Lộc Uyển du
ký 5
-
PSN 13.10.2011 | Chân Thiện Uyển
1 | 2 |
3 | 4
| 5
Búp Sen thương mến,
Hôm nay là ngày
20/9/2011, ngày cuối của khóa tu. Thông thường bao giờ ngày cuối cùng
của khóa tu đều có lễ truyền Năm Giới cho thiền sinh. Có một số người
thắc mắc là sao không gọi là Quy Y mà chỉ nói là thọ Năm Giới? Sư cô
Chân Không giải thích rằng: Mình đang ở Mỹ, ở Tây phương nên đa số
thiền sinh đều có gốc rễ đạo Chúa, đạo Tin Lành, đạo Do Thái, đạo Hồi,
v.v... và rất ít người có gốc rễ đạo Phật nên mình chỉ truyền Giới để
họ có thể tiếp nhận mà hành trì. Nếu phải Quy Y và Thọ Giới thì những
ngưới khác tôn giáo sẽ e ngại. Và như vậy là họ sẽ mất cơ hội thực
hành Năm Giới quý báu. Và người ta cũng không bị bắt buộc phải nhận
trọn Năm giới cùng một lúc. Tuỳ theo khả năng và sở nguyện người ta có
thể nhận một, hay hai, ba, hoặc bốn, hoặc cả năm giới cùng một lúc.
Mẫu đơn xin Thọ Giới có khoản ghi mình xin thọ giới nào. Có 5 ô vuông
nhỏ đánh dấu từ 1 tới 5 ai muốn thọ giới nào thì đánh dấu vào ô tương
ứng. Rất là tiện lợi, nó giúp thiền sinh cơ hội lựa chọn cho phù hợp
với hoàn cảnh thực tế của mình. Sự linh động này thật là hay.

Sáng nay Sư Ông làm chủ lễ trong buổi truyền Năm
Giới Quý Báu. Giọng đọc của Sư Ông trầm ấm và vang dội, nếu ai không
biết Sư Ông thì có lẽ họ sẽ không tin đây là giọng của một ông già 85
tuổi. Chị ngồi yên lắng lòng nghe từng câu từng chữ của Sư Ông, chị
như muốn ghi lại tất cả hình ảnh nơi thiền đường, lời kinh tiếng kệ
của tăng đoàn, không gian Lộc Uyển... bởi vì hôm nay là ngày cuối của
khóa tu, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thôi là chị phải rời khỏi Lộc
Uyển rồi.
Có khoảng trên 100 người thọ giới, đa số là người
trẻ. Nhìn các các bạn quỳ
trước đại chúng nghe đọc giới, chị thấy vui các em ạ, rồi đây sẽ có thêm
hằng trăm người biết nương theo giới luật mà hành trì, họ sẽ có con
đường đi, có thể họ cũng sẽ biết cách đứng vững trước "phong ba bão
tố" của cuộc đời phải không các em?
* * *
Mở đầu cho bài pháp thoại Sư Ông hỏi đải chúng vài
câu làm cho không khi vui hẳn lên.
Hôm qua quý vị hỏi thầy nhiều câu, bây giờ thầy
muốn hỏi quý vị vài câu, bốn câu thôi mà phải trả lời cho thiệt (đại
chúng cười), nếu có thì giơ tay thẳng lên, không giơ nữa chừng.
Câu 1. Ai đã từng yêu rồi giơ tay lên.
Rất nhiều cánh tay đưa lên, Sư Ông nói: khá!
(lại cười.)
Câu 2. Ai chưa biết yêu là gì? (cười).
Chắc có ít người giơ tay nên Sư
Ông nói: "tội nghiệp chưa", đại chúng cười nhiều hơn nữa.
Câu 3. Ai đang còn yêu?
Sư Ông nói: Cũng khá đó! (cười).
Câu 4. Trong khóa tu này ai đã mở cửa được trái tim?
Sư Ông nói: Làm ăn cũng khá
(cười ồ).
Thật ra nếu không yêu thương làm sao sống được. Trên thế giới có rất
nhiều người tự tử, những người đó không có khả năng xử lý cảm xúc
mạnh, là người tu phải học cách xử lý niềm đau nỗi khổ của mình, trong
đó có những cảm thọ khó chịu, đau thương và những cảm xúc lớn như giận
hờn, tuyệt vọng, con người được làm bằng nhiều yếu tố, có hình hài, có
cảm thọ, cảm xúc, tri giác, nhận thức và tâm thức, đó là 5 yếu tố làm
ra con người: Sắc thọ, tưởng, hành, thức. Cảm xúc làm mình tự tử là
một phần nhỏ tí teo thôi, tại sao mình phải tự tử vì cái nhỏ bé như
vậy? mình phải dạy cho người trẻ làm thế nào để xử lý cảm xúc đó, cảm
xúc là cái gì nó tới, ở lại một thời gian rồi nó đi, vậy tại sao phải
chết vì cảm xúc? đó là tuệ giác mình cần phải có. Khi cảm xúc mạnh tới
thì mình phải nhận diện bó, mình có thể ngồi thật vững hoặc nằm, bắt
đầu thở vào để ý thức sự phòng xẹp của bụng, thở vào bụng phồng lên,
thở ra bụng xẹp xuống, không suy nghĩ, chỉ để ý đến chuyện thở thôi,
mình có thể vượt qua. Cứ như vậy sau 3 tuần sẽ thành thói quen, khi
cảm xúc tới thì mình vượt qua một cách dễ dàng.
Trong khi uống trà thì tôi có mặt thật sự, muốn có mặt thật sự thì chỉ
cần theo dõi hơi thở, đem cái tâm trở về với thân, thân tâm nhất như
thì mình có mặt thì ly trà đó là thực tại. Dừng lại là bí quyết của
thiền, dừng lại, sống thật và sống sâu sắc ngồi uống mà uống như thế
nào để trong suốt thời gian đó mình có hạnh phúc. Khi đi thiền hành từ
lều của mình lên thiền đường là một bữa tiệc, mỗi bước chân là có thể
thưởng thức được tại sao phải đi như ma đuổi, tại sao lên thiền đường
mới tập thiền, tập thiền ngay từng bước đầu tiên ngay ở lều của mình,
mỗi bước chân thảnh thơi như vậy là một bài thuyết pháp linh động và
đó là tình yêu đích thực.
Đức Thế Tôn có dạy bốn loại thực phẩm, mình phải sử dụng 4 loại thực
phẩm đó cho khôn khéo và có chánh niệm thì mình có thể làm hạnh phúc
cho mình và cho người.
1. Đoàn thực: Thức ăn đưa vào bằng miệng, chỉ ăn những gì đem lại bình
an, làm thế nào mà khi ăn không tiêu diệt tình người, không tiêu diệt
tình thương trong tim mình, vì không có tình thương thì không có hạnh
phúc, người không có tình thương là người không biết cảm thông và là
người đau khổ nhất. (Sư Ông có kể vài câu chuyện có liên quan).
2. Xúc thực: Đưa vào bằng đường mắt, đường tai, mũi. Ví dụ, xem ti vi
đó là xúc thực, nó có thể có độc tố như đam mê, thèm khát, bạo động,
có những phim đầy rẫy độc tố, nếu mình coi, các con mình coi là mình
tiêu thụ độc tố đó. Trong khi chuyện trò cũng thực tập chánh niệm, đừng
nói, đừng nghe những gì tưới tẩm hạt giống hận thù, bạo động, tuyệt
vọng nơi mình và nơi người khác.
3. Tư niệm thực: là cái mong muốn, ước vọng, lý tưởng, cái gì mình cầu
mong nhiều nhất, cái nguồn năng lượng cho mình nhiều sức sống. Thái tử
Sỉ Đạt Ta có tư niệm thực, có lý tưởng muốn tu tập giải thoát, có trí
tuệ, có từ bi để giúp đời, đó là tư niệm thực của Ngài. Các thầy các
sư cô cũng có tư niệm thực, đi tu để giúp đời, làm thế nào để cho
nguồn tư niệm thực được liên tục, được nuôi dưỡng, đó là bồ đề tâm, là
ý chí. Nếu bồ đề tâm bị xói mòn thì cho dù vẫn còn mặc áo thầy tu
nhưng cũng coi như chết rồi, cho nên phải tiếp tục nuôi dưỡng bồ đề
tâm. Phải xem tư niệm thực của mình là gì, nếu tư niệm thực là danh,
là sắc dục thì tư niệm thực đó không tốt, có biết bao người chạy theo
đối tượng của đam mê, nào là quyền thế, là danh vọng, những người đó
làm tiêu hoại hình hài, tâm thức của họ. Nếu mình muốn đem truyền bá
đạo giải thoát giúp con nít không bị lạm dụng, giúp cho vợ chồng không
bị ly tán, làm thế nào cứu hành tinh của mình, đó là tư niệm thực tốt
và nên nuôi dưỡng nó, còn nếu tư niệm thực đưa đến khổ đau thì ta nên
chấm dứt.
4. Thức thực: Thức là năng lượng của tập thể, khi đến dự một khóa tu,
sống trong năng lượng của niệm, định, tuệ, từ bi là mình được nuôi
dưỡng vì người nào cũng có tư niệm thực tốt, có tình thương, mình có
thể lớn lên được trong đời sống tâm linh ấy. Có những môi trường sống
đầy hận thù, tuyệt vọng, sân si, một đám người sống chung như vậy thì
chế tạo ra một năng lượng tập thể tiêu cực. Cho nên vùng mình ở nếu có
năng lượng tập thể xấu thì mình phải tìm cách ra khỏi đó nếu không
mình và con mình sẽ giống như họ, mình đi về hướng xấu mà mình không
biết cho dù mình có hạt giống tốt, hạt giống tốt đó không được tưới
tẩm mà hạt giống hận thù, bực bội càng ngày càng được tưới tẩm. (Sư
Ông cho ví dụ về mẹ của nhà triết học Mạnh Tử).
Nếu ở trong vùng cư xá có nhiều người biết tu học, biết làm việc lành,
khi ở chung với những người đó mình được hưởng năng lượng tập thể rất
lành mạnh, đó là việc xây dựng tăng thân làm chỗ nương tựa cho nhiều
người. Mình nên quán chiếu 4 ngồn thực phẩm ấy xem mình có tiêu thụ
những chất liệu độc hại không, nếu có phải lập tức sửa đổi, thay đổi
môi trường để sự tiêu thụ của mình nắm trong chánh niệm, mình tiêu thụ
cái gì thì sẽ sản sinh ra cái đó.
Truyền thống của đạo Bụt bắt đầu từ cái thấy, cái thấy của Bụt thường
gọi là Chánh kiến, cái thấy không bị kẹt vào ý niệm có và ý niệm
không, chúng ta phải thực tập mới nắm được chánh kiến. Nhìn một bông
hoa thì thấy bông hoa không thể tự có mặt và tồn tại được nếu mình
lấy ra những yếu tố như mặt trời, đám mây, đất, không khí thì bông
hoa không có mặt được, cái có của bông hoa không phải là cái có độc
lập, cái thấy đó là cái thấy Chánh kiến. Cái chết, cái sống đang diễn
ra từng giây phút, chính nhờ cái diệt mới có cái sinh. Đó là cái chánh
kiến mà Đức Thế Tôn đã tìm được dưới cội Bồ Đề, nếu mình muốn chứng
nghiệm thì phải thiền quán mới được, nghe giảng không thì chưa đủ,
nghe giảng để biết phương pháp thực tập chứ không đạt cái thấy đó. Cái
thấy đó là cái thấy bất nhị, cái thấy đó làm mình đở khổ nhiều lắm,
cho nên phải tu tập, phải ngồi thiền để thấy cái đó.
Khi thấy thì tư duy không sai lầm đó là chánh tư duy, tư duy theo tinh
thần bất nhị, được mang theo cái hiểu, cái thương, cái chấp nhận, tư
tưởng đó có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu cái thân, cái tâm mình và
nuôi dưỡng trị liệu cả thế giới. Nhờ có Chánh kiến nên mới thực tập
Chánh tư duy, nhờ có chánh kiến nên những điều nói ra là chánh ngữ.
Tất cả những gì mình nói ra đều phản chiếu cái thấy bất nhị, không kỳ
thị, không hận thù nữa, nó có cái hiểu, cái thương, lời nói mình nói
ra có tính cách chữa trị cho mình, làm cho êm dịu xuống, nó tạo tình
thương và bắt đầu chữa trị cho thế giới.
Mình nói một câu trong điện thoại, mình viết một email trong đó có sự
chấp nhận, sự thương yêu, vỗ về, yểm trợ đó là Chánh ngữ. Mình là
người tu thì có khả năng viết những lá thư như vậy, nói lời nói như
vậy không tốn đồng nào hết mà có khả năng chữa trị phục hồi truyền
thông giữa người với người đem tới sự hòa giải giũa người này với
người kia. Sở dĩ làm được là có cái thấy bất nhị. Khổ đau của người
kia cũng là khổ đau của mình, hạnh phúc của người kia cũng là hạnh
phúc của mình. Khi hình hài có động tác dự trên cái thấy Chánh kiến
thì bất cứ cái gì mình làm có khả năng bảo hộ, che chở, cứu độ, thương
yêu đó là Chánh nghiệp.
Nghiệp là năng lượng trong đời sống hằng ngày mình chế tác, tư duy là
loại năng lượng, lời nói là năng lượng, nó có thể phá hoại hoặc xây
dựng và hành động của mình cũng vậy. Tất cả tư tưởng của qúy vị đều
mang chữ ký của quý vị hết, đừng nói rằng cái đó không phải là của
tôi, mình gây nghiệp thì mình chịu nên xác thân này có tan hoại mình
vẫn tiếp tục như thường. Vật chất trở thành năng lượng và năng lượng
trở thành vật chất. Khi xác thân nay tan hoại cái đi theo tôi là hành
động của tôi, tức là cái Nghiệp, nó còn hoài. Chữ Nghiệp là hành động,
hành động có thể là nhân, có thể là quả.
Những tư tưởng của chúng ta là những hạt mầm chúng ta gieo, tất nhiên
sẽ có trái, đó là chuyển nghiệp, giả dụ trong qúa khứ chúng ta co lầm
lỡ thì đừng dại dột ôm mặc cảm đó, chúng ta có thể nói, có thể làm, có
thể tư duy theo con đường bất nhị, chúng ta có thể chuyển hóa được
nghiệp xưa đó là cái mầu nhiệm của đạo Bụt. Trong kinh nói rất rõ là
mình chịu trách nhiệm với hành động của mình và hiện tại mình có niệm,
định, tuệ, có từ bi, mình có thể chuyển nghiệp trong quá khứ, tạo
tương lai trong sáng. Mình có thể tiếp tục hoài hoài, tiếp tục đẹp
đẽ...
Sư Ông đề nghị quý thầy cô lên niệm danh hiệu Bồ Tát bằng tiếng Phạn
kết thúc khóa tu và cám ơn chư Bụt gia hộ cho khóa tu thành công. Qúy
thầy cô hát, đại chúng ở dưới đứng lên tay trong tay... khóa tu đã
khép lại với bao niềm vui nhớ mãi.
Chị chạy vội ra sân hái vài trái thông kỷ niệm Lộc Uyển, xe từ từ lăn
bánh, từng cánh tay giơ lên vẫy chào, tạm biệt cỏ cây, hoa lá, núi
rừng, tạm biệt Lộc Uyển thương yêu, hẹn hai năm sau sẽ gặp lại.
Chân Thiện Uyển.
Từng bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen |
|

ĐẠO BỤT
TRONG
DÒNG
VĂN
HÓA
VIỆT
PHẬT SỰ
VU LAN 2551
VẤN ĐỀ GIÁO HỘI TN
ĐẠO BỤT HIỆN ĐẠI HÓA
PHÁP NẠN CHÙA BÁT NHÃ III -
II
THEO DẤU THIỀN SƯ
3
|
4
|
5 |
6 |
7
LIÊN MẠNG PHẬT GIÁO
VIỆT NAM : |
|