Tai
nạn trong sản xuất hóa chất độc hại,
Bài học từ thảm nạn Bhopal
-
PSN - 5.12.2009 |
Mai Thanh Truyết
Vào khoảng giữa đêm rạng
ngày 3/12/1984, trên thành phố Bhopal (Ấn Độ) với 800.000 cư dân, có
một đám mây xám che phủ kín bầu trời. Đám mây trên chính là kết quả
của một vụ nổ nhà máy sản xuất hoá chất diệt côn trùng của một chi
nhánh công ty Union Carbide, Hoa Kỳ. Chỉ trong vòng vài ngày sau đó,
hơn 5.000 người bị thiệt mạng và ước tính từ 200 đến 600.000 người
khác bị thương tật. Nhà máy tức thời bị đóng cửa hoàn toàn.
Đây là một nhà máy sản xuất hoá diệt côn trùng có tên là Carbaryl, và
được tung ra thị trường dưới tên thương mãi là Sevin. Tên hoá học của
Carbaryl là 1-Naphthyl-N- Methyl Carbamate, có công thức
C10H7OOCHNCH3. Đây là một loại thuốc diệt côn trùng ở dạng bột. Con
người có thể bị nhiễm độc qua đường tiêu hoá và khí quản, hoặc do hấp
thụ qua da. Giới hạn nguy hiểm trong không khí là 5mg/m3.
Nguyên do vụ phát nổ
Vụ nổ xảy ra tại một bồn chứa số 610 trong đó có chứa 40 tấn nguyên
liệu chính để sản xuất hóa chất trên. Đó là Methylisocyanate (MIC).
Nguyên do vụ nổ như sau:
Không biết bằng cách nào mà 500 lít nước đã xâm nhập vào bồn chứa
trên, và tạo thành một phản ứng phát nhiệt mạnh. Do đó, áp suất trong
bồn tăng nhanh đẩy khí MIC thoát ra ngoài và làm nổ tung các khóa áp
suất an toàn. Hệ thống cấp cứu và báo động trong trường hợp khẩn cấp
không hoạt động. Và sau cùng khoảng 4 tấn MIC dưới dạng khí thoát ra
ngoài không khí che phủ nửa thành phố Bhopal. Thảm nạn nầy đã làm chấn
động thế giới về sự an toàn lao động và nguy cơ tai nạn xảy ra trong
việc sản xuất các hóa chất độc hại.
Có thể nói tai nạn ở Bhopal là kết quả của nhiều nguyên nhân gọp lại.
Đó là tổng hợp của nhiều lỗi lầm do con người, do tổ chức quản trị nhà
máy, do công nghệ, và do cả quy chế pháp lý. Nhà máy hoàn toàn không
có quy định cũng như huấn luyện nhân viên trong trường hợp khẩn cấp.
Chính vì lý do nầy mà con số nạn nhân quá cao so với mức độ tai nạn đã
xảy ra. Thêm nữa, mức an toàn lao động cũng như việc bảo quản các máy
móc định kỳ hoàn toàn bị quên lảng trong nhiều tháng qua.
Ngay sau khi tai nạn xảy ra, một ủy ban điều tra phối hợp từ nhà máy
mẹ ở Hoa Kỳ và địa phương được thành lập và ngay sau đó đã khám phá ra
những nguyên do kỹ thuật như sau:
- Hệ
thống đo nhiệt độ và áp suất trong khu vực chứa MIC không hoạt động;
- Hệ thống làm trung hòa bồn chứa MIC để phòng ngừa khí nầy thất thoát
vào không khí cũng ở vị trí đóng vì còn đang sửa chữa. Ngay cả nếu hệ
thống nầy hoạt động cũng không ngăn được lượng khí MIC thoát ra ngoài
vì khối lượng khí quá lớn không thể làm lạnh ngay được;
- Tháp đốt có mục đích thiêu hủy MIC trong trường hợp khí nầy thoát
qua khỏi hệ thống trung hòa cũng ở vị trí ngưng hoạt động vì cần phải
thay thế vài bộ phận;
- Hệ thống nước phun xịt có mục đích trung hòa các khí thoát ra ngoài
không khí không đủ mạnh để có thể phun xịt đến đỉnh tháp đốt;
- Sau cùng, hệ thống báo động không hoạt động do đó không có dấu hiệu
khẩn cấp khi áp suất trong bồn tăng cao.
Trên thực tế bồn chứa số 610 nầy dùng để chứa lượng MIC dư thừa, chứ
không phải là một bồn chứa nguyên liệu chính. Đây là một điểm sai sót
lớn nhất trong quy trình sản xuất.
Sau gần 20 năm kiện tụng, Tối cao Pháp viện Ấn Độ mới vừa ban hành bản
án ngày 19/7/04 trong đó số nạn nhân đã qua đời kiểm kê được là 3.000
người và con số thương tật lên đến 578.000 người; và số tiền bồi
thường là 330 triệu Mỹ kim mà công ty Union Carbide phải gánh chịu.
Còn nhớ vào năm 1989, Union Carbide đã phải chi 470 triệu Mỹ kim cho
gia đình của 3.000 nạn nhân đã qua đời và 105.000 người bị thương tật.
Mặc dù chấp thuận bồi thường nhưng công ty Union Carbide vẫn giữ vững
lập trường là tai nạn Bhopal chỉ là một vụ phá hoại mà thôi.
Vấn đề được đặt ra nơi đây là mức an toàn lao động và tiêu chuẩn môi
trường (environmental standards) có được tuân thủ và áp dụng cho những
nhà máy sản xuất hóa chất độc hại ở các quốc gia đang phát triển hay
không? Cũng như trách nhiệm xã hội và dân sự của công ty mẹ có trụ sở
ở các quốc gia kỹ nghệ một khi tai nạn xảy ra?
Những diễn biến sau tai nạn Bhopal
Trường hợp
Bhopal là một thí dụ điển hình đã tạo ra nhiều nguồn dư luận đối
nghịch về việc chuyển dời công nghệ hóa chất đến một quốc gia đang
phát triển. Và việc chuyển tải công nghệ nầy đã chứng minh sự thất bại
của việc toàn cầu hoá trong lãnh vực công nghệ.
Lập luận nầy khó đứng vững, vì ngay chính trong nội địa của các quốc
gia hậu kỹ nghe, tai nạn vẫn có thể xảy ra như trường hợp một chi
nhánh của công ty Union Carbide tại West Virginia vào năm 1988. Do sự
rò rỉ và thất thoát tại một cơ xưởng sản xuất thuốc sát trùng thuộc
nhóm carbaryl giống như ở Bhopal làm cho 135 công nhân phải vào bịnh
viện tuy không có nạn nhân nào bị thiệt mạng cả.
Do đó câu kết luận chính xác ở đây, là cho dù vị trí của nhà máy sản
xuất ở bất cứ nơi nào trên thế giới, tại một quốc gia đang phát triển
hay tại một nước hậu kỹ nghệ, tai nạn vẫn có thể xảy ra. Đó là do lỗi
lầm của con người. Vấn đề ở đây là làm thế nào để giảm thiểu những sơ
suất, lỗi lầm của con người tối đa. Và tai nạn xảy ra tại Bhopal là
một bài học lớn, đã khơi động sự chú ý của toàn thế giới vì tính cách
trầm trọng của nó. Robert Roland, Chủ tịch Hội đồng Hoá học Hoa Kỳ
(American Chemistry Council-ACC) đã nhấn mạnh là tai nạn có thể xảy ra
bất cứ nơi đâu, do đó, các công ty mẹ cần phải cảnh giác tối đa như
tăng cường các biện pháp an toàn lao động trong vận hành.
Trường hợp Bhopal đã làm thức tỉnh các đại công ty trên thế giới và họ
phải vận dụng tối đa công nghệ an toàn lao động và công tác nầy được
xếp vào hàng thiết yếu trên cả việc quản lý nhà máy. Việc lấp đặt
nhiều hệ thống song hành để tăng cường mức an toàn lao động là một
điều cần thiết. Và sau cùng, biện pháp phòng ngừa để có thể ngăn chặn
tai nạn của các nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu rầy tương tự như ở
Bhopal là thay đổi phương cách vận hành và nguyên liệu có thể gây ra
tai nạn như MIC không còn được lưu trử gần nhà máy nữa, và chỉ được
chuyển đến nhà máy khi có nhu cầu sản xuất trong ngày mà thôi.
Do đó, 20 năm sau tai nạn ở Bhopal, công nhân các nhà máy làm việc
tương đối an toàn hơn; tuy nhiên, cũng vẫn không thể ngăn chặn được
hoàn toàn tai nạn có thể xảy ra.
Chuyển hướng sản xuất
Để giải quyết tận gốc những tai nạn trong các nhà máy sản xuất hóa
chất độc hại, nhiều khoa học gia liên tưởng đến việc áp dụng hóa học
xanh vào công nghệ nầy, nghĩa là thay thế các dung môi hữu cơ (organic
solvent) và nguyên liệu hóa chất là những chất dễ cháy, dễ nổ khi có
một sự thay đổi nhiệt độ hay áp suất bằng những công nghệ sạch. Hay
tối ưu hơn nữa, là áp dụng những công nghệ trong đó quy trình sản xuất
không cần đến các hóa chất có nguy cơ gây ra tai nạn. Và sau cùng, các
công nghệ áp dụng phương pháp vi sinh, hay vi-hóa sinh ngày càng được
chú ý nhiều hơn nữa. Vì hai phương pháp sau nầy hạn chế tôí đa tai nạn
có thể xảy ra trong sản xuất.
Dù muốn dù không, con người dù có vận dụng trí não cao siêu đến đâu đi
nữa, tai nạn vẫn có thể xảy ra vì nguy cơ vẫn có thể đến do sự sơ suất
của nhân công trong nhà máy. Vì vậy, để có thể hạn chế được tai nạn
trong các nhà máy sản xuất hóa chất độc hại, ngoài những biện pháp an
toàn tối đa, yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định trong vận hành.
Ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác vẫn là hai biện pháp phòng
ngừa tai nạn hữu hiệu nhất trong các nhà máy.
Trong tình hình thế giới sôi động sau cuộc khủng bố 911 tại Hoa Kỳ,
yếu tố nhân sự là điều mà lãnh đạo của các đại công ty cũng như chính
quyền liên quan cần phải lưu ý để có thể làm giảm thiểu tối đa nguy cơ
phá hoại vì những lý do chính trị không chính đáng.
Điểm dương tính của bài học Bhopal hôm nay là giúp cho thế giới chú
trọng nhiều hơn nữa về sự an toàn lao động và bảo vệ sức khỏe công
nhân hơn là chú tâm vào vào việc tăng năng suất và lợi nhuận.
Mai Thanh Truyết