Tư Tưởng
Văn hóa
Giáo Dục
Văn
Học
Diễn Đàn
Chính Luận
Ký Sự - Xã Hội
Khoa Học & Môi Trường
Việt Nam trong dòng thời sự
Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính
Trị
Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và
Văn Hóa
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền
Thế Nào Là Dân Chủ ?
Các Vấn Ðề Dân Chủ

Sophie Quinn-Judge: Hồ
Chí Minh những năm chưa được biết đến
Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và
Trường Sa
Lê Minh Văn:
Về một
NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM
Mao, câu chuyện không được biết
Gene Sharp:
Từ Độc Tài đến Dân Chủ
Vũ Thư Hiên:
Đêm giữa ban ngày |
Giấc mơ của người tu trẻ
Phương Khê Nội Viện, mùa xuân 31.05.2009
Thân gửi các con của thầy, gần và xa!
Buổi công phu sáng trong sách Thiền Môn Nhật Tụng có một bài văn sám mà
ngày xưa khi còn làm sa di thầy rất thích tụng. Văn của bài sám rất hay,
và nội dung của bài sám rất có công năng nuôi dưỡng chí nguyện của người
tu. Mỗi lần tụng đọc bài sám, chú Phùng Xuân thường để cho lời kinh ôm
ấp thấm sâu vào từng huyết quản từng tế bào của cơ thể. Bài sám văn này
là một giấc mơ thật đẹp của người tu, và thầy rất biết ơn thiền sư Di
Sơn đã viết ra bài sám văn ấy. Các con cũng đã biết bài ấy rồi, đó là
bài Sám Quy Mạng. Tên của nó là Phát Nguyện Văn. Tác giả bài Sám Quy
Mạng (Phát Nguyện Văn) này là thiền sư Kiểu Nhiên đời Đường, văn chương
rất lỗi lạc. Những văn bia về các thiền sư sơ kỳ Thiền Tông đều do một
tay Ngài viết. Di Sơn là tên núi; vì kính quý ngài nên dân chúng gọi
thiền sư là Di Sơn thay vì Kiểu Nhiên. Thiền sư họ Tạ, tự là Thanh Trú.
Tác phẩm để lại cho đời là Trữ Sơn Tập, mười cuốn.
Trong sách Nhị Khóa Hợp Giải, thiền sư Quán Nguyệt có nói: “Nếu bạn
không thích bài Sám Quy Mạng này thì có thể thay vào bằng một bài khác
như bài Khế Thủ, bài Thập Phương Tam Thế Phật, hay bài Nhất Tâm Quy
Mạng”. Nhưng ai lại không thích bài Sám Quy Mạng này? Thầy nghĩ là
đã có biết bao nhiêu thế hệ người trẻ xuất gia đã được bài Sám này nuôi
dưỡng, vỗ về và an ủi. Hồi chưa tới tuổi hai mươi, thầy đã có ước mơ
dịch bài này ra quốc văn. Và giấc mơ ấy đã được thành tựu khi thầy còn
là một vị giáo thọ trẻ tuổi giảng dạy tại Phật Học Đường Nam Việt. Thầy
đã dịch bài Sám Quy Mạng ra tiếng Việt trong thể thơ lục bát. Nhiều vị
học tăng và học ni thời ấy của Phật Học Đường Nam Việt (Chùa Ấn Quang)
đã học thuộc lòng. Và bài Sám ấy hiện đang có mặt trong sách Nhật Tụng
Thiền Môn 2010 của chúng ta.

Trái qua phải,
hàng trước: Long Nguyệt, Trí Không, và Từ Mẫn; hàng sau: Minh Hiện,
Như Trạm, và Nhất Hạnh.
Trong đó thầy Nhất Hạnh là vị Giáo thọ trẻ còn 5 vị kia là học tăng của
Phật học đường Nam Việt (Ấn Quang).
Phần lớn những câu văn trong bài Sám đều là những câu bốn chữ hay sáu
chữ, xen lẫn với nhau rất khéo léo, thành ra âm điệu bài tụng có lúc thì
êm dịu, có lúc thật trầm hùng.
“Kiếp sau, nhờ hạt giống trí tuệ linh thiêng gieo trồng trong kiếp
này, con xin được sinh trở lại trong một môi trường có văn hóa, lớn lên
được gặp một vị thầy sáng và được xuất gia từ hồi còn là thiếu nhi. Sáu
căn của con đều sẽ được thông lợi và ba nghiệp của con cũng sẽ được
thuần hòa. Con sẽ không bị thói đời làm ô nhiễm và con sẽ sống một cuộc
đời phạm hạnh thanh cao. Con sẽ hành trì các giới luật một cách nghiêm
minh. Không vướng vào duyên nghiệp thế gian, con sẽ thực tập các uy nghi
một cách nghiêm túc và con sẽ biết bảo hộ cho tất cả mọi loài chúng
sanh, bắt đầu từ những sinh vật rất nhỏ bé”.
“Con sẽ tu tập theo chánh pháp và liễu ngộ được giáo pháp Đại Thừa, nhờ
vậy mà con sẽ khai mở được cánh cửa hành động của lục độ và thành tựu
được những gì mà các vị hành giả khác phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp
mới thành tựu được”
Đọc những đoạn vừa qua các con có thấy đó là một giấc mơ vĩ đại không?
Nếu không có hạt giống của bồ đề tâm, nếu không có hạt giống của hạnh
nguyện bồ tát thì làm sao làm phát khởi được một ước muốn vĩ đại như
thế?
Các con hãy cùng thầy đọc tiếp:
“Con sẽ thiết lập được đạo tràng tu học khắp nơi khắp chốn, con sẽ
phá tan được muôn trùng mạng lưới của sự nghi ngờ. Con sẽ hàng phục được
mọi ma chướng và sẽ truyền lại ngọn đèn chánh pháp để cho ba ngôi tam
bảo sẽ mãi mãi tiếp tục ngời sáng trong tương lai. Con sẽ phụ tá cho chư
Bụt mười phương mà không bao giờ cảm thấy mệt mỏi; con sẽ tu tập thành
tựu được tất cả các pháp môn. Con sẽ thực tập trên cả hai bình diện xã
hội và trí tuệ để làm lợi ích cho chúng sanh khắp nơi. Con sẽ đạt tới
sáu phép thần thông và sẽ thành tựu được quả vị Phật đà ngay trong một
kiếp”.
“Sau đó con sẽ không xa lìa pháp giới; trái lại con sẽ đi vào và có mặt
trong vạn nẻo trần gian. Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng
lượng từ bi của bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ
bao la như đại dương hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền”
“Ngay trong cõi nầy và ở các cõi khác, con sẽ ứng hiện thành những sắc
thân khác nhau để tuyên dương diệu pháp”
“Nơi những nẻo đường địa ngục và quỷ đói, con sẽ hoặc phóng ra những đạo
hào quang lớn, hoặc tự mình hiện thần biến tướng: bất cứ ai thấy được
dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều có khả năng phát tâm bồ đề
và lập tức vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi”
“Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa, hay những con sông băng tuyết
lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm”
“Vào những thời mà tật dịch bệnh khổ lan tràn, con sẽ hóa hiện ra vô số
dược thảo thuốc men, chữa lành được cả những chứng bệnh trầm kha, gặp
khi nạn đói hoành hành, con sẽ hóa hiện ra gạo lúa dồi dào để giảm nghèo
cứu đói”
“Không có công tác nào làm lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan”
“Sau đó, con sẽ giúp cho tất cả mọi người, trong đó có kẻ thân và người
thù trong nhiều kiếp, cùng với bà con quyến thuộc đời này, để ai cũng có
thể buông bỏ được những sợi dây ái nhiễm ràng buộc, để cùng với tất cả
chúng sinh thực hiện được đạo giác ngộ.”
“Hư không kia còn có thể có giới hạn, nhưng nguyện ước con thì không có
chỗ cùng. Con nguyện cho tất cả các loài, hữu tình và vô tình, đều đạt
tới quả vị nhất thiết chủng trí.”
Những lời kinh trong Sám văn ngày xưa đã tưới tẩm hạt giống bồ đề của
chú sa di nhỏ vào mỗi buổi sáng công phu. Không biết vì lý do gì mà chú
cứ tin là giấc mơ kia sẽ có thể thành tựu, dù chung quanh chú chưa có
dấu hiệu nào chứng tỏ được điều đó, và chưa thấy ai đang làm được điều
đó.
Lời kinh quá đẹp khiến sau này thầy đã lấy chữ trong ấy để đặt pháp hiệu
cho các vị thọ giới tại Làng Mai. Ví dụ pháp tự Chân Hương Lâm của
Sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Hương lâm là những khu rừng thơm. “Những
vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa hay những con sông băng tuyết lạnh
giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm - hỏa hoạch
băng hà chi địa biến tác hương lâm -.”
Thật là vừa nên thơ vừa hợp với ý hướng bảo hộ sinh môi. Lời kinh quá
hùng tráng thành thử mình có cảm tưởng mình không còn là một tín đồ đang
cầu xin ơn phước, mà là một vị đại sĩ có thần lực độ đời rất vĩ đại:
“Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của bồ tát
Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh
nguyện bồ tát Phổ Hiền - đẳng Quan Âm chi từ tâm, hành Phổ Hiền chi
nguyện hải -” Người trì tụng Sám văn không còn mặc cảm
thua kém nữa, và thấy mình cũng có thể làm được những gì mà các vị bồ
tát lớn đang làm. Những lời kinh như thế làm chấn động cả tâm can của
người hành giả. “Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh
hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi
khổ đau của kiếp luân hồi - phàm hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã
danh, giai phát bồ đề tâm, vĩnh xuất luân giao hồi khổ”.
Và như thế thì con cũng sẽ không thua bất cứ một vị Phật nào hay một vị
bồ tát lớn nào trong quá trình hành đạo.
Giấc mơ của bài sám Quy Mạng chỉ là giấc mơ suông hay một giấc mơ có thể
biến thành hiện thực?
Nhiều thế hệ hành giả, trong đó có các con, đã từng tụng đọc sám văn
này, và đã có thể từng đặt câu hỏi ấy. Ngày xưa thầy không đặt câu hỏi
ấy. Tuy là chung quanh mình chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ giấc mơ kia
có thể trở thành sự thực, nhưng thầy vẫn ôm ấp giấc mơ đó và tin rằng nó
sẽ trở thành hiện thực. Những thập niên bốn mươi và năm mươi là những
thập niên của đói kém của chiến tranh. Giới xuất gia tìm đủ mọi cách để
duy trì sự thực tập trong phạm vi chùa viện của mình nhưng cũng đã gặp
phải không biết bao nhiêu khó khăn. Ngay những người trẻ trong giới xuất
gia cũng bị tù đày, thủ tiêu và áp bức. Là một thầy tu trẻ thầy đã từng
đọc lịch sử Lý - Trần và đã thấy rằng nếu đạo Bụt đã có khả năng giúp
cho đất nước hùng mạnh và thái bình trong những triều đại ấy thì đạo Bụt
cũng có thể làm được như thế trong thời đại hiện tại. Tại sao không? Đó
là câu hỏi của thầy, dù đạo Bụt vào những thập niên ấy vẫn chưa thoát ra
được trạng thái suy đồi cần phải vượt thoát. Có lẽ cái thấy ấy về đạo
Bụt Lý - Trần đã cho thầy một niềm tin rằng giấc mơ của sám Quy Mạng
không phải chỉ là một giấc mơ suông mà là một giấc mơ có thể trở thành
hiện thực.
Hồi còn là vị giáo thọ trẻ ở Ấn Quang, thầy đã dịch sám Quy Mạng với một
ngôn ngữ khiêm cung. Nguyên văn: “Năng lượng từ bi của con sẽ không
thua gì năng lượng từ bi của bồ tát Quán Âm, đại dương hạnh nguyện của
con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền” đã
được thầy dịch là “mưa từ rưới khắp nhân thiên, mênh mông
biển hạnh lời nguyền độ tha”. Nguyên văn “Bất cứ ai
thấy được dung mạo của con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả
năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân
hồi” đã được thầy dịch là: “Chỉ cần thấy dạng nghe
danh, muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau”. Mấy mươi
năm ở hải ngoại không có cơ hội ôn lại bản dịch ấy, thầy chỉ còn nhớ
được một vài đoạn. May quá, Hòa thượng Như Huệ viện chủ chùa Pháp Hoa (ở
Úc Đại Lợi) trong dịp về chứng minh đại giới đàn Nến Ngọc tổ chức ở Làng
Mai mùa Hè 1996 đã đọc lại cho Thầy chép xuống toàn bài. Hòa thượng Như
Huệ đã từng là học tăng trong Phật Học Đường Nam Việt, và đã học thuộc
lòng bản dịch của Sám văn Quy Mạng. Nhờ đó mà bản dịch ngày nay còn được
giữ lại trong sách Nhật Tụng Thiền Môn. Thầy nghĩ là thầy trò chúng ta
cần đọc tụng sám văn Quy Mạng ít nhất mỗi tuần một lần, để tâm bồ đề
được tiếp tục nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là nguyện ước, là giấc mơ của người
hành giả chân chính. Tâm bồ đề bị soi mòn thì chúng ta không còn năng
lượng để đi tới mà thực hiện giấc mơ.
Khuya nay trong giờ thiền tọa chúng ta hãy cùng nhau quán chiếu để thấy
rằng giấc mơ kia đang từ từ biến thành hiện thực.
“Kiếp sau xin được làm người, sinh ra gặp pháp sống đời chân tu, dắt
dìu nhờ bậc minh sư” điều này ta đã thực hiện được.
“Sáu căn ba nghiệp thuần hòa, không vương tục lụy theo đà thế nhân, một
lòng tấn đạo nghiêm thân, giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa”,
đó là sự thực tập hành trì giới luật và uy nghi hàng ngày của chúng ta.
“Đạo tràng dựng khắp nơi nơi, lưới nghi phá hết trong ngoài sạch
không”, đó là những gì mà thầy trò chúng ta đang nổ lực thực hiện.
Tăng thân hiện giờ đang có mặt khắp nơi, mỗi quốc gia trên thế giới đều
có hàng chục hoặc hàng trăm đoàn thể tu học theo pháp môn chánh niệm,
gọi là tăng thân chánh niệm (communities of mindful living). Những thành
phố lớn như Nữu Ước, Luân Đôn, Los Angeles, Paris, Amsterdam, Berlin,
đều đã có nhiều tăng thân. Những khóa tu tổ chức khắp nơi, những tác
phẩm viết về đạo Bụt đi vào cuộc đời đã trở thành một mạng lưới chánh
pháp có mặt khắp nơi, đang nổ lực phá tan được những ngộ nhận và nghi
ngờ đối với đạo Bụt, cho thế giới thấy rằng đạo Bụt là một nền nhân bản
có tính khoa học, không phải là tôn giáo thần quyền, mê tín dị đoan,
tiêu cực yếu đuối. “Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không” là
như thế.
"Truyền
đăng Phật pháp nối dòng vô chung” chúng ta đã đào tạo được khá nhiều
các vị giáo thọ và giáo thọ tập sự, xuất gia và tại gia, số người tiếp
nhận truyền đăng cho đến nay đã lên tới trên 300 vị.
“Thuốc thang cứu giúp cho đời, áo cơm cứu giúp cho người bần dân, bao
nhiêu lợi ích hưng sùng, an vui thực hiện trong vòng trầm luân”.
Đây là công tác xã hội, đây là một phần của đạo Phật ứng dụng, của đạo
Phật đi vào cuộc đời.
Chúng ta đã lập được Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đào tạo trên 600
tác viên và và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công
quả mà không nhận phụ phí), thành lập các Làng Hoa Tiêu và Làng Tự
Nguyện để nâng cao phẩm chất sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục,
y tế, kinh tế và tổ chức. Các tác viên xã hội đã làm việc cứu trợ nạn
nhân chiến tranh, chăm sóc các trại tị nạn, có trại lên đến 11 000
người, thành lập các trung tâm định cư trên những vùng đất mới, tái
thiết lại những làng bị bom đạn tàn phá. Chúng ta có Ủy Ban Tái Thiết và
Phát Triển Xã Hội, làm việc với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
(1972-1975). Chúng ta đã có chương trình bảo trợ trên 10 000 trẻ em mồ
côi vì chiến tranh. Chúng ta đã có chương trình Máu Chảy Ruột Mềm cứu
trợ thuyền nhân trên biển. Chúng ta đã thành lập tổ chức Pour les
Enfants du Vietnam, rồi Partage avec les Enfants du Monde, cứu giúp cho
trẻ em 17 nước trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã có chương trình Hiểu và
Thương, để cứu trợ lũ lụt, giúp trẻ em nghèo thiếu ăn và thất học, mở
lớp dạy nghề, xây cầu, đào giếng nước ngọt, mở những lớp học bán trú ở
các vùng sâu vùng xa, trả lương một ngàn cô giáo và bảo mẫu (*).
Cái hay là ở chỗ trong khi làm công tác xã hội, các thành phần trong
tăng thân vẫn giữ được sự thực tập giới luật, thiền ngồi, thiền đi, xây
dựng tình huynh đệ và học đi như một dòng sông...
“Không có công việc nào lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan - đản
hữu lợi ích vô bất hưng sùng -
đó là hạnh nguyện của chúng ta.
Các vị giáo thọ của chúng ta, trong đó có rất nhiều vị còn ở tuổi thanh
xuân, đang thực sự mang đạo Bụt đi vào cuộc đời, một đạo Bụt nhập thế.
Chúng ta đã mở những khóa tu đặc biệt để giúp cho mọi giới, những khóa
tu dành cho giới làm công tác xã hội, giới văn nghệ sĩ, tài tử điện
ảnh..., có khóa tu đông đến 2000 người như khóa tại Washington DC cho
các nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu, những khóa tu dành cho giới giáo
chức, dành cho giới thương gia, dành cho giới y sĩ và y tá, dành cho các
nhà chính trị và dân biểu quốc hội, dành cho giới cảnh sát và nhân viên
công lực, giới tranh đấu cho hòa bình và nhân quyền, giới bảo hộ sinh
môi... Chúng ta đã đi vào các bệnh viện và các nhà tù để giúp tổ chức tu
tập và chuyển hóa...
Từ đạo Bụt nhập thế chúng ta đi vào đạo Bụt ứng dụng. Chúng ta mở phong
trào Wake Up cho các bạn trẻ khắp nơi trên thế giới, những đoàn thể tu
tập theo chánh pháp để phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có từ bi.
Chúng ta lập Viện Phật Học Ứng Dụng, cung cấp các khóa tu cho giới phụ
huynh có khó khăn với con cái, cho giới thanh niên thiếu nữ đang có khó
khăn với bố mẹ, cho những ai vừa khám phá ra là mình bị bệnh nan y, cho
những ai có người thân mới mất. Ai cũng có thể đến để ghi tên học hỏi và
thực tập mà không cần phải quy y. Chúng ta cống hiến đạo Bụt cho thế
giới không phải một tôn giáo mà một nghệ thuật sống với những phương
pháp chuyển hóa và trị liệu... Chúng ta đang nỗ lực thực tập để bảo hộ
sinh môi, tự mình thực tập và kêu gọi mọi người thực tập sống như thế
nào để có thể có được một tương lai cho trái đất, để chuyển ngược được
quá trình hâm nóng địa cầu. Tu viện Lộc Uyển của chúng ta hiện giờ đã
hoàn toàn chỉ sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời. Tất cả các đạo tràng
và các tăng thân của chúng ta trên thế giới đang thực tập tiêu thụ trong
chánh niệm, mỗi tuần có một ngày không sử dụng xe hơi, xe gắn máy...,
tất cả những điều này chứng tỏ là chúng ta đang quyết tâm thực hiện giấc
mơ mà không phải chỉ ngồi đó để quán tưởng và để cho bài Sám ru chúng ta
trong một giấc mơ thật đẹp.
Trong những năm gần đây, đạo Bụt với sự thực tập chánh niệm đã dần dần
đi vào các lĩnh vực luật học, khoa học, y học và xã hội. Tinh thần bất
nhị và bao dung không kẹt vào giáo điều của đạo Bụt bắt đầu được thế
giới nhận biết, và trên bước đường toàn cầu hóa đạo Bụt có thể góp phần
quan trọng trong việc chế tác một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Chúng
ta biết giấc mơ có thể và đang trở thành hiện thực. Nếu chúng ta không
bị vướng vào địa vị, tiền bạc, tiếng khen, và những chức vụ, v.v... nếu
chúng ta biết đi với tăng thân như một dòng sông mà không phải như một
giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để thực hiện được
giấc mơ. Có phải thế không các con? Thầy mong các con đọc xong thư này
thì góp ý với thầy.
Thầy của các con,
Nhất Hạnh
----------------------------
(*) Chúng ta đã có những công tác tại các Xóm Nghèo Mã Lạng Quốc
Thanh, Cầu Bông Bàn Cờ, và các lớp trung học miễn phí đêm (bắt đầu từ
năm 1961, của Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn với các sinh viên Phật tử
như Huê Dương, Chiểu, Khanh, Chi, Nhiên, và Phượng).
Chúng ta bắt đầu lập Làng Tình Thương với Sư Anh Nhất Trí của các
con, và các chú Tâm Quang và Tâm Thái với hơn 100 sinh viên Phật tử
trong đó có các chị Phượng, Thảo, Thanh, Uyên, Trà Mi, Phùng Thăng, Nga
và Tuyết, các anh Quyền, Trâm, Nguyên, Tích, Thanh, Tài (1964-1965) và
bà Hiệu.
Chúng ta đã tổ chức những đoàn sinh viên đi lạc quyên để cứu lụt và
cứu đói sau trận Hồng Thủy năm Giáp Thìn dọc theo hai bờ sông Thu
Bồn lên đến thượng nguồn.
Chúng ta đã lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (từ 1965 đến
1975), Ủy Ban Tái Thiết và Phát Triển VN (từ 1971 đến 1975 dưới
sự lãnh đạo của Hòa Thượng Thiện Hòa). Các thầy Thanh Văn và Châu Toàn,
Từ Mẫn, sư chú Phạm Phước... là những cánh tay bồ tát điều động hằng
ngàn tác viên, trợ tác viên và cảm trình viên xã hội đã thực hiện được
bao nhiêu công tác giúp cho hàng chục ngàn đồng bào nạn nhân chiến cuộc.
Trong công tác, mười bảy người trong chúng ta đã thiệt mạng trong đó có
Liên, Vui, Thơ, Tuấn, Hy, Lành và Sư Anh Nhất Trí của các con. Cô Bùi
thị Hương bị mất một đoạn chân và anh Lê văn Vinh phải suốt đời ngồi xe
lăn. Chị Nhất Chi Mai (chị Cả trong 6 người Tiếp Hiện đầu tiên của các
con) đã đem thân làm đuốc, để kêu gọi hai bên lâm chiến ngưng chém giết
nhau (16.07.1967).

Trong chương trình Máu Chảy Ruột Mềm trên biển Nam Hải, cô Chân
Không, anh Luke Fogarty, chị Trang Fogarty, chi Kirsten Roep và chị Mobi
Warren đã điều động vớt được 606 thuyền nhân trên biển (1976). Tiếp đó
là chương trình thầm lặng cứu người bằng ghe đánh cá trên Vịnh Thái Lan
do sư cô Chân Không tiếp tục điều động (1976-1978). Sau đó chúng ta đã
thành lập chương trình giúp thuyền nhân ở các trại tị nạn, an ủi và gửi
phẩm vật cứu trợ, sách học Anh và Pháp ngữ, kinh Nhật Tụng cho các trại
tị nạn như Songklha, Trad, Sikkhiu, Chonburi...
Chúng ta đã thành lập chương trình Cứu Trợ Xã Hội Hiểu và Thương
và hoạt động âm thầm từ năm 1975 tới bây giờ (2009). Tại hải ngoại, đã
có chương trình Hiểu và Thương ấy, hoạt động ở Hà Lan (cùng với chị
Kirsten Roep và bà Hebe Kohbrugge), ở Pháp có ba chương trình Pour les
Enfants du Viet Nam, Partage avec les enfants du Monde, và Partage (cùng
với anh Pierre Marchand). Trong hai chương trình sau, chúng ta đã hoạt
động để giúp trẻ em đói trong 17 nước nghèo trên thế giới trong đó có
Bangla Desh, Ấn Độ, Liban, Thái Lan, Brésil, Colombie...
Chúng ta cũng có chương trình Từ Thị (Maitreya Fonds) tại Đức do
anh Chân Pháp Nhãn Karl Schmied và chị Chân Diệu chủ trương và đang được
tiếp nối bởi anh Chân Giác Lưu Christian Kaulf.
Tăng thân Thụy Sĩ với chị Margrit Witwer và tăng thân Ý Đại Lợi đã yễm
trợ cho chương trình Hiểu và Thương. Tăng thân Thuyền Từ của chị Chân Ý
và anh Chân Trí đã hỗ trợ hơn 600 trẻ em đói kém của chương trình Hiểu
và Thương ở Quảng Trị và Thừa Thiên.
Tăng thân Hoa Tuyết (Snow Flower
Sangha)
và anh
Chân Thuyên bảo trợ cho hàng trăm
giếng nước ngọt cho các gia đình đông con
ở xa các vùng sâu vùng xa không có điện có nước.
Anh Minh và chị Liên với chương trình Mắt Thương Nhìn Cuộc Đời
năm nào cũng hợp tác với tăng thân Toronto hỗ trợ rất nhiều nạn nhân lũ
lụt đói kém.
Tổ chức Hussman Foundation ở Hoa Kỳ đã bảo trợ 57 cô giáo và bảo
mẫu và hơn 700 trẻ em thiếu ăn vùng Bảo Lâm, Di Linh... cúng dường xây
cất Thiền Đường ở Bát Nhã. Chị Lilian Cheung đóng góp xây dựng Ni Viện
Diệu Nghiêm và Diệu Trạm.
Ngay những năm đầu 1975-1990, trong khi việc đi cứu đói còn rất khó
khăn, chúng ta vẫn len lõi mang được những món quà đến các trại cải tạo
như trại Hàm Tân (Ni Sư Tịnh Nguyện và chị Thuần) đến các trại học tập
khó đến như Hà Nam Ninh, Vĩnh Phú.
Chúng ta cũng đã liên lạc được và bày tỏ lòng ưu ái với những nhà văn
không còn hứng khởi sáng tác (trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội) và
tỏ bày niềm tin yêu đến cho họ để họ có cảm hứng sáng tác trở lại.
Chúng ta cũng có dịp đem quà đến các vùng Kinh Tế Mới đói kém, qua bàn
tay nhân ái và cương cường của Ni Sư Trí Hải và các đệ tử với chiếc ô tô
chất đầy những thuốc men, gạo đường, áo quần và... những bài thuyết pháp
bỏ túi tại chỗ.
Qua các cánh tay của anh Chân Thể Hòa và chị Thuần chúng ta gửi được gạo
tiền cho đồng bào đói kém những vùng sâu vùng xa của đất nước trong
những năm mà tình trạng còn rất khó khăn.
Bằng cánh tay của các bạn Chân Dụng Hòa, Chân Hỷ Căn, A, và Viễn chúng
ta đã chăm sóc cho những người khuyết tật, hiến tặng thủy tinh thể cho
người mắt không còn sáng, yểm trợ cho các bô lão cô đơn, thành lập các
lớp bán trú, gây quỹ trả lương cho hàng trăm cô giáo và thầy giáo, để
đối phó với nạn thiếu dinh dưỡng của trẻ em, để làm sao cho mỗi đứa bé ở
các miền sâu miền xa mỗi bé có được ít nhất là một ly sữa đậu mỗi ngày,
mỗi bữa cơm có đủ chất dinh dưỡng.
Ngày xưa trước 1975, các ni sư lớn như Cát Tường, Thể Quán (Thừa Thiên),
Thể Thanh (Cam Ranh), Như Huyền (Quảng Ngãi), Viên Minh (Nha Trang), quý
thầy lớn như Chánh Trực (Quảng Trị), Như Vạn, Long Trí... (Quảng Nam)
đều đã là những cánh tay Bồ tát vươn ra rất xa để cứu độ nhân gian.
Ngày nay các thầy như Hải Ấn ở Huế, các ni sư Đàm Nguyện (Hà Nội), Như
Minh, Diệu Đạt, Minh Tánh (Huế), Hạnh Toàn (Quảng Ngãi), Ni Sư Giới
Minh, thầy Pháp Lộ, sư cô Y Nghiêm, các anh Chân Giác Hạnh, Chân Hương
Trí, Chân Hỷ Tịnh, anh Chân Hương Niệm, anh Chân Hỷ Căn, anh Chân Tướng
Hòa,
anh Đính, anh Đạm, anh Thông, anh Hải,
anh Việt, anh Tân, chú Dũng, cô Mai, cô Xuân, cô Tuyết, cô Thân,
cô Hương, cô Phùng, cô Phụng,
chị Chân Đoan.... đều còn là những cánh tay hữu hiệu hiện đang còn tiếp
tục công việc ấy.
Cánh tay của Tăng thân dài lắm, dang duỗi ra và với tới những vùng sâu
vùng xa, không những trong quê hương mà ở cả những vùng khác trên trái
đất như Bangla Desh, Ấn Độ, Israel, Palestine... Cánh tay ấy đang xây
dựng tình huynh đệ, khơi dậy niềm yêu thương qua những ngòi bút Chân
Minh, Chân Huyền, Barbara Casey, Janelle Combelic, Peggy Rowe, Larry
Ward, Rachel Neumann, Chân Châu Nghiêm, Chân Đức Nghiêm, Chân Pháp Dung.
Từng bước
thảnh thơi, từng bước nở hoa sen! |
|

...
Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết
triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây
niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong
những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh
vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia
lớn nhất của thời đại chúng ta.
Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy
được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng
hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu
nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng
bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.
Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...)
Tuy là lớn lên và sống
trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy
Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang
xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp
thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng
bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng
chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa
của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích
thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.
Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự
thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết
cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng:
“Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những
người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những
người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù
của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam,
là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.
Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển
hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến
tranh Việt Nam. (...)
Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang
hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò
quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu
cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn
toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào,
một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật
giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp
môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải
là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong
khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn
tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý
thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ
còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng
ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.
Trích dịch từ :
Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the
suffering of the Vietnam War
By
Pankaj Mishra
TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES
|