên tại Việt Nam, kể cả trường hợp không có
giấy phép lao động ? ”.
Người Việt Nam rất nể trọng nước Trung Hoa láng giềng khổng lồ đã từng
sớm có nền văn minh cổ đại huy hoàng; cũng rất yêu một dân tộc tài
hoa, cần mẫn đã từng có lúc chia ngọt sẻ bùi, nhưng trước những hành
vi xâm lấn không chỉ Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa,
mà cả thác Bản Giốc, suối Phi Khanh ( Mục Nam Quan ) …. với thái độ
trịch thượng, bằng những thủ đoạn vừa quỷ quyệt, vừa đê tiện thì không
thể không cảnh giác và sẵn sàng đối phó.
Nhưng, không hiểu sao người ta lại lén lút đưa Trung Quốc vào Tây
Nguyên và khẩn trương kiến tạo con đường cao tốc rộng rãi nhất, hiện
đại nhất Việt Nam dẫn thẳng từ Trung Quốc đến thủ đô Hà Nội ?
Đất nước này thực ra đã và đang chịu sự “ đô hộ mềm “ của Trung Quốc
qua huấn thị: “ Việt Nam không nên sốt sắng gia nhập WTO ” ( mà
phải để cho Trung Quốc vào trước đã ). Huấn thị này được cơ quan
tình báo Hoa hải ngọai truyền qua Báo cáo của Bộ Quốc phòng ( thực
chất là của Tổng cục II ) tại Hội nghị Quân ủy Trung ương mở rộng ngày
24 tháng 8 năm 2004. ( Vì những huấn thị kiểu như thế, mặc dù thủ
tướng Phan Văn Khải đã sang đến New Zeeland chuẩn bị ký kết thỏa ước
Việt Nam-Hoa Kỳ, mở đường cho Việt Nam vào WTO, vẫn bi TBT Lê Khả
Phiêu điện sang bắt phải đình hoãn. Cho nên, đâu phải chỉ Mỹ can thiệp
vào nội bộ Việt Nam ! ).
Qua cái gọi là cùng chung ý thức hệ. Qua các hội nghị, hội thảo song
phương Trung-Việt về Văn hóa-Tư tưởng-Lý luận.
Qua chủ trương: “ Hai bên cùng lập nhiều cơ chế hợp tác giữa các bộ,
ngành, giữa các địa phương giáp biên giới hai nước, đặc biệt là cơ chế
Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương để chỉ đạo và điều phối sự hợp tác
Việt Nam-Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực ” ( Thông cáo chung Việt
Nam - Trung Quốc nhân chuyến thăm của tổng bí thư Nông Đức Mạnh cuối
tháng 5 năm 2008 ).
Qua “ Đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo ”… ( Có người còn bảo Trung
Quốc tác động cả vào cơ cấu nhân sự cấp cao của ta, cụ thể như trường
hợp Nguyễn Chí Vịnh ).
Trong bài viết đăng trên tập san Tổ Quốc số 63, luật sư Trần Lâm nêu
kiến nghị giải pháp tách ĐCSVN làm 2. Tạm hình dung là sẽ có một Đảng
Tiến Bộ và một Đảng Bảo Thủ. Sáng kiến này kể ra rất hay. Có điều e
ngại là ngộ nhỡ xẩy ra tình trạng Đảng Tiến Bộ dồn Đảng Bảo Thủ vào
thế sống còn thì có thể chăng sẽ có lời mời, và … xe tăng, thiết giáp
Trung Quốc sẽ rầm rập trên đường cao tốc hiện đại nhất Việt Nam kia để
không chỉ đến Hà Nội mà còn nhanh chóng phối hợp cùng cánh quân Trung
Quốc Tây Nguyên tiến qua Sài Gòn. ( không cần lập căn cứ địa đầu
tiên ở Thanh Hóa quê tôi như bản kế hoạch tác chiến đã công bố trên
các mạng Trung Quốc hồi năm ngoái ).
Julius Fuxik đã từng tha thiết: “ Nhân loại hỡi, tôi yêu tất cả mọi
người, các bạn hãy cảnh giác ”.
Không phải chỉ thế hệ trẻ cần thức tỉnh. Hỡi các bạn già chúng ta, dù
sức tàn lực kiệt, hãy cứ vẫn phải mang tinh thần dũng sỹ mà soi xét,
mà suy ngẫm và sẵn sàng hành động.
Sự tưởng tượng kỳ quái kia mong sao chỉ là hoang tưởng. Nhưng, không
thể không đề phòng, không thể không sẵn sàng, bởi thực tế trước mắt đã
cho ta thấy chỉ riêng chuyện bôxit thôi mà ta đã phải đặt vấn đề “
Bôxit, hay vận mệnh đất nước ”.
Hà Nội 9 tháng 5 năm 2009
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Điện thoại: 35 534 370 |