.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Không có con đường nào đưa ta đến Hạnh phúc, Hạnh Phúc là con đường - There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

BBC NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

Thích Thích Nhất Hạnh là một thiền sư nổi danh trên thế giới, là một  văn nhân, một thi nhân, một học giả, mà cũng là một người đấu tranh cho hòa bình. Bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma thì Thầy là bậc đạo sư nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra Thầy còn là tác giả của trên một trăm cuốn sách, trong đó gồm có những "xếp hạng bán chạy nhất“ (bestsellers)  như những cuốn Hòa Bình Từng Bước Chân (Peace is Every Step), Phép lạ của sự  Tỉnh thức (The Miracle of Mindulness), Chúa  ngàn  đời, Bụt ngàn đời (Living Buddha Living Christ) và Giận (Anger)

Thầy Thích Nhất Hạnh  sanh năm 1926, Thầy xuất gia năm 16 tuổi. Chỉ 8 năm sau Thầy dựng lên Trung tâm  Phật giáo  Ấn quang (An Quang Buddhist Institute) tại Sài Gòn. Năm 1961 Thích Thích Nhất Hạnh -người được những  môn đồ  gọi là Thầy- đã xuất ngoại du học tại Hoa Kỳ và giảng dạy môn Tôn giáo đối chiếu tại các đại học Columbia và Princeton. Hai năm sau Thầy quay trở về quê hương để góp phần hướng dẫn  nỗ lực hòa bình của Phật giáo.

Rằm tháng hai năm 1964 Thầy thành lập Dòng tu Tiếp hiện (the Order of Interbeing), vào đúng giai đoạn chiến tranh leo thang khốc liệt tại Việt Nam, lúc mà  giáo lý của Đức Thế Tôn cần thiết vô cùng để đối đầu lại với hận thù, bạo động và chia rẽ đang bao phủ khắp quê nhà. Vào giai đoạn này. Dòng tu bao gồm một số nhỏ những thành viên chí nguyện dấn thân vào những công tác xã hội và hành trì theo lý tưởng của Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời. Dòng tu được xây dựng trên căn bản của 14 giới Tiếp Hiện, cũng còn được gọi là những phương pháp thực tập chánh nhiệm. Cũng trong năm ấy với một nhóm những giảng sư và sinh viên đại học tại Việt nam ngài thành lập nên Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đào tạo những nhóm tác viên trẻ tuổi dấn thân vào những làng mạc xa xôi giúp xây cất  những trường học, những bệnh xá và gầy dựng lại những thôn xóm đã bị hủy diêt vì đạn bom. [ Tháng 2 năm 1964 Thầy thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học tại Sài Gòn, và chỉ non 14 tháng sau nó được Thầy nâng lên thành Viện đại học Vạn Hạnh (bổ túc của Phù Sa) ].

Hai năm sau, vào năm 1966, Thầy rời Việt nam ra xứ ngoài để vận động kêu gọi hòa bình. Nhà cầm quyền  đương thời vì thế cấm cửa không cho phép Thầy  hồi hương. Năm 1967 khi đề nghị Hội đồng Nobel trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy, ông Martin Luther King đã phát biểu:  "Ông thầy tu mãnh khảnh xuất thân từ Việt nam này, ngài là một học giả uyên thâm. Những phát kiến cho hòa bình của ngài, nếu áp dụng được, sẽ dựng nên một tượng đài cho tinh thần  hòa đồng, tình huynh đệ  và nhân bản".

Năm 1969 Thầy hướng dẫn Phái đoàn Hòa bình Phật giáo tham dự Hội nghị Hòa bình Paris và thành lập Unified Buddhist Church (UBC) tại Pháp quốc. Lúc khởi đầu Giáo hội đặt cơ sở tại Thiền Đường Sweet Potatoes năm 1975. Pháp Từ của Thầy được truyền bá mỗi lúc một rộng rãi và tăng đoàn phát triển mạnh mẽ. Năm 1982 Làng Mai (Plum Village) được thành lập. Tọa lạc tại miền nam nước Pháp, Làng Mai là một Trung tâm Thiền tập và là cơ sở của Dòng tu Tiếp hiện. Mỗi năm hàng ngàn người khắp nơi trên thế giới từ những truyền thống tâm linh khác nhau khắp nơi đổ về Làng Mai để nghe pháp thoại và tu tập. Đây là trú xứ thường xuyên của Tăng đoàn (đoàn thể của những người tu tập) gồm khoảng 150 các thầy, các sư cô cùng các cư sĩ thường trú (Số thiền sinh gia tăng theo thời gian, tính đến nay thì đã vượt xa con số 150 / PS bổ túc).

Điểm nổi bật của pháp môn thầy Thích Nhất Hạnh trao truyến là việc nhấn mạnh đến yếu tố hạnh phúc, hạnh nguyện  dấn thân vào đời và áp dụng được phương pháp thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày. Chánh niệm là có mặt trong phút giây hiện tại để có thể có thể nhận diện được những gì đang xẩy ra trong thân, trong tâm ta và cả trong thế giới chung quanh ta. Pháp môn Thầy dạy chú trọng đến thực tập hơi thở và tỉnh thức đầy chánh niệm từng hơi thở một. Thầy vẫn thường nhắc nhở đệ tử, bất cứ một việc gì xẩy ra đều có thể là cơ hội ngàn vàng để ta có thể tiếp xúc được với thực tại nhiệm mầu, cả đến như chuyện rửa bát hay lái xe. Thầy dạy chúng ta cần nên chấm dứt cuộc nội chiến trong tâm mình, lắng dịu lại cái bung xung trong tâm mình và trở về với giây phút hiện tại. Khi ta được an lành, khi ta hạnh phúc thì ta có thể mỉm nụ cười và ai ai trong gia đình, trong toàn thể xã hội quanh ta đều được hưởng lợi lạc từ niềm an lành của ta. Nhờ thế ta có thể  thực chứng ý nghĩa câu "Không có con đường đẫn tới hạnh phúc – Hạnh phúc là Con đường".

thichnhathanh.shtml

 

 Theo dấu thiền sư 7

Lộc Uyển du ký 5

  • PSN 13.10.2011 | Chân Thiện Uyển
    1 | 2 | 3 | 4 | 5

 

Búp Sen thương mến,

Hôm nay là ngày 20/9/2011, ngày cuối của khóa tu. Thông thường bao giờ ngày cuối cùng của khóa tu đều có lễ truyền Năm Giới cho thiền sinh. Có một số người thắc mắc là sao không gọi là Quy Y mà chỉ nói là thọ Năm Giới? Sư cô Chân Không giải thích rằng: Mình đang ở Mỹ, ở Tây phương nên đa số thiền sinh đều có gốc rễ đạo Chúa, đạo Tin Lành, đạo Do Thái, đạo Hồi, v.v... và rất ít người có gốc rễ đạo Phật nên mình chỉ truyền Giới để họ có thể tiếp nhận mà hành trì. Nếu phải Quy Y và Thọ Giới thì những ngưới khác tôn giáo sẽ e ngại. Và như vậy là họ sẽ mất cơ hội thực hành Năm Giới quý báu. Và người ta cũng không bị bắt buộc phải nhận trọn Năm giới cùng một lúc. Tuỳ theo khả năng và sở nguyện người ta có thể nhận một, hay hai, ba, hoặc bốn, hoặc cả năm giới cùng một lúc. Mẫu đơn xin Thọ Giới có khoản ghi mình xin thọ giới nào. Có 5 ô vuông nhỏ đánh dấu từ 1 tới 5 ai muốn thọ giới nào thì đánh dấu vào ô tương ứng. Rất là tiện lợi, nó giúp thiền sinh cơ hội lựa chọn cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của mình. Sự linh động này thật là hay.

 

 

Sáng nay Sư Ông làm chủ lễ trong buổi truyền Năm Giới Quý Báu. Giọng đọc của Sư Ông trầm ấm và vang dội, nếu ai không biết Sư Ông thì có lẽ họ sẽ không tin đây là giọng của một ông già 85 tuổi. Chị ngồi yên lắng lòng nghe từng câu từng chữ của Sư Ông, chị như muốn ghi lại tất cả hình ảnh nơi thiền đường, lời kinh tiếng kệ của tăng đoàn, không gian Lộc Uyển... bởi vì hôm nay là ngày cuối của khóa tu, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thôi là chị phải rời khỏi Lộc Uyển rồi.

 

Có khoảng trên 100 người thọ giới, đa số là người trẻ. Nhìn các các bạn quỳ trước đại chúng nghe đọc giới, chị thấy vui các em ạ, rồi đây sẽ có thêm hằng trăm người biết nương theo giới luật mà hành trì, họ sẽ có con đường đi, có thể họ cũng sẽ biết cách đứng vững trước "phong ba bão tố" của cuộc đời phải không các em?

 

* * *

 

Mở đầu cho bài pháp thoại Sư Ông hỏi đải chúng vài câu làm cho không khi vui hẳn lên.

 

Hôm qua quý vị hỏi thầy nhiều câu, bây giờ thầy muốn hỏi quý vị vài câu, bốn câu thôi mà phải trả lời cho thiệt (đại chúng cười), nếu có thì giơ tay thẳng lên, không giơ nữa chừng.

 

Câu 1. Ai đã từng yêu rồi giơ tay lên.

Rất nhiều cánh tay đưa lên, Sư Ông nói: khá! (lại cười.)

 

Câu 2. Ai chưa biết yêu là gì? (cười).
Chắc có ít người giơ tay nên Sư Ông nói: "tội nghiệp chưa", đại chúng cười nhiều hơn nữa.

 

Câu 3. Ai đang còn yêu?
Sư Ông nói: Cũng khá đó! (cười).

 

Câu 4. Trong khóa tu này ai đã mở cửa được trái tim?
Sư Ông nói: Làm ăn cũng khá (cười ồ).

 

Thật ra nếu không yêu thương làm sao sống được. Trên thế giới có rất nhiều người tự tử, những người đó không có khả năng xử lý cảm xúc mạnh, là người tu phải học cách xử lý niềm đau nỗi khổ của mình, trong đó có những cảm thọ khó chịu, đau thương và những cảm xúc lớn như giận hờn, tuyệt vọng, con người được làm bằng nhiều yếu tố, có hình hài, có cảm thọ, cảm xúc, tri giác, nhận thức và tâm thức, đó là 5 yếu tố làm ra con người: Sắc thọ, tưởng, hành, thức. Cảm xúc làm mình tự tử là một phần nhỏ tí teo thôi, tại sao mình phải tự tử vì cái nhỏ bé như vậy? mình phải dạy cho người trẻ làm thế nào để xử lý cảm xúc đó, cảm xúc là cái gì nó tới, ở lại một thời gian rồi nó đi, vậy tại sao phải chết vì cảm xúc? đó là tuệ giác mình cần phải có. Khi cảm xúc mạnh tới thì mình phải nhận diện bó, mình có thể ngồi thật vững hoặc nằm, bắt đầu thở vào để ý thức sự phòng xẹp của bụng, thở vào bụng phồng lên, thở ra bụng xẹp xuống, không suy nghĩ, chỉ để ý đến chuyện thở thôi, mình có thể vượt qua. Cứ như vậy sau 3 tuần sẽ thành thói quen, khi cảm xúc tới thì mình vượt qua một cách dễ dàng.

 

Trong khi uống trà thì tôi có mặt thật sự, muốn có mặt thật sự thì chỉ cần theo dõi hơi thở, đem cái tâm trở về với thân, thân tâm nhất như thì mình có mặt thì ly trà đó là thực tại. Dừng lại là bí quyết của thiền, dừng lại, sống thật và sống sâu sắc ngồi uống mà uống như thế nào để trong suốt thời gian đó mình có hạnh phúc. Khi đi thiền hành từ lều của mình lên thiền đường là một bữa tiệc, mỗi bước chân là có thể thưởng thức được tại sao phải đi như ma đuổi, tại sao lên thiền đường mới tập thiền, tập thiền ngay từng bước đầu tiên ngay ở lều của mình, mỗi bước chân thảnh thơi như vậy là một bài thuyết pháp linh động và đó là tình yêu đích thực.

 

Đức Thế Tôn có dạy bốn loại thực phẩm, mình phải sử dụng 4 loại thực phẩm đó cho khôn khéo và có chánh niệm thì mình có thể làm hạnh phúc cho mình và cho người.

 

1. Đoàn thực: Thức ăn đưa vào bằng miệng, chỉ ăn những gì đem lại bình an, làm thế nào mà khi ăn không tiêu diệt tình người, không tiêu diệt tình thương trong tim mình, vì không có tình thương thì không có hạnh phúc, người không có tình thương là người không biết cảm thông và là người đau khổ nhất. (Sư Ông có kể vài câu chuyện có liên quan).

 

2. Xúc thực: Đưa vào bằng đường mắt, đường tai, mũi. Ví dụ, xem ti vi đó là xúc thực, nó có thể có độc tố như đam mê, thèm khát, bạo động, có những phim đầy rẫy độc tố, nếu mình coi, các con mình coi là mình tiêu thụ độc tố đó. Trong khi chuyện trò cũng thực tập chánh niệm, đừng nói, đừng nghe những gì tưới tẩm hạt giống hận thù, bạo động, tuyệt vọng nơi mình và nơi người khác.

 

3. Tư niệm thực: là cái mong muốn, ước vọng, lý tưởng, cái gì mình cầu mong nhiều nhất, cái nguồn năng lượng cho mình nhiều sức sống. Thái tử Sỉ Đạt Ta có tư niệm thực, có lý tưởng muốn tu tập giải thoát, có trí tuệ, có từ bi để giúp đời, đó là tư niệm thực của Ngài. Các thầy các sư cô cũng có tư niệm thực, đi tu để giúp đời, làm thế nào để cho nguồn tư niệm thực được liên tục, được nuôi dưỡng, đó là bồ đề tâm, là ý chí. Nếu bồ đề tâm bị xói mòn thì cho dù vẫn còn mặc áo thầy tu nhưng cũng coi như chết rồi, cho nên phải tiếp tục nuôi dưỡng bồ đề tâm. Phải xem tư niệm thực của mình là gì, nếu tư niệm thực là danh, là sắc dục thì tư niệm thực đó không tốt, có biết bao người chạy theo đối tượng của đam mê, nào là quyền thế, là danh vọng, những người đó làm tiêu hoại hình hài, tâm thức của họ. Nếu mình muốn đem truyền bá đạo giải thoát giúp con nít không bị lạm dụng, giúp cho vợ chồng không bị ly tán, làm thế nào cứu hành tinh của mình, đó là tư niệm thực tốt và nên nuôi dưỡng nó, còn nếu tư niệm thực đưa đến khổ đau thì ta nên chấm dứt.

 

4. Thức thực: Thức là năng lượng của tập thể, khi đến dự một khóa tu, sống trong năng lượng của niệm, định, tuệ, từ bi là mình được nuôi dưỡng vì người nào cũng có tư niệm thực tốt, có tình thương, mình có thể lớn lên được trong đời sống tâm linh ấy. Có những môi trường sống đầy hận thù, tuyệt vọng, sân si, một đám người sống chung như vậy thì chế tạo ra một năng lượng tập thể tiêu cực. Cho nên vùng mình ở nếu có năng lượng tập thể xấu thì mình phải tìm cách ra khỏi đó nếu không mình và con mình sẽ giống như họ, mình đi về hướng xấu mà mình không biết cho dù mình có hạt giống tốt, hạt giống tốt đó không được tưới tẩm mà hạt giống hận thù, bực bội càng ngày càng được tưới tẩm. (Sư Ông cho ví dụ về mẹ của nhà triết học Mạnh Tử).

 

Nếu ở trong vùng cư xá có nhiều người biết tu học, biết làm việc lành, khi ở chung với những người đó mình được hưởng năng lượng tập thể rất lành mạnh, đó là việc xây dựng tăng thân làm chỗ nương tựa cho nhiều người. Mình nên quán chiếu 4 ngồn thực phẩm ấy xem mình có tiêu thụ những chất liệu độc hại không, nếu có phải lập tức sửa đổi, thay đổi môi trường để sự tiêu thụ của mình nắm trong chánh niệm, mình tiêu thụ cái gì thì sẽ sản sinh ra cái đó.

 

Truyền thống của đạo Bụt bắt đầu từ cái thấy, cái thấy của Bụt thường gọi là Chánh kiến, cái thấy không bị kẹt vào ý niệm có và ý niệm không, chúng ta phải thực tập mới nắm được chánh kiến. Nhìn một bông hoa thì thấy bông hoa không thể tự có mặt và tồn tại được nếu mình lấy ra những yếu tố như mặt trời, đám mây, đất, không khí thì bông hoa không có mặt được, cái có của bông hoa không phải là cái có độc lập, cái thấy đó là cái thấy Chánh kiến. Cái chết, cái sống đang diễn ra từng giây phút, chính nhờ cái diệt mới có cái sinh. Đó là cái chánh kiến mà Đức Thế Tôn đã tìm được dưới cội Bồ Đề, nếu mình muốn chứng nghiệm thì phải thiền quán mới được, nghe giảng không thì chưa đủ, nghe giảng để biết phương pháp thực tập chứ không đạt cái thấy đó. Cái thấy đó là cái thấy bất nhị, cái thấy đó làm mình đở khổ nhiều lắm, cho nên phải tu tập, phải ngồi thiền để thấy cái đó.

 

Khi thấy thì tư duy không sai lầm đó là chánh tư duy, tư duy theo tinh thần bất nhị, được mang theo cái hiểu, cái thương, cái chấp nhận, tư tưởng đó có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu cái thân, cái tâm mình và nuôi dưỡng trị liệu cả thế giới. Nhờ có Chánh kiến nên mới thực tập Chánh tư duy, nhờ có chánh kiến nên những điều nói ra là chánh ngữ. Tất cả những gì mình nói ra đều phản chiếu cái thấy bất nhị, không kỳ thị, không hận thù nữa, nó có cái hiểu, cái thương, lời nói mình nói ra có tính cách chữa trị cho mình, làm cho êm dịu xuống, nó tạo tình thương và bắt đầu chữa trị cho thế giới.

 

Mình nói một câu trong điện thoại, mình viết một email trong đó có sự chấp nhận, sự thương yêu, vỗ về, yểm trợ đó là Chánh ngữ. Mình là người tu thì có khả năng viết những lá thư như vậy, nói lời nói như vậy không tốn đồng nào hết mà có khả năng chữa trị phục hồi truyền thông giữa người với người đem tới sự hòa giải giũa người này với người kia. Sở dĩ làm được là có cái thấy bất nhị. Khổ đau của người kia cũng là khổ đau của mình, hạnh phúc của người kia cũng là hạnh phúc của mình. Khi hình hài có động tác dự trên cái thấy  Chánh kiến thì bất cứ cái gì mình làm có khả năng bảo hộ, che chở, cứu độ, thương yêu đó là Chánh nghiệp.

 

Nghiệp là năng lượng trong đời sống hằng ngày mình chế tác, tư duy là loại năng lượng, lời nói là năng lượng, nó có thể phá hoại hoặc xây dựng và hành động của mình cũng vậy. Tất cả tư tưởng của qúy vị đều mang chữ ký của quý vị hết, đừng nói rằng cái đó không phải là của tôi, mình gây nghiệp thì mình chịu nên xác thân này có tan hoại mình vẫn tiếp tục như thường. Vật chất trở thành năng lượng và năng lượng trở thành vật chất. Khi xác thân nay tan hoại cái đi theo tôi là hành động của tôi, tức là cái Nghiệp, nó còn hoài. Chữ Nghiệp là hành động, hành động có thể là nhân, có thể là quả.

 

Những tư tưởng của chúng ta là những hạt mầm chúng ta gieo, tất nhiên sẽ có trái, đó là chuyển nghiệp, giả dụ trong qúa khứ chúng ta co lầm lỡ thì đừng dại dột ôm mặc cảm đó, chúng ta có thể nói, có thể làm, có thể tư duy theo con đường bất nhị, chúng ta có thể chuyển hóa được nghiệp xưa đó là cái mầu nhiệm của đạo Bụt. Trong kinh nói rất rõ là mình chịu trách nhiệm với hành động của mình và hiện tại mình có niệm, định, tuệ, có từ bi, mình có thể chuyển nghiệp trong quá khứ, tạo tương lai trong sáng. Mình có thể tiếp tục hoài hoài, tiếp tục đẹp đẽ...

 

Sư Ông đề nghị quý thầy cô lên niệm danh hiệu Bồ Tát bằng tiếng Phạn kết thúc khóa tu  và cám ơn chư Bụt gia hộ cho khóa tu thành công. Qúy thầy cô hát, đại chúng ở dưới đứng lên tay trong tay... khóa tu đã khép lại với bao niềm vui nhớ mãi.

 

Chị chạy vội ra sân hái vài trái thông kỷ niệm Lộc Uyển, xe từ từ lăn bánh, từng cánh tay giơ lên vẫy chào, tạm biệt cỏ cây, hoa lá, núi rừng, tạm biệt Lộc Uyển thương yêu, hẹn hai năm sau sẽ gặp lại.

 

Chân Thiện Uyển.

Từng bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen

ĐẠO BỤT
TRONG
DÒNG
VĂN
HÓA
VIỆT

CHƯƠNG MỤC :

PHẬT SỰ

VU LAN 2551

VẤN ĐỀ GIÁO HỘI TN

ĐẠO BỤT HIỆN ĐẠI HÓA

PHÁP NẠN CHÙA BÁT NHÃ III - II

THEO DẤU THIỀN SƯ 3 | 4 | 5 | 6 | 7

LIÊN MẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM :

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.