Tư Tưởng
Văn hóa
Giáo Dục
Văn
Học
Diễn Đàn
Chính Luận
Ký Sự - Xã Hội
Khoa Học & Môi Trường
Việt Nam trong dòng thời sự
Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính
Trị
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và
Văn Hóa
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền
Thế Nào Là Dân Chủ ?
Các Vấn Ðề Dân Chủ
Sophie Quinn-Judge: Hồ
Chí Minh những năm chưa được biết đến
Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và
Trường Sa
Lê Minh Văn:
Về một
NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Mao, câu chuyện không được biết
Gene Sharp:
Từ Độc Tài đến Dân Chủ
Vũ Thư Hiên:
Đêm giữa ban ngày |
Tiếp
nối sự nghiệp chư tổ
Phương khê, 20.05.09
Thân
gởi các con của thầy ở Từ Hiếu, và khắp nơi,
Các con hãy cùng thầy hình dung cái không khí vui tươi của tổ đình Từ
Hiếu vào ngày Rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức là ngày 16/02/năm
1897, cách đây 112 năm. Hồi đó sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ đang làm trú
trì chùa Từ Hiếu và ngài đã làm trú trì được 50 năm rồi! Chùa mới được
trùng tu trở lại trước đó hai năm, có lầu chuông, lầu trống và tiền
đường mới. Hôm ấy, rằm tháng giêng Đinh Dậu (1897) vừa mới ăn Tết
xong, đại chúng làm lễ khởi sự khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng!
Các nghệ sĩ khắc bản làm việc rất vui. Sách Thiền Môn Nhật Tụng
có 126 trang, và phải khắc tới 68 bản gỗ. Khắc xong sách Thiền Môn
Nhật Tụng. Chùa lại còn khắc kinh Báo Phụ Mẫu Ân nữa. Đây là
công tác văn hóa của tổ đình để phục vụ cho hành giả trong tỉnh Thừa
Thiên và các tỉnh lân cận.
Hồi ấy chưa có chùa nào có Đại Tạng Kinh, cả ở trong cung vua cũng
không có, kinh sách rất hiếm, và sách Thiền Môn Nhật Tụng lại
là sách cần thiết nhất cho các chùa. Sư Tổ Hải Thiệu Cương Kỷ hồi đó
đã 87 tuổi. Sư tổ có một thị giả trẻ tuổi tên là điệu Kỉnh 14 tuổi mà
sư tổ rất thương yêu và tin cậy. Chú Nguyễn Hữu Kỉnh được vào chùa làm
điệu năm 11 tuổi. Và chú đã theo hầu sư tổ những lúc sư tổ đi giám sát
các nghệ nhân đang khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng. Chú điệu ấy
chính là Sư ông của các con và là thầy bổn sư của thầy. Chú chính là
sư tổ Thanh Quý Chân Thật của chúng ta sau này.
Hơn một năm sau đó, sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ viên tịch, và tổ Thanh
Thái Huệ Minh, đệ tử của sư tổ, lúc ấy đang làm tri sự tổ đình Từ
Hiếu, đã có ý cho điệu Kỉnh được thế độ làm sa di ngay trước linh sàng
của sư tổ Hải Thiệu, để chú Kỉnh được làm vị đệ tử cuối của sư tổ với
pháp danh là Thanh Quý và pháp tự là Chân Thật. Đó là ngày 2 tháng 3
năm Mậu Tuất (23.03.1898). Thanh Quý có nghĩa là người đệ tử cuối cùng
mang chữ Thanh; và pháp hiệu Chân Thật nói lên được tính tình và bản
chất của sư chú Thanh Quý. Ai trong sơn môn sau này cũng công nhận là
sư tổ Thanh Quý là một vị cao tăng mà đức độ chân thật khó có người bì
kịp. Sư ông của các con, sa di Thanh Qúy hiệu Chân Thật có một người
sư chị rất dịu hiền, pháp danh là Thanh Linh, pháp tự là Diên Trường,
được thọ giới sa di ni trước sư ông của các con một năm (1898). Sư chị
của sư ông các con tên là Nhàn, sinh năm 1863, là cháu ngoại
của Tùng Thiện Vương, một nhà thơ nổi tiếng của triều Nguyễn. Chính sư
tổ Hải Thiệu Cương Kỷ đã làm lễ truyền giới sa di ni cho sư chị, và sư
ông của các con đã có mặt trong lễ truyền giới ấy. Ni sư Diên Trường
sau này đã thành lập các chùa Phổ Quang và Trúc Lâm làm cơ sở tu học
cho ni giới. Các ni viện đầu tiên ở Huế là do ni sư Diên Trường thành
lập. Năm 1924 (Giáp Tý) trong Đại Giới Đàn tại chùa Từ Hiếu do tổ
Thanh Thái Huệ Minh tổ chức, ni sư Diên Trường đã đứng ra làm y chỉ sư
cho các giới tử thọ giới sa di ni và tỳ kheo ni. Thầy rất mừng khi
biết ở ni viện Diệu Trạm các con đã thiết lập bàn thờ để thờ ni sư
Diên Trường. Các ni viện khác có gốc rễ từ tổ đình Từ Hiếu khắp nơi
cũng nên làm như thế, bởi ni sư Diên Trường là vị ni tổ của tất cả các
sư cô thuộc môn phái Từ Hiếu.
Bây giờ thầy xin trở về với sách Thiền Môn Nhật Tụng.
Sách Thiển Môn Nhật Tụng của tổ đình Từ Hiếu có một bài tựa viết chung
cho hai sách Thiền Môn Nhật Tụng và Kinh Báo Ân. Bài tựa này được viết
ngày Rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức là ngày 16.02.1897. Bài tựa nói
đến gốc gác của chùa Từ Hiếu, am An Dưỡng do tổ sư Nhất Định dựng lên,
và công lao của sư tổ Hải Thiệu Cương Kỷ trong buổi đầu tạo dựng tổ
đình Từ Hiếu (1848) và gần 50 năm sau, khi đại trùng tu lại tổ đình
(1895) cũng như trong việc chủ trương khắc bản in kinh. Hồi còn tập sự
xuất gia tại tổ đình, thầy đã có cơ hội được phụ tá các sư chú lớn in
kinh Thiền Môn Nhật Tụng. Các sư anh đã tổ chức in kinh tại lầu trống
của tổ đình và thầy đã học được cách in kinh với mực tàu và giấy bản.
Thầy đã sử dụng một chiếc lá mít hái ở vườn chùa để xoa lên lưng giấy
cho mực được in vào đầy đủ trên trang giấy. Có được một bản sách Thiền
Môn Nhật Tụng cho riêng mình để học hỏi, thầy rất hạnh phúc. Thầy học
thuộc lòng hai buổi công phu rất nhanh. Chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi và
mười bài chú khác thầy cũng đã học thuộc lòng trong vòng hai tuần lễ.
Năm 2007 trong chuyến về Việt Nam thầy đã có dịp chỉ cho một số các
thầy các sư cô Làng Mai tháp tùng phái đoàn được thấy các bản gỗ của
sách Thiền Môn Nhật Tụng này và nhờ thầy Từ Hòa in thử một trang cho
mọi người cùng thấy. Nếu có dịp các con cũng nên học cách in như thầy
đã từng in năm ấy. Ngoài các kinh Thiền Môn Nhật Tụng và Báo
Ân còn có kinh Đại Hạnh Phổ Hiền, bản khắc rất đẹp, các con
nhớ in thử cho biết.
Tuy là công việc khắc bản Thiền Môn Nhật Tụng được bắt đầu vào ngày
Rằm tháng Giêng năm Đinh Dậu (16.02.1897) nhưng chắc chắn trước đó
nhiều tháng bản chính của sách trong đó có bài tựa đã được chuẩn bị
viết xuống đầy đủ rồi, nét chữ viết rất đầy đặn và đẹp. Mỗi trang có
bảy dòng, mỗi dòng có mười bảy chữ. Nghi thức cuối cùng trong sách là
Nghi thức lạy Báo ân gồm có 27 lạy, trong đó có danh hiệu các
tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, Minh Hoằng Tử Dung, Hoán Bích Nguyên Thiều và
Thật Diệu Liễu Quán.
Đúng 100 năm sau ngày khởi sự khắc bản sách Thiền Môn Nhật Tụng
tại tổ đinh Từ Hiếu thì sách Nhật Tụng Thiền Môn 2000 được ấn
hành tại Âu Châu và Mỹ Châu, hoàn toàn bằng quốc văn. Sự kiện này được
xảy ra năm 1997 và cũng vào mùa Xuân. Sách Nhật Tụng Thiền Môn năm
2000 cũng đã được chuẩn bị trong suốt 15 năm trước khi được ra đời.
Thầy trò chúng ta ở Đạo Tràng Mai Thôn đã làm việc trong từng ấy năm
tháng để hôm nay sách được cống hiến cho các hành giả khắp nơi, không
những bằng tiếng Việt Nam mà còn bằng nhiều thứ tiếng khác nữa. Sách
Thiền Môn Nhật Tụng của chúng ta hiện giờ rất giàu có, ấn bản nào cũng
dày trên ba trăm trang, với rất nhiều kinh văn, nghi thức, thi kệ, sám
văn và hồi hướng. Tháng 4 năm 2009 vừa qua chúng ta mới cho ra đời bản
tiếng Pháp của sách Nhật Tụng Thiền Môn, với tựa đề là Chants du
Coeur, do nhà xuất bản Sully ấn hành, 318 trang. Trước đó sách
cũng đã được ấn hành bằng tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý.
Thầy trò chúng ta có cơ hội nối tiếp sự nghiệp chư tổ một cách thiết
thực và nhờ đó thầy trò chúng ta đang có rất nhiều hạnh phúc. Hiện
thời, ở quê hương, chúng ta có hai ấn bản đều mang tên Nhật Tụng Thiền
Môn năm 2010. Ước muốn của chúng ta là cứ mỗi mười năm thì sách Thiền
Môn Nhật Tụng lại được tu chỉnh một lần để nội dung sách được tiếp tục
giàu có hơn, sáng đẹp hơn và phục vụ hữu hiệu hơn cho hành giả khắp
chốn. Ấn bản Miền
Nam
của sách vừa được Phương Nam Book ấn hành, hình thức rất đẹp và
rất trẻ. Ấn bản này có mang thêm bài tựa của Thượng Tọa Lệ Trang, một
vị thầy rất có uy tín và thẩm quyền trong lĩnh vực nghi lễ.
Thầy biết các con của thầy ở Từ Hiếu và Diệu Trạm vừa được đi gặt lúa
xong và đang chuẩn bị cho Mùa An Cư Kiết Hạ. Thầy được biết là các vị
tôn túc ở Huế đã đáp lời mời của Tổ Đình đến dự Lễ Trai Đàn Chẩn Tế
rất đông, và các con đang được liệt vị thương tưởng và đùm bọc hết
lòng. Đây là một phước đức lớn, đây là ân huệ của chư tổ. Các con phải
bày tỏ lòng biết ơn bằng cách tu học cho tinh tiến, ngày nào cũng chế
tác và nuôi dưỡng tình huynh đệ. Thực tập chánh niệm, mỗi bước chân
các con đi cho thầy, cho sư ông, cho chư tổ, và với mỗi bước chân như
thế, các con có thể tiếp nhận được năng lượng của chư tổ, dù là trước
sân chánh điện, trên con đường lên thiền đường Trăng Rằm, bên hồ Sao
Mai, trước đồi Dương Xuân hay trên Lăng Viện.
Chư
tổ đã từng bước đi trên những lối đi ấy, sư ông đã từng bước đi trên
những lối đi ấy, và thầy cũng đã từng bước đi trên những lối đi ấy. Đi
như thế thì mỗi bước chân là phép lạ, mỗi bước chân là thảnh thơi, mỗi
bước chân là trị liệu, mỗi bước chân là hạnh phúc. Chúng ta đi cho cha
mẹ, cho tổ tiên, cho dòng họ, cho quê hương, cho đất nước, cho nhân
loại. Hạnh phúc là cái gì có thật trong giây phút hiện tại. Chúng ta
được may mắn làm con cháu của chư tổ, chúng ta nguyện sống xứng đáng
để có thể tiếp tục được sự nghiệp của các ngài.
Thầy gửi tới các con niềm tin cậy và thương yêu của thầy.
Thầy của các con
Nhất Hạnh
T.B. Thầy gửi theo đây bài kệ tán dương Ni Sư Diên Trường, nguyên tác
chữ Hán của thiền sư Viên Thành, bản dịch của thầy.
Thiện tai nữ đạo sư
Giải thoát nhân trung kiệt
Thịnh Niên xã thế vinh
Phỏng đạo ngộ thiền duyệt
Bát kính thị căn trì
Trường trai thủ tố tiết
Uẩn giới phù vân không
Phiền não hải thủy kiệt
Giác mộng cảnh từ chung
Độ mê tạo bảo phiệt
Công đức mãn chiên lâm
Thanh lương đẳng tuệ nguyệt
An ổn tọa bồ đoàn
Liễu chứng vô sinh quyết
Sơn sắc thanh tịnh thân
Khê thanh quảng trường thiệt
Tích lai bản bất sinh
Kim khứ hà tằng diệt
Siêu nhiên bỉ ngạn đăng
Liên đài diệu hương khiết
Dịch:
Lành thay nữ đạo sư
Bậc Giải Thoát hào kiệt
Bỏ vinh hoa cuộc đời
Tìm vui nơi thiền duyệt
Pháp bát kỉnh hành trì
Nếp trường trai tinh khiết
Uẩn, giới như mây bay
Biển não phiền khô kiệt
Chuông khua tỉnh thức đời
Bè từ độ oan kết.
Công đức như rừng trầm
Mát như vầng tuệ nguyệt
An nhiên bồ đoàn ngồi
Chứng quả vô sinh diệt
Lời kia là suối reo
Thân kia là núi biếc
Xưa chưa hề có sinh
Nay cũng chưa từng diệt
Bờ bên kia bước lên
Đài sen hương diệu khiết
Từng bước
thảnh thơi, từng bước nở hoa sen! |
|
...
Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết
triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây
niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong
những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh
vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia
lớn nhất của thời đại chúng ta.
Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy
được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng
hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu
nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng
bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.
Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (... )
Tuy là lớn lên và sống
trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy
Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang
xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp
thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng
bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng
chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa
của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích
thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.
Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự
thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết
cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng:
“Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những
người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những
người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù
của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam,
là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.
Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển
hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến
tranh Việt Nam. (... )
Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang
hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò
quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu
cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn
toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào,
một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật
giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp
môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải
là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong
khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn
tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý
thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ
còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng
ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.
Trích dịch từ :
Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the
suffering of the Vietnam War
By
Pankaj Mishra
TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES
|