Vén màn bí mật,
quặng bauxite hay uranium?
-
PSN - 16.08.2009 | Mai Thanh Truyết
Trong
hiện tại, chúng ta có thể nói một cách chính xác và không sợ phản biện
là những người lính Tàu dưới dạng công nhân đang hiện diện đầy rẫy
trên quê hương Việt Nam của chúng ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau,
giống như mọi quốc gia trên thế giới như Tây Tạng, Tân Cương, Phi
Châu…những nơi có dấu chân TC khai thác các công trình quặng mỏ hay
những công ty sản xuất khác tại những nơi nầy.
Cộng sản Việt Nam cũng như Trung Cộng (TC) cũng không thể nào chối cải
được nhận định trên. Tại Việt Nam, người Trung hoa dù dưới dạng công
nhân hay chuyên viên, mỗi khi vào một công ty nào đó đều sinh hoạt
hoàn toàn riêng rẽ, nói chuyện với nhau bằng tiếng Hán mà thôi. Họ xây
dựng lều trại làm nơi ăn ở, giải trí và có cuộc sống hoàn toàn cách
biệt với các cộng sự viên người Việt. Thậm chí, mỗi khi có tranh cãi,
họ ăn hiếp, đánh đập công nhân Việt. Thật không có gì nhục nhã cho
bằng hiện tượng nầy xảy ra ngay chính trên mãnh đất quê hương của mình
mà cán bộ hay công an cố tình làm ngơ trước những nghịch cảnh trên.
Những khu biệt lập nầy có thể nói rằng do TC hoàn toàn quản lý mọi
sinh hoạt, không có người “lạ” nào hay cán bộ, công an Việt Nam có thể
bén mãn đến được, mặc dù những công ty họ làm việc, đa số đều do người
Việt quản lý.
Cho đến hôm nay, những tệ trạng trên tiếp tục diễn ra ở khắp mọi nơi,
tạo nên một luồn sóng phẩn uất trong lòng người Việt, và thiết nghĩ
những người công nhân lương thiện nầy sẽ có ngày đứng lên dành lại
quyền công nhân thực sự và sẽ không để công nhân TC hiếp đáp mãi mãi
được.
Những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra ở những quốc gia có người
Hán xâm nhập, đôi khi đi đến đổ máu như ở Tân Cương, Tây Tạng, và gần
đây nhứt tại thành phố Alger, Algeria, qua những nguyên nhân hết sức
cá nhân, nhưng từ đó xảy ra những cuộc đụng độ có tích cách chủng tộc
vì sự hống hách, ức hiếp của người Hán trên mãnh đất quê hương của
ngườui bản xứ.
Trờ lại Việt Nam, riêng tại hai vùng hiện đang là điểm nóng ở Việt
Nam; đó là Tân Rai ở Lâm Đồng và Nhân Cơ ở Đắk Nông. Hai nơi nấy hiện
đang được TC phát động kế hoạch khai thác quặng mỏ bauxite từ hơn một
năm nay dưới sự đồng thuận của CS VN. Sau khi không thể bưng bít được
từ hơn 6 tháng nay, cs VIỆT NAM đã phải bạch hoá công bố hai công
trình trên mặc dù đã ký kết với TC từ năm 2001 giữa Nông Đức Mạnh và
Hồ Cẩm Đào qua quá nhiều áp lực của đông đảo từng lớp dân chúng ở quốc
nội cũng như ở hải ngoại cảnh báo về hiễm hoạ từ môi trường, kinh tế,
chính trị, và quân sự nếu để cho TC khai thác hai vùng nầy.
Nhưng trầm trọng hơn cả là trong việc nhường bước cho TC khai thác, cs
VIỆT NAM để lộ ra tinh thần quốc tế vô sản (?) (mà bây giờ đã biến
thành tinh thần quốc tế hữu sản chăng?) trong việc hợp tác với TC. Và
đây cũng có thể được xem như là một tiến trình then chốt của việc
tiến chiếm Việt Nam không tiếng súng của TC.
Ngay từ giờ phút nầy (8/2009), đã có sự hiện diện của trên 570 công
nhân TC ở Tân Rai và trên 300 ở Nhân Cơ. Đây là những con số do chính
Ủy Ban nhân dân ở hai tỉnh trên công bố. Thiết nghĩ, con số thực sự
chắc phải cao hơn nhiều.
Có nhiều câu hỏi được đặt ra cho tình trạng nhân sự TC ở hai địa điểm
trên là, tại sao họ có mặt hơn một năm qua mà vẫn chưa hoàn tất việc
chuẩn bị mặt bằng cho cơ xưởng, giải quyết các vụ đuổi nhà, chiếm cứ
các vườn trồng cây công nghiệp của dân như trà, cà phê, cao su v.v…mà
chỉ lo xây dựng láng trại và nhà ở cho công nhân và chuyên viên cùng
những dịch vụ sinh hoạt khác như giải trí riêng biệt và cách ly hoàn
toàn với thế giới bên ngoài bằng hàng rào được thiết lập chung quanh?
Đây là một tiến độ côngb trình rất chậm so với số lượng nhân công hiện
có và thời gian thi công. Và điều nầy đang làm ngạc nhiên cho những
nhà quan sát có kinh nghiệm về hoạt động công trường.
Từ đó, câu hỏi khác được đặt ra là, họ có thực tâm đến đây để khai
thác quặng mỏ bauxite hay không?
Hay là họ có những dự tính thâm độc nào khác mà việc khai thác
quặng mỏ bauxite chỉ là Diện để chứng minh sự có mặt của họ, và
trọng tâm chính của họ là Điểm, là khai thác một công trình bí
mật nào khác?
Để trả lời và khơi mở một số nghi vấn trên, cũng như qua đề tựa của
bài viết, người viết xin lần lượt tạo dựng ra nhiều giả thuyết qua các
thông tin có được để từ đó chứng minh sự hiện diện và hành động của TC
trên mãnh đất quê hương Việt Nam.
Việc
khai thác quặng mỏ Uranium
Cao nguyên Trung phần Việt Nam là một phần của cao nguyên Bolloven.
Nơi sau nầy là một vùng đất bazan, chuyển hoá từ phún xuất thạch của
núi lửa hàng triệu năm qua. Do đó, hàm lượng phóng xạ của vùng đất nầy
rất cao so với các vùng đất tự nhiên khác. Và sác xuất có quặng mỏ
Uranium cũng rất cao.
Để có khái niệm về việc khai thác quặng mỏ Uranium, sau đây là quy
trình sơ lược dựa theo các nguyên tắc căn bản đang được sử dụng trên
thế giới. Thông thường quặng Uranium có được là do sự phối hợp của hai
chất đồng vị (isotope) Uranium: Uranium 235 và Uranium 238. U 238
được xem như là đồng vị nặng vì có 3 electron nhiều hơn U
235 . Chính U 235 mới đích thực là tác nhân tạo ra
nguồn năng lượng cho nhân loại và thông thường có trữ lượng trong hỗn
hợp quặng mỏ là 0,7% mà thôi.
Việc khai thác gồm:
-
Quặng Uranium trong thiên nhiên cần phải được tách rời hai đồng vị
238 và 235;
-
Sau đó Uranium 235 sẽ được tinh luyện hay làm giàu (enrich) để đạt
được nồng độ Uranium cần thiết để ứng dụng trong nhiều mục tiêu khác
nhau.
Việc
tinh luyện Uranium gồm 3 phương pháp: ly tâm, khuếch tác vật lý, và
dùng tia laser. Các quốc gia như Pakistan, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên hay
Iran vẫn còn đang áp dụng phương pháp cổ điển là ly tâm. Trong lúc đó,
ở các quốc gia phát triển khác như Hoa Kỳ và Tây Âu, hai phương pháp
sau được dùng đến vì có hiệu quả và năng suất cao hơn. Muốn chế tạo ra
bom nguyên tử, ít nhứt, nồng độ của Uranium cần phải đạt được là 80%.
Đối với các nồng độ thấp hơn, tuỳ thuộc vào những ứng dụng khác nhau
trong việc dùng trong các nhà máy phát điện nguyên tử hay các hệ thống
an toàn trong một số dịch vụ thật chính xác trong quy trình sản xuất
mà con người không đủ khả năng để điều chỉnh bằng tay hay mắt được.
Trung
Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc
Đây là một trung tâm nghiên cứu về nguyên tử và phóng xạ được người
Pháp xây dựng từ giữa thập niên 50 ở thế kỷ trước. Hiện nay, Trung Tâm
vẫn còn hoạt động. CS VIỆT NAM dùng Trung tâm nầy để sản xuất các dụng
cụ, hệ thống sensor để kiểm soát hay vận hành những khu vực hiểm yếu
trong các công nghệ mhư khai thác mỏ than, hay các thiết bị kiểm soát
trên tàu bè, cũng như trong các lãnh vực kiểm soát các valve an toàn
về áp suất hay nhiệt độ, hoặc điều chỉnh một cách chính xác việc thay
đổi điều kiện trong các quy trình sản xuất. Quan trọng hơn cả là việc
ứng dụng vào các valve an toàn khi có vấn đề cấp bách trong vận hành
để hạn chế hay tránh tai nạn.
Hiện tại, Việt Nam đang nhập cảng nguyên liệu phóng xạ từ nước ngoài.
Câu hỏi được đặt ra nơi đây là, tại sao người Pháp cho lấp đặt Trung
Tâm nầy tại Đà Lạt vào thời điểm trên, trong khi quốc lộ 20 nối liền
Sài Gòn và Đà Lạt chỉ là một con lộ thô sơ, chưa được tráng nhựa đẩy
đủ?
Phải có điều gì bí ẩn khiến cho họ thành lập Trung Tâm nầy?
Để trả lời hai câu hỏi trên, phải chăng là họ muốn xây dựng Trung Tâm
gần nơi vùng có phóng xạ để nghiê cứu, thăm dò, và khai thác nguồn
nguyên liệu phóng xạ tại chỗ?
Ngược dòng lịch sử, trong giai đoạn chiếm đóng ngắn ngũi của Nhât Bổn
vào thế chiến thứ hai, họ cũng đã gởi nhiều phái đoàn địa chất để thăm
dò vùng nầy. Và trong thời gian chiến tranh Mỹ-Việt, nhiều phái đoàn
nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng đi lại thường xuyên trên vùng Bolloven nầy.
Nhưng tất cả đều được giữ bí mật. Không có một báo cáo khoa học nào
công bố về vấn đề trên hay cho biết vùng đất nghiên cứu có chứa nguồn
nguyên liệu phóng xạ Uranium hay không?
Giả thuyết về sự hiện diện của TC trong vùng Cao nguyên
Trung phần
Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto,
Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau
khi họp với đối tác là Việt Nam rằng, Công ty đã đồng ý trên nguyên
tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt
Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn
nguyên liệu phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật.
Chính nhờ đó mới có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam
với các đối tác khác. Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên
liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ
bauxite để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa.
Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là
210 ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là
0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium
ở mỏ than Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng
độ trung bình với oxid uranium ở Cao nguyên.
Qua hai thông tin trên, một lần nữa có thể cho chúng ta có một kết
luận một cách xác tín là với mức độ quan trọng về nguồn nguyên liệu
nầy khiến cho nhiều quốc gia như Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ đã biết trước
nhưng không công bố mà thôi vì điều kiện an ninh của Việt Nam trong
thời chiến lúc bấy giờ không cho phép.
Ngày hôm nay, TC đã biết và thay vì đến Việt Nam để khai thác nguồn
nguyên liệu quý giá về phương diện quốc phòng nầy, họ đã đánh lận con
đen để nói tráo qua việc khai thác quặng mỏ Bauxite.
Với hàm lượng oxid uranium kể trên, có thể ly trích và khai thác được
hàng trăm Kg Uranium có nồng độc cao có thể ứng dụng vào trong kỹ nghệ
quốc phòng và quân sự.
Thêm nữa có hai chi tiết sau đây để củng cố giả thuyết về việc TC đang
bí mật chuẩn bị việc khai thác quặng mỏ Uranium:
-
Mỏ than Nông Sơn đã được VNCH khai thác từ năm 1961, và vẫn được vận
hành từ đó đến nay, và hoàn toàn không có tai nạn nào xảy ra ở TQ.
TC với tư cách nào và với lý do gì đã đem trên 200 chuyên viên
vào nơi đây từ 6 tháng qua?
-
Một phần cao nguyên Bolloven nằm trên địa phận Lào đã được TC thuê
mướn trong vòng 50 năm?
Hai chỉ dấu sau nầy chính là cái chìa khóa để mở toang cánh cửa bí mật
giữa cs VN và TC trong việc khai thác quặng mỏ Bauxite ở Cao nguyên
Trung phần Việt Nam.
Việc khai thác nầy chỉ là Diện để che mắt thế giới, và Điểm chính là
việc tìm kiếm, khai thác, ly trích và tinh luyện chất phóng xạ Uranium
để làm tăng lợi khí “cường quốc” của Hán tộc.
Và đây mới là điểm then chốt của tham vọng quyền lực của TC với
sự đồng thuận của đảng cộng sản Việt Nam.
Ảnh hưởng của việc khai thác quặng mỏ Uranium
Đứng về mặt môi trường, quy trình khai thác quặng mỏ Uranium tương đối
phát thải phế thải ít hơn và dễ bảo quản cũng như kiểm soát hơn việc
khai thác bauxite. Tuy hai công trình đều đem đến sự hủy diệt thảm
thực vật ở miền Cao nguyên nầy, nhưng đứng về hiệu quả kinh tế, phát
triển quốc gia, cũng như quốc phòng, việc khai thác Uranium chiếm
nhiều ưu thế hơn cả. Lý do là trong vòng 10 năm nữa Việt Nam sẽ đưa
vào hoạt động hai nhà máy phát điện nguyên tử tại Ninh Thuận, cho nên
việc khai thác Uranium nầy có thể là nguồn cung cấp nguyên liệu cho
nhà máy, và Việt Nam có được tính chủ động không tùy thuộc vào nước
ngoài để có thể bị áp lực của các quốc gia cung cấp nguyên liệu phóng
xạ trên.
Thêm một điểm cần lưu ý là, nếu Việt Nam chủ động và làm chủ được
nguồn nguyện liệu quan trọng và hiếm quý nầy, vị trí của Việt Nam trên
thương trường quốc tế sẽ được bảo đảm cũng như tư thế chính trị cũng
sẽ được nâng cao vì nguyên liệu nầy sẽ là một yếu tố quyết định trong
các mặc cả trong nhiều lãnh vực nhứt là quốc phòng đối với những quốc
gia khác trên thế giới.
Thay lời kết
Qua những nhận định vừa nêu trên, giả thuyết về việc khai thác quặng
mỏ Uranium ở Cao nguyên Trung phần và ở Nông Sơn có tính xác tín rất
cao. Và giả thuyết nầy lại là một lý giải cho sự hiện diện của những
người lính dưới dạng công nhân ở hai nơi nầy.
Nếu suy nghĩ trên trở thành hiện thực, người Việt quốc gia ở quốc nội
và hải ngoại phải làm gì trước những diễn biến đang xảy ra trên quê
hương?
Một điều không thể chối cải được là tiến trình Hán hóa Việt Nam của TC
đã thể hiện rất rõ ràng. Đây là một tiến trình tiệm tiến giống như
trường hợp của Tân Cương và Tây Tạng.
Ngay sau khi chiếm đóng Trung Hoa lục địa, và nhứt là lợi dụng tình
trạng còn lõng lẽo của Hội Quốc liên, tiền thân của Liên Hiệp quốc
thời bấy giờ (1949), Mao Trạch Đông vội vàng chiếm đóng quốc gia Tây
Turquistan và đổi tên thành Tân Cương, cũng như chiếm Tây Tạng vào năm
1959.
Tiếp theo sau, chính sách Hán hóa bắt đầu thực hiện bằng cách cho
người Hán nhập cư vào hai nơi nầy để rồi lần lần đồng hóa bằng những
cuộc hôn nhân dị chủng. Hồ Cẩm Đào, ngày nay vẫn tiếp tục chương trình
trên và kết quả hiện tại là dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính
quê hương mình, và dân Tân Cương chỉ còn chiếm 42% trên tổng số tại
nơi đây.
Qua hai diễn biến lịch sử kể trên, Việt Nam chắc chắn sẽ nằm trong
“tầm bắn” của TC trong chính sách nầy trong một tương lai không xa.
Hẳn chúng ta còn nhớ, vào những tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa,
hai món hàng dầu hỏa và quặng mỏ Uranium ở Cao nguyên đã được chính
quyền thời bấy giờ mặc cả với nhiều quốc gia đối trọng khác nhau ngõ
hầu cứu vãn miền Nam, nhưng bị thất bại. Và ngày hôm nay, nguy cơ
nguồn nguyên liệu quốc phòng nầy sẽ lọt vào tay TC rất cao.
Chính vì thế, một trong những việc làm cấp bách hôm nay là phải cảnh
báo cho thế giới biết rõ âm mưu của TC về việc khai thác quặng mỏ
Uranium ở Cao nguyên và Nông Sơn, để từ đó mượn áp lực chính trị và
kinh tế của thế giới để đình chỉ việc khai thác trên.
Nếu không, TC, một khi làm chủ được nguồn nguyên liệu nầy sẽ mọc “thêm
râu thêm cánh” và ngang nhiên tung hoành như đi vào chỗ không người.
Tinh thần Hán tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng của TC càng
được đẩy mạnh thêm lên qua quyển Tân Biên Sử mới của TC mà biên giới
gốm thâu cả vùng Đông Nam Á, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật
Tân, Nam Bắc Hàn v.v…
Bằng bất cứ giá nào, người Việt khắp nơi sẽ không để nguồn nguyên liệu
nầy lọt vào tay TC. Nếu không, Việt Nam sẽ biến thành một vùng tranh
chấp quốc tế và thảm họa sẽ khó lường trong tương lai một khi đã có
tranh chấp.
Việc liên kết với các quốc gia ASEAN trong giai đoạn nầy để tạo hậu
thuẫn trong các cuộc tranh chấp với TC là một trong những điềiu kiện
tối cần thiết trong lúc nầy. Cũng cần phải nói thêm là việc kết đoàn
với Ấn Độ, một đối lực ngang ngữa với TC cũng là việc nên làm. Ấn
Độ cũng vừa có một quyết định sáng suốt trước hiễm hoại TC là chấm dứt
hợp đồng xây dựng đường ống dẫn dầu khí xuyên qua Ấn Độ, Miến Điện và
Vân Nam (TQ). Đây là bước ngăn chặn có hiệu quả nhứt trước sự bành
trướng của TC.
Sư kết đoàn giữa quốc nội và hải ngoại, giữa Việt Nam và quốc tế rất
cần thiết trong lúc nầy vì chính đảng Cộng sản Việt Nam đã bất lực một
khi để sự việc kể trên xảy ra cho đất nước trong lúc họ có khả ngăn
chặn từ lúc đầu.
Lịch sử Việt Nam sẽ không quên tội ác kể trên!
Mai Thanh Truyết
08/2009
Ghi chú: Tin giờ chót, Theo báo Thanh Niên ngày 6/8/2009, Ông
Trần Xuân Hương, Bộ trưởng Bộ Môi trường & Tài nguyên vừa công bố ngày
4 tháng 8 là Việt Nam quyết định thăm dò và khai thác quặng mỏ
Uranium ở Nông Sơn, ước lượng có trữ lượng 8.000 tấn quặng oxid
uranium U3O8. Việc khai thác nầy chia làm hai đợt cho đến 2020.. Đối
với một số địa điểm khác, ông cũng có nêu tên tỉnh Lâm Đồng nhưng
không nói cụ thể như trường hợp Nông Sơn cũng như tên Đắk Nông cũng
không được nhắc tới. Phải chăng đây là hai vị trí cấm kỵ vì còn nằm
dưới chiêu bài khai thác quặng mỏ bauxite của TC?
Và Ông cũng cho biết là đã ký Biên bàn ghi nhớ (Memorendum of
Understanding) với Ấn Độ trong việc nghiên cứu và định hướng về công
nghệ áp dụng cho việc khai thác quặng mỏ Uranium trên.