Mật tông đại cương (2)
I. Bối cảnh
II. Mật giáo Ấn Ðộ
III. Kim cương thừa
IV. Phát triển của Mật Tông
V. Phật giáo Tây Tạng
VI. Thay kết luận
III. Kim cương thừa

Mandala - Kim
cương thừa (Mật tông) |
Kim cương thừa có nghĩa là cỗ xe kim cương (Vajrayana), được
dùng một cách rộng rãi để chỉ Phật giáo Mật tông (Tantra
Buddhism), hoặc còn được gọi là Chân ngôn thừa (Mantrayana). Kim
cương là một từ ngữ vừa có nghĩa “sấm sét” vừa có nghĩa “bất
hoại”, biểu tượng của Chân như, của Không tính, của thể tính
hằng tồn tại trong vạn sự. Vì hành giả theo truyền thống Kim
cương thừa dường như thâm nhập trực tiếp và tức thời vào kinh
nghiệm thay vì sử dụng luận lý hoặc tư tưởng biện luận nên cỗ xe
ấy được xem vừa có uy lực đáng sợ vừa cứng rắn sắc bén và quí
giá.
Kim cương thừa
và Ðại thừa
Là khía cạnh Mật pháp của Phật giáo Ðại thừa, Kim cương thừa tự
xem mình có tính kế tục vì được kiến lập trên các cấp bậc nguyên
sơ của Ðại thừa. Ðây là một trường phái Phật giáo có dấu vết ban
sơ từ thế kỷ thứ nhất s.C.N. tại Bắc Ấn Ðộ, bắt nguồn từ Ðại
thừa và được truyền qua Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và Việt
Nam. Thuật ngữ Kim cương thừa thường được gán một cách bao quát
cho Phật giáo Tây Tạng tuy thực tế, Phật giáo Tây Tạng sử dụng
cả ba thừa.
Một khi hiểu pháp luân, ta sẽ có khái niệm về sự xuất hiện của
Kim cương thừa. Trong Phật giáo, pháp luân tượng trưng cho giáo
pháp của Ðức Phật, vẽ theo hình bánh xe có tám nhánh, tiêu biểu
cho Bát chánh đạo. Kim cương thừa thường được xem là cỗ xe chính
thứ ba (thừa) của Phật giáo, cùng với hai cỗ xe kia là Tiểu thừa
mà đại biểu là Thượng toạ bộ (Theravada) và Ðại thừa. Quan điểm
ấy xuất phát từ truyền thuyết cho rằng pháp luân được đích thân
Ðức Phật chuyển ba lần.
1.
Lần chuyển pháp luân thứ nhất tại Lộc uyển, Varanasi. Ðức
Phật giảng pháp đầu tiên sau khi ngài đạt chánh quả. Nội dung
chính gồm Tứ diệu đế, Bát chính đạo, v.v… trong đó có
bộ kinh quan trọng và chủ yếu là A-tì-đạt-ma (A-tì-đàm) ghi bằng
tiếng Pali, đưa tới các bộ phái Tiểu thừa (Nguyên thuỷ,
Hinayana) mà tới hôm nay chỉ còn Thượng toạ bộ (Theravada).
2.
Lần chuyển pháp luân thứ hai tại Linh thứu sơn, một ngọn
núi ở gần Vương Xá. Ðức Phật giảng pháp gồm các bộ kinh quan
trọng về Không tính, đưa tới giáo pháp Ðại thừa (Mahayana).
3.
Lần chuyển pháp luân thứ ba tại Xá vệ quốc, ở tịnh xá Kỳ
thọ Cấp Cô Ðộc. Ðức Phật giảng pháp về Phật tính của hết thảy
các sinh linh, đưa tới giáo pháp Kim cương thừa (Vajrayana).
Tương đồng giữa
Ðại thừa và Tiểu thừa
Dù ba lần chuyển pháp luân có tính truyền thuyết ấy làm nổi bật
đặc tính cá biệt của ba thừa, cách riêng Kim cương thừa, nhưng
không thể phủ định nguồn gốc Ðại thừa của nó. Và để thấy rõ sợi
chỉ nhất quán xuyên suốt các thừa, nay thêm lần nữa so sánh Tiểu
thừa với Ðại thừa. Trong bài trước, chúng ta đã có một danh sách
những dị biệt do học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần lập. Nay, qua
đối chiếu từ điểm nhìn ngược lại của một cao tăng Thượng toạ bộ,
tiến sĩ và giáo sư Phật học Walpola Rahula, chúng ta có một danh
sách những tương đồng giữa hai thừa và cũng có nghĩa bao gồm cả
ba.
“Tôi đã nhiều năm nghiên cứu Ðại thừa và càng nghiên cứu tôi
càng nhận ra hầu như không có điểm khác biệt nào giữa Thượng toạ
bộ và Ðại thừa đối với các giáo lý cơ bản.
1.
Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Ðạo
sư.
2.
Giáo lý Tứ thánh [diệu] đế giống hệt nhau ở cả hai bộ
phái.
3.
Bát chánh đạo giống hệt nhau ở cả hai bộ phái.
4.
Giáo lý duyên khởi giống hệt nhau ở cả hai bộ phái.
5.
Cả hai bộ phái đều từ chối về một đấng tối cao sáng tạo
và ngự trị thế giới.
6.
Cả hai đều chấp nhận khổ, vô thường, vô ngã và giới,
định, tuệ mà không có điểm dị biệt nào [trong những chủ đề ấy].
Cũng có vài điểm dị biệt giữa hai bộ phái. Một quan điểm khác
biệt rõ ràng là lý tưởng Bồ tát. Nhiều người cho rằng Ðại thừa
là Bồ tát thừa dẫn đến quả vị Phật, trong khi Thượng toạ bộ chỉ
đưa đến quả A-la-hán, Bích chi Phật cũng là một A-la-hán.[.]
Kinh Ðại thừa không bao giờ dùng từ A-la-hán thừa
(Arahant-yana). Các kinh ấy dùng ba từ: Bồ tát thừa; Duyên giác
thừa; và Thinh văn thừa. Cả ba đều được gọi là bậc giác ngộ
trong truyền thống của Thượng toạ bộ.
Có người tưởng tượng ra Thượng toạ bộ là ích kỷ, vì dạy con
người tìm giải thoát cho riêng mình. Nhưng làm sao một người ích
kỷ lại có thể giác ngộ. Cả hai bộ phái đều chấp nhận ba thừa đều
là giác ngộ, nhưng xem Bồ tát là cao cả nhất.[.]
Có người cho rằng không tính do luận sư Long Thọ luận giải là
thuần tuý Ðại thừa giáo. Thật ra không tính được xây dựng trên
căn bản tư tưởng vô ngã (non-sèl), trên căn bản Duyên khởi có
trong các nguyên bản Pali của Thượng toạ bộ”.
(Thích Chơn Thiện biên dịch, Tư tưởng kinh Kim cương và liên
hệ với Nikàya, tt. 204-205, Ðà Lạt, 1984, bản in lụa, không
ghi nhà xuất bản).
Lịch sử và nguồn
cội
Người Kim cương thừa (Mật tông) cho rằng truyền thống của họ đã
có mặt từ thế kỷ thứ nhất sau CN, tuy thế, phải đợi tới giữa thế
kỷ thứ 6 và thứ 10, giáo pháp khẩu truyền mới được hệ thống hoá
và hoàn chỉnh. Tại Ấn Ðộ vào thời cao tăng Huyền Trang ghé lại
(629-645), Tiểu thừa và Ðại thừa vẫn tiếp tục sản sinh các đại
luận sư và bắt đầu hình thành truyền thống Kim cương thừa. Tới
khi Phật giáo đi vào thời kỳ khó khăn và bắt đầu suy yếu, tại
Magadha và phần lớn vùng đông bắc Ấn, Phật giáo vẫn được sự ủng
hộ của vương triều Pâla và dân chúng. Tiểu thừa và Ðại thừa tiếp
tục giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng Phật giáo nhưng
truyền thống Mật tông trở thành bộ phái quan trọng nhất.
Tuy được triển khai từ truyền thống Ðại thừa, ban đầu tại Ðông
bắc Ấn khoảng thế kỷ 8, Kim cương thừa thay vì có mặt trong các
tu viện Ðại thừa, lại xuất hiện giữa các nam nữ tu sĩ khổ hạnh
sống lang thang bên rìa cộng đoàn Phật giáo. Họ là những siddha
(tất đạt: thành tựu giả), sở đắc huyền thuật (siddhi), đi đây đi
đó, vừa rao giảng tư tưởng của Ðức Phật vừa sống phạm giới như
uống rượu, ăn thịt, và đôi khi sử dụng một dạng nghi lễ có liên
quan tới sinh hoạt tính dục, v.v…
Dù cốt lõi vẫn là các luận điểm Ðại thừa theo kiến giải sâu xa
của Long Thọ và Vô Trước về bộ kinh Bát-nhã Ba-la-mật,
cùng với Phật pháp thời kỳ đầu, Kim cương thừa còn kết hợp với
tôn giáo tự nhiên của Ấn Ðộ, ảnh hưởng nghi thức tác pháp của
Bà-la-môn giáo, liên kết những yếu tố yoga, lấy thêm những
phương pháp tu học huyền bí có tính bí truyền, và tương tác với
Mật giáo. Quan trọng nhất là ảnh hưởng từ Tây bắc Ấn Ðộ với
nhiều biểu tượng về cực quang – ánh sáng rực rỡ – cũng như ảnh
hưởng của Bắc Ấn về việc tôn thờ nữ thần Shakti và tính dục.
Kim cương thừa được gọi là Mật tông vì tín đồ phải sinh hoạt
thành từng nhóm, trực tiếp được sự hướng dẫn cũng có tính bí
truyền của một một siddha trong vai trò tôn sư hay đạo sư
(guru). Ðối với các học giả, có thể gọi Mật tông là giai đoạn
phát triển thứ ba của Phật giáo Ðại thừa, sau giai đoạn thứ nhất
là Bát nhã (Trung quán tông) và giai đoạn thứ hai là Duy thức
(Duy thức tông).
Kinh sách cá
biệt
Các văn bản làm cơ sở giáo pháp của Kim cương thừa không phải là
kinh tạng (sutra-pitaka) mà là tantra – mật pháp, có khi hiểu là
nghi quĩ (sadhana) – dùng như “thủ bản” hay “cẩm nang”. Chúng
được cho là thể hiện những kiến thức do Ðức Phật từng dạy bảo
riêng cho môn đồ nào có khả năng lĩnh hội nhất. Người Kim cương
thừa quả quyết rằng các Mật pháp (tantra) của họ được lưu giữ bí
mật trong các thế kỷ Phật giáo thời kỳ đầu, và sau đó được phát
hiện để tín đồ sử dụng vào thời con người đánh mất khả năng đạt
giải thoát theo các phương cách qui ước trước đó.
Các tantra Mật tông được biên soạn trong khoảng 500 năm rồi tập
đại thành tại chùa Vikramasita, nơi qui tụ nhiều học giả Kim
cương thừa và là một đạo tràng căn bản của Mật tông ở đông Ấn
được hoàng triều ủng hộ. Các tác phẩm quan trọng nhất của Kim
cương thừa là Như Lai tam nghiệp mật pháp (tagatatha
guhyaka guhyasamaja-tantra), Thời luân mật pháp
(kalacakra-tantra) và Ðại nhật mật pháp
(mahavairocana-tantra), Vô thượng du già mật pháp
(anuttara-yoga-tantra), v.v… Bên cạnh đó, ngoài tập hợp các
Mantra ra còn có những bài chứng đạo ca của các Ðại thành tựu
giả (Mahasiddha) dành cho sự thể nghiệm Ðại thủ ấn (Mahamudra).
Từ Ấn Ðộ, Kim cương thừa được truyền qua Tây Tạng, Trung Hoa,
Nhật Bản, Việt Nam, Mông Cổ và Nga. Riêng bộ Vô thượng du
già mật pháp không được truyền sang Trung Hoa và Nhật Bản.
Tiền đề và hệ
luận
Về mặt triết học căn bản, Mật tông tiếp nối các đặc điểm chủ
chốt của Phật giáo Ðại thừa mà từ trong đó nó triển khai.
Trong truyền thống Trung quán tông, chúng ta đã thấy thoạt đầu
có sự tuyên bố đầy kinh ngạc rằng thế giới biến đổi không ngừng
này cũng là niết bàn. Nói cách khác, chỉ có duy nhất một thế
giới và nó có thể xuất hiện trong cùng một lúc là vô thường và
niết bàn. Ðồng thời, cũng có ý tưởng quan trọng rằng mọi sinh
linh đều có Phật tính, cái cũng là Như Lai tạng.
Trong truyền thống Duy thức tông, chúng ta có quan điểm mang
tính duy tâm chủ nghĩa, cho rằng các sự vật được chúng ta trải
nghiệm như đang hiện hữu trong thế giới này, trong thực tế chúng
chỉ là các cấu trúc tâm thần hoặc tâm thức, và rằng cái được
chúng ta trải nghiệm ấy cũng chỉ là những thông giải do tâm trí
chúng ta đặt ra.
Khi hiệp cùng nhau, các ý tưởng ấy làm cho người Phật giáo Mật
tông có khả năng thấy thực tại vật lý hiện thời như một khán
đài, trên đó có thể chuyển niềm khát khao giác ngộ thành hành
động. Nói cách khác, nếu bạn có sẵn Phật tính, nếu thế giới vô
thường này cũng có thể được trải nghiệm như là niết bàn, và nếu
sự vật chỉ là cấu trúc tâm thần, thế thì hệ luận tiếp theo là
bạn có thể sử dụng các hành động thể lý tác động lên sinh hoạt
tâm thức như một phương cách phô bày trọn vẹn và nhận thức đầy
đủ động thái giác ngộ, tức thời và tại chỗ.
Về mặt kính ngưỡng, Mật tông làm nổi bật vai trò của Ðại Nhật
Phật, một trong Ngũ Phật, hiện thân của Pháp giới. Ngài là vị
Phật đầu tiên được xem là chuyển hoá từ Pháp thân. Trong đồ hình
Man-đa-la, Ðại Nhật Phật ngự ở vị trí trung tâm và được người
Mật tông ví như mặt trời chiếu sáng bốn vị Phật ngự bốn hướng
chung quanh. Thuộc tính của Ðại Nhật Phật là vô minh, nguồn gốc
của khổ não luân hồi, được chuyển hoá thì thành trí siêu việt,
trí tột cùng của Pháp giới.
Mật pháp từ Pháp
thân
Kim cương thừa cho rằng nội dung học thuyết của mình do Phật
Thích Ca nói ra từ trong Pháp thân, một trong Ba thân Phật. Theo
Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách trong Phật học từ điển,
tt.32-33, thì đối với Kim cương thừa, nội dung Ba loại thân của
một vị Phật là dùng để phát biểu về ba cấp bậc khác nhau của
kinh nghiệm giác ngộ. Báo thân và Ứng thân là thân của sắc giới,
là các thể có sắc tướng, được xem là phương tiện tạm thời giúp
hành giả nếm trải cái tuyệt đối. Còn chứng được Pháp thân chính
là tri kiến được tự tính sâu xa nhất của muôn vật, và tự tính
này chính là tính Không, trống rỗng, là Chân như tuyệt đối, bao
trùm mọi sự, và tự nó là Giác ngộ.
Như thế, quan điểm Ba thân, đặc biệt Pháp thân, của Ðại thừa đã
được Kim cương thừa quảng diễn một cách đặc thù, tương ứng với
quá trình quán tưởng của nó. Với khuynh hướng đặt nặng tiềm năng
chứng nghiệm của chúng sinh, người Mật tông diễn tả quá trình
phát triển tâm linh thành ba giai đoạn, hoặc ba phạm trù, liên
quan tới mọi hình thức tu tập theo Mật pháp:
1.
Ðịa
là bản thân của hành giả;
2.
Ðạo
là pháp môn tu tập nhằm thanh lọc Ðịa;
3.
Quả
là trạng thái tâm thức đạt được khi Ðịa thực hành Ðạo, nghĩa là
pháp môn tu tập Mật tông.
Phật đạo và Phật
quả
Ngọn đèn cũng chỉ là một, nhưng do bởi người nhìn bị loá mắt nên
thấy ra thành hai, và cứ thế thao tác trên ảo tượng “hai” đó.
Tâm trí bị lừa dối ấy nhìn thực tại và triệt để phân chia nó
thành chủ thể và khách thể. Dù trong thực tế, chủ thể và khách
thể không có tính nhị nguyên, nhưng tâm trí bị lừa mị ấy vẫn cụ
thể hoá sự hiện hữu cố hữu của chúng. Các phát biểu đại loại như
thế được tìm thấy trong nhiều văn bản của Ðại thừa, cách riêng
Duy thức tông, thế nhưng điểm khác biệt của Kim cương thừa là nó
cổ vũ cho việc sống với tính chất phi nhị nguyên, tức thời và
tại chỗ, ngay chính trong thân xác của hành giả.
Kim cương thừa gọi các dạng khác của Phật giáo là Phật đạo
và tự gọi lời giảng của mình là Phật quả. Muốn lĩnh hội
Kim cương thừa, hành giả trước hết phải nắm vững kiến giải của
Long Thọ và Vô Trước về nội dung của bộ kinh Bát nhã Ba la
mật. Thế nên người Kim cương thừa gọi Bát nhã ba la mật là
Nhân thừa, còn mình là Quả thừa. Trong Phật
đạo, ta phấn đấu đi trên con đường đạt quả vị Phật. Trong Phật
quả, ta là Phật rồi, và như thế, ta hành động như một
vị Phật với mọi quyền năng mà Phật sở hữu, thí dụ cho dù uống
nước sôi hay chì nấu lỏng hay đi trên lửa cũng không bị hại.
Truyện về Ðức Phật Trùm, hậu thân của Phật Thầy Tây An, kể rằng
ngài uống nước cường toan an toàn như uống nước trà.
Tóm lại, đúng như Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) trong Việt
Nam Phật giáo sử luận,
cuốn I., tt. 154-155, đã viết về Mật tông mà tác giả gọi là Mật
giáo:
“Mật Giáo bắt nguồn từ tư tưởng thâm sâu của Bát Nhã đồng thời
cũng bắt nguồn từ những tín ngưỡng nhân gian Ấn Ðộ [.] Ðứng về
phương diện tư tưởng, Mật Giáo là một phản ứng đối với khuynh
hướng quá thiên trọng trí thức và nghiên cứu của các hệ thống
Bát Nhã và Duy Thức. Theo Mật Giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng
những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu
nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ thành
đạo, khỏi phải đi tuần tự từng bước. Sự giác ngộ có thể thực
hiện trong giây phút hiện tại. Sự sử dụng thế lực của thần linh,
sự sử dụng thần chú, ấn quyết và các hình ảnh mạn-đà-la có thể
hỗ trợ đắc lực cho sự thiền quán hành đạo”.
“Chúng ta là
Phật rồi”
Theo Kim cương thừa, người Ðại thừa nói chung đã không ứng xử
trang trọng đúng mức với lời giảng “Chúng ta là Phật rồi”
khi họ phát biểu rằng ta, trong tiềm ẩn, là Phật, nhưng ta không
thật sự là Phật. Thái độ của người Kim cương thừa hoàn toàn
khác. Họ nỗ lực ứng xử cực kỳ trang trọng với lời giảng ấy, và
bảo lưu tính chất phi nhị nguyên giữa tâm Phật tiềm ẩn và tâm
Phật thật sự. Họ nói rằng họ thao tác theo viễn cảnh “thuần
khiết”, nghĩa là họ nhìn thực tại một cách thuần khiết như Ðức
Phật nhìn nó. Vì những người khác không nhìn thực tại giống như
thế và sống trong ảo giác của vô thường nên người Mật tông mô tả
con đường của họ như một cỗ xe làm dừng lại, tiêu diệt và đoạn
tuyệt cái ảo giác được chúng ta gọi là thực tại thông thường.
Thừa nhận rằng “Chúng ta là Phật rồi”, Kim cương thừa làm nổi
bật vai trò đạo sư của các siddha với nỗ lực dẫn dắt đệ tử hướng
tới lý tưởng mới trong thành tựu tôn giáo. Kiểu mẫu cao cả mà
Thượng toạ bộ nhắm đến là A-la-hán, bậc chí thánh hiện thân cho
Giác ngộ, và Ðại thừa nhắm đến là Bồ-tát, bậc từ bi trí huệ chấp
nhận ở lại trần thế để cứu độ hết thảy chúng sinh. Trong Kim
cương thừa, xuất hiện kiểu mẫu cao cả thứ ba là siddha (thành
tựu giả) hay đạo sư (guru), người vừa thoát ra khỏi tình trạng
bị kềm toả vừa sở hữu quyền năng huyền thuật để chế ngự nó.
Trong khi người Ðại thừa thường cho rằng chúng ta phải trải qua
nhiều kiếp mới trở thành Bồ-tát, người Kim cương thừa quả quyết
rằng ta nên và có thể thành Phật trong thời gian nhanh hơn
nhiều. Theo một số văn bản Tantra, hành giả nào tâm linh rất
tinh tiến thì có khả năng đạt quả vị Phật ngay trong chính kiếp
sống này, thí dụ Milarepa, còn những ai tâm linh chưa chín muồi
thì đòi hỏi phải trải qua nhiều kiếp nữa, nhưng tối đa là 17
kiếp.
Hình dung quán
tưởng
Dựa vào lời giảng “Chúng ta là Phật rồi” và đặt mình
vào vị trí phản ứng của người đã thành Phật, hành giả hình dung
một vị Phật hay Bồ tát với những đặc tính cùng quyền năng tương
ứng, và đồng hoá mình với vị ấy. Quán tưởng với phương pháp hình
dung hoá này được gọi bằng thuật ngữ “quán linh ảnh”.
Từ viễn ảnh mới mẻ của Kim cương thừa, không có cái gì được nhìn
là tiềm ẩn cái ác, độc dữ hoặc không tinh khiết. Ðiều ấy có
nghĩa là tự thân những đam mê – vốn bị Phật giáo thời kỳ đầu phỉ
báng – giờ đây được xem là biểu thị của tâm trí thuần khiết. Ðể
thao tác phù hợp với lời giảng mới mẻ này, người Mật tông triển
khai những thực hành mới, tập trung trên sự hình dung hoá, một
thành phần của toàn bộ thực hành được bí truyền và cần sự chỉ
dẫn trực tiếp của đạo sư.
Trước tiên, rút tỉa từ các tục lệ tổng quát về quán tưởng của
Ðại thừa, hành giả có thể được yêu cầu hình dung năng lượng từ
bi của một tâm Phật hoá hiện, thí dụ Quán thế âm Bồ tát – người
Việt thường gọi là Phật Bà Quan âm – được nhìn như một người trẻ
tuổi trầm lặng với nụ cười hằng nở trên môi.
Kế đến, nếu được tôn sư phán quyết rằng đã sẵn sàng, lúc đó hành
giả sẽ theo lệnh thầy hình dung Quán thế âm Bồ tát là Mahakala,
Ðại Hắc, một vị thần cao to, đen đúa, dữ tợn, hình người mặt
thú, kêu rống hăm doạ. Ðối với các chướng ngại to lớn gặp phải
trên con đường tu tập, Mahakala là vị thần Hộ Pháp của hành giả,
còn gọi là Hộ Thần, với bốn trách nhiệm lớn: điều phục, giúp đỡ,
thu hút và huỷ diệt. Nếu quá trình quán tưởng thực hiện đúng qui
cách, những thịnh nộ của Ðại Hắc sẽ trừ tuyệt mọi chướng ngại
đang ngăn trở hoạt động từ bi của tâm trí. Các đam mê khác cũng
sẽ được vỗ yên bằng sự hình dung các vị được gọi là thần linh
thịnh nộ khác.
Dĩ nhiên đối tượng của quán linh ảnh không chỉ là Quán thế âm Bồ
tát đơn thuần hay dưới dạng thần Hộ Thần mà còn nhiều vị Phật và
Bồ tát khác. Như thế, việc hữu hình hoá một thần linh tuyệt
nhiên không phải là một hành vi ma thuật hay do bởi ý định cầu
khẩn một thực thể tha lực ngoại tại nào. Ðây đơn thuần là một
quá trình hiệp nhất bản thân với một nguyên lý năng lượng nào đó
mà hành giả cảm thấy sự hiện hữu cụ thể của nó. Các thôi thúc
mang tính huỷ diệt được định hướng vào công tác tiêu diệt mọi
chướng ngại của giác ngộ. Các hình ảnh về một vị Phật hay Bồ tát
bạo động, thịnh nộ và đáng sợ phô bày một sức mạnh đầy thuyết
phục mà với nó, con người xuyên phá hết thảy những gì đang hạn
chế sự tinh tiến tâm linh của mình.
Ðể thực hiện quán linh ảnh, tín đồ cần có đạo sư hướng dẫn và
truyền những bài chú, gọi là Nghi quĩ (sadhana) liên quan tới vị
thần linh liên hệ. Sơ đồ cơ sở của các thần linh, những đối
tượng được hữu hình hoá và đồng hoá, căn bản là Phật gia
(buddhakala), năm vị Như Lai trong đồ hình Man-đa-la.
Gợi ý để suy
nghĩ
Trong quá trình quán linh ảnh, bạn trở thành cái bạn tha thiết
được trở thành. Về mặt tưởng tượng, bạn thấm đẫm cảm xúc khi
nhập vai vị Phật hay Bồ tát ấy. Với con đường tắt, bạn đi tới
giác ngộ bằng việc tưởng tượng những gì như thể có ngộ tính.
Nhưng phải chăng như thế là tự phỉnh phờ mình, cố ý chấp nhận ảo
giác như một thực tế, cái bị chính Ðức Phật đả phá. Và ngay cả
nhiều triết gia Tây phương cũng nghi ngờ tầm quan trọng của
phương pháp đồng hoá chủ thể với hình ảnh khách thể bằng trí
tưởng tượng.
Ðể trả lời, ta hãy xem xét tổng quát bản tính của am hiểu. Nếu
sự thông giải thực tại đặt phần lớn trên niềm hi vọng, nỗi sợ
hãi, thang giá trị, điểm nhìn và thậm chí những đặc điểm mà ta
thừa hưởng. Nếu bản thân ta cũng biến đổi khi dấn mình, một cách
đầy cảm xúc, vào các tình huống đa dạng của cuộc sống, thế thì
về mặt nguyên tắc, tại sao quá trình thao tác thâm nhập đầy
tưởng tượng vào hình tượng tiêu biểu cho lý tưởng cao quí nhất
của chúng ta lại bị xem là không có giá trị?
Ta cũng hãy xem tác động của sự lặp đi lặp lại trong quảng cáo
thương mại bằng phim, ảnh: nếu bạn nghĩ mình đang là hoặc sẽ là
loại người này thì bạn nên dùng loại sản phẩm này. Quảng cáo mời
gọi bạn thâm nhập đầy cảm xúc vào cảnh giới tưởng tượng trong đó
gợi tới các giá trị nhất định và tiếp đó, nó ảnh hưởng lên lối
sống và sự lựa chọn sản phẩm của bạn. Về phương diện này, liệu
quán linh ảnh có phần nào giống với một quảng cáo hữu hiệu trên
vô tuyến truyền hình?
Yoga tính dục
Chính ở cấp độ hình dung hoá các đam mê mà hành giả thực hành
cái nổi tiếng được gọi là “Yoga tính dục”. Trong Kim cương thừa,
đây là thành phần rõ ràng bị hiểu sai lạc nhất. Ngay cả cố Hoà
thượng Thích Thanh Kiểm (1921-2000), tiến sĩ Văn học (Phật giáo
khoa) Ðại học Rissho Tokyo, cũng đã viết trong Lược sử Phật
giáo Ấn Ðộ, t. 246, rằng:
“Từ khoảng giữa thế kỷ thứ X trở về sau, vì ‘Kim Cương Thừa’ kết
hợp với phái Sàkta [Shaktism] của Ấn Ðộ giáo, nên phái này bày
đặt ra nhiều lối hành pháp theo tà giáo, dần dần đi vào vòng đoạ
lạc, lấy chủ nghĩa khoái lạc, dục vọng cho là diệu lý chí chân,
làm mất hẳn bản lai thần tướng của Phật giáo”.
Thực tế, Yoga tính dục không dính líu gì tới sinh hoạt tính dục
vì cứu cánh khoái cảm nhục dục. Hiểu một cách hoàn toàn đơn
giản, nó chỉ liên quan tới tính vô thường trong các đam mê. Và
thông thường, nó cũng không dính líu gì tới hình thức giao cấu
như trong một loại nghi lễ theo truyền thống Shakti, cách riêng
của Mật giáo Ấn Ðộ. Thường lệ nhất, nó là quán tưởng do hành giả
thực hiện một mình trong đó Từ bi được hình dung như là năng
lượng nam và Trí huệ được hình dung như là năng lượng nữ; cả hai
được nhận thức một cách hoàn toàn tưởng tượng như là đang hoạt
động tính dục tới cực điểm hiệp nhất.
Sự hiệp nhất của cả hai năng lượng nam nữ được hiểu là biểu hiện
cho tính chất phi nhị nguyên của chúng và của con người với vũ
trụ. Quả thật, yoga tính dục của Phật giáo Mật tông là sự thao
tác và vận dụng các biểu tượng trong quán tưởng. Về khía cạnh
này, nó tương tự với chủ nghĩa thần bí tính dục được tìm thấy,
thí dụ trong hình thức Ấn giáo thờ thần Vishnu và cả trong chủ
nghĩa thần bí về chú rễ của Công giáo thời Trung cổ.
Ở đây, nội hàm mang tính tổng thể của triết học Phật giáo là cái
nhìn thấu suốt và minh triết – được biểu hiện bằng đối tác nữ
trong hoạt cảnh này – chỉ dẫn tới cứu cánh tâm linh khi nó hoà
hợp với hành động thích đáng của phương tiện thiện xảo – được
biểu hiện bằng đối tác nam. Theo truyền thống Phật giáo, tính
dục vượt tầm kiểm soát là nguyên nhân của khát khao thèm muốn
(tanha: ái), cái là một nguồn căn của khổ não. Do đó, đối với
Mật tông, vấn đề mang tính thách đố là dấn mình vào sinh hoạt
tính dục mà không do bởi động cơ thèm muốn. Người Mật tông cho
rằng chính tính dục “vô ái, atanha” dẫn tới cái nhìn thấu suốt,
và thêm nữa, tới sự hiệp nhất giữa minh triết và hành động.
Khiêu dâm và
tham dự
Khiêu dâm (sách báo phim ảnh porno hoặc xuân hình xuân truyện)
biến tính dục thành đối tượng để sở hữu và hưởng thụ. Do đó,
khiêu dâm khích lệ trạng thái phân biệt: tính dục không còn “nội
tại” để tận hưởng mà là “ngoại tại” để truy hoan.
Hãy chú ý cách cực kỳ đối lập của tính dục Mật tông vì đó là
hành động phá vỡ trạng thái phân biệt có tính qui ước. Nếu cái
tôi giả tạo của bạn không bị phá vỡ thì trong chừng mực liên
quan tới cuộc đời, bạn vẫn còn là khán giả. “Tôi vẫn đi bên
cạnh cuộc đời” (T.T.Kh). Và khi tính dục được nhìn theo
cách dự khán thì nó vẫn là khiêu dâm: nó là cái để được khao
khát, thèm muốn và hưởng lạc. Khi không có ý nghĩa hoặc cảm giác
về cái tôi tách biệt, hoạt động tính dục hoàn toàn là hành động
tự nhiên của người trong cuộc, của kẻ dấn mình vào quá trình hoà
hợp lên tới cực điểm như nhất và “phi nhị nguyên”, một trải
nghiệm tức thời trong trạng thái tương liên nối kết của con
người và vũ trụ như một toàn bộ.
Từ điểm nhìn của
triết Tây
Ðể am hiểu Mật tông, có một đặc điểm triết học quan trọng khác
được đưa ra bởi Duy thức tông, một truyền thống có nhiều điểm
tương đồng với chủ nghĩa duy tâm trong triết học phương Tây.
Rằng toàn bộ thực tại đều có tính tâm thần; chúng ta chỉ biết
thế giới trong hình thức các trải nghiệm được sở đắc, hấp thu
hoặc đồng hoá qua tâm trí của chính ta, và vì thế tri giác của
chúng ta về thế giới là một hiện tượng tâm thức.
Trong Mật tông, điều đó dẫn tới tương quan hai chiều giữa cái
được triết gia Tây phương gọi là thực tại bên trong của tâm trí
và bên ngoài của thế giới vật lý. Ở mặt này, người Kim cương
thừa thấy cái xảy ra “một cách tâm thức” có tác động sâu xa lên
thế giới ngoại tại. Ở mặt khác, các hành động và nghi lễ ngoại
tại có thể là phương cách chuyển thể trạng thái tâm thức của ta.
Chính mối liên hệ hai chiều giữa tâm thức và ngoại tại ấy nối
kết Mật tông với huyền thuật. Huyền thuật là nỗ lực nhằm biến
đổi thế giới ngoại tại bằng hoạt động diễn ra trong tâm thức –
thí dụ bằng quán linh ảnh, ấn và quyết (phép thuật), thần chú,
tụng ca, lời khấn nguyện thần linh, v.v… Ðôi khi tôn giáo bị xem
chỉ là huyền thuật khi nó quả quyết rằng bằng những nỗ lực ấy,
nó sẽ làm cho thế giới ngoại tại biến đổi. Ngược lại, nếu chỉ
dùng nghi lễ và thực hành như những cách thế để tự phát triển
tâm linh thì tôn giáo không dính líu gì tới huyền thuật, vì công
dụng duy nhất của những phương tiện thiện xảo ấy làm cho cái tôi
có khả năng càng ngày càng sống ngay hàng thẳng lối với các thực
tại nền tảng.
Nhưng điều ấy phản ánh quan điểm rất Tây phương về bản ngã và
thế giới, tâm trí và vật chất như là những cái tách biệt. Phật
giáo đặc biệt bác bỏ quan điểm đó: mọi sự là vô ngã (anatta), nó
không có sự hiện hữu cố hữu tách biệt, nó tương liên nối kết.
Do đó, vấn đề triết lý có tính quyết định của Mật tông là:
Có phải sự biến đổi được trải nghiệm trong cùng một sự một vật
là sự biến đổi thật sự?
Nói cách khác, bằng những thực hành đa dạng, ta có thể trải
nghiệm thế giới này một cách khác. Nhưng như thế, liệu có làm
cho thế giới này thật sự đổi khác? Có thể diễn tả thô thiển câu
hỏi ấy từ điểm nhìn Tây phương như sau: Vào một ngày nắng gắt,
mắt ta có thể quen dần với ánh nắng và cảm thấy dễ chịu khi nhìn
qua kính dâm, và có phải vì thế mà trời bớt nắng? Nhưng đặt câu
hỏi kiểu đó phải chăng là đem một hiện tượng vật lý ngoại tại
của thiên nhiên so sánh với biến chuyển tâm lý nội tại của hành
giả?
Thông thường, người ta giả định rằng động thái thì đi theo niềm
tin, cảm xúc và hành động thì đi theo tư tưởng. Giả định ấy có
vấn đề! Theo kinh nghiệm trong cuộc sống hằng ngày, tư tưởng của
bạn và của tôi thường được dẫn dắt bởi cảm xúc và hành động,
thay vì đi theo diễn tiến ngược lại!
Man-đa-la
Trong phần nói tới “Năm vị Phật” ở chương bàn về Phật giáo Ðại
thừa, chúng ta đã đề cập tới Man-đa-la. Ðối với Kim cương thừa,
Man-da-la không chỉ là đồ hình biểu tượng cho vũ trụ cùng sức
mạnh trong vũ trụ và là phương tiện để tập trung thiền định mà
còn là xuất phát điểm của nhiều phương pháp Quán đỉnh, cái phải
được bắt đầu bằng nghi lễ truyền phép của đạo sư.
Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách trong sách đã dẫn, tt. 255-256,
giải thích như sau:
“Trong Kim cương thừa, Man-đa-la không chỉ là đối tượng thiền
quán mà còn là bàn thờ để thiền giả bày biện các lễ vật hay pháp
khí. Tuy thế muốn được làm như thế, hành giả phải được một vị
đạo sư thừa nhận và cho phép thực hiện Nghi quĩ đó. Mỗi
Man-đa-la đều nhắm đến một vị Phật nhất định và vì thế lễ vật
hay pháp khí đều phải phù hợp. Kim cương thừa xem mọi thứ đều có
thể là Man-đa-la, từ thế giới ngoại cảnh đến chính bản thân hay
tâm thức mình”.
Về cách bày biện một Man-đa-la, Thích Thanh Kiểm trong sách đã
dẫn tt. 243-244, mô tả:
“Mandala của Mật giáo [Mật tông] có nhiều thứ khác nhau, nhưng
Mandala chính để tượng trưng cho Chân thực giới của Mật giáo thì
phối trí Ngũ Phật, hay Lục Phật. Tức là ở trung ương của đồ hình
Mandala có hình Ðại Nhật Phật, bốn phương của đồ hình có bốn đức
Phật là A Sơ Phật, Bảo Sinh Phật, Bất Không Thành Tựu Phật, và A
Di Ðà Phật, gọi là Ngũ Phật, hoặc trên năm đức Phật này lại thêm
đức Phật Kim Cương Tát Ðoả (Vajrasattva), gọi là Lục Phật. Ngoài
ra còn có rất nhiều Mandala của chư Bồ Tát, và các thần ngoại
giáo. Các đồ hình Mandala tuy nhiều nhưng hình tướng và sắc thể
của nó đại khái có hai phương pháp là hoá hiện và điều phục”.
Thông thường, Man-đa-la là nơi cư trú hoặc dinh thự của một hữu
thể thuần khiết, thí dụ một vị Phật hoặc một vị Bồ-tát. Khi thể
hiện trên mặt bằng, Man-đa-la trông giống như hình tròn bên
trong một hình vuông, được chia đều theo đường chéo thành bốn
đoạn. Tuy nhiên, thể hiện ấy chỉ là dạn bản hoặc bản thiết kế;
nó được dùng như một trợ cụ của lời giảng nhằm điểm đạo cho
người gia nhập nghi lễ Man-đa-la. Khi được hình dung một cách
thích đáng, bản thiết kế ấy trở thành một dinh cơ ba chiều kích,
hình khối hay hình cầu với những tỉ lệ cực kỳ lớn lao, vừa áp
đảo tâm trí cân đo tính toán vừa được nhìn như cấu trúc của toàn
thể vũ trụ.
Thần chú hay
Chân ngôn

Mani mantra |
Man tra – thần chú hay chân ngôn – bao gồm một số âm thanh biểu
hiệu một khía cạnh phẩm tính hay quyền năng của một vị Phật, Bồ
tát hoặc sức mạnh đặc biệt của vũ trụ. Nếu trong Ấn giáo. Mantra
như một tác động của con người lên lực vận hành của vũ trụ thì
trong Phật giáo, Mantra có ý nghĩa thiêng liêng tới độ trong rất
nhiều trường hợp, tín đồ giữ nguyên âm tiếng Phạn của chúng.
Mantra tác động qua âm thanh rung động khi được đọc lên, vì thế
nó diễn tiến theo một quá trình hành động (nghiệp) trong đó tư
tưởng (ý) thoát ra theo miệng lưỡi (khẩu) và tác động trở lại
thân tâm (thân). Kim cương thừa hiểu rõ diệu dụng của Mantra qua
ngôn ngữ lên tâm thức, và đôi khi có thể dùng Mantra như một
niệm trong quán tưởng. Vừa tụng đọc Mantra, hành giả vừa quán
một đối tượng “linh ảnh” và tay giữ một ấn tương ứng do đạo sư
chỉ dẫn theo nghi quĩ (sadhana).
Trong Kim cương thừa, hầu hết các vị Phật và Bồ-tát đều có
Mantra cá biệt, đi liền với thuộc tính của vị ấy, gọi là
chủng-thần-chú (bija-mantra). Thí dụ Mantra của Bồ tát Quán thế
âm là “om mani padme hum”; có thể dịch là “OM, ngọc quí
trong hoa sen, HUM”. Những âm tiết ấy là biểu thị bằng âm thanh
tâm từ bi của Bồ tát Quán thế âm, và ngay khi đọc lên, tâm ấy
hiển thị cho hành giả. Bằng việc lặp đi lặp lại nhiều lần thần
chú hoặc chân ngôn đó, tập trung lên hình dạng của chữ hay âm
thanh của nó, năng lượng từ bi của tâm Phật trong ta luôn luôn
được ấp ủ và nuôi dưỡng.
Kim cương thừa còn mở rộng sự am hiểu của mình về tầm quan trọng
của các âm thanh thiêng liêng ấy. Trong cảnh ngộ nhất định, toàn
bộ vũ trụ được nhìn – hoặc tốt hơn, được nghe – như là một sự
đan dệt, trùng lẫn vào nhau của các âm thanh và âm tiết thiêng
liêng ấy, tới mênh mông vô tận. Thêm nữa, cũng như niềm tin rằng
các thần linh đa dạng đều có chủng-thần-chú cá biệt, mỗi phần
hợp thành tâm thức của mỗi cá nhân đều có các chủng-thần chú
tương ứng. Do đó, hiểu biết và vận dụng Mantra thích đáng sẽ làm
cho hành giả đặt tâm trí mình hoặc mang sức mạnh của vũ trụ vào
trong tầm kiểm soát và sở đắc các cấp bậc tu tập. Ðó cũng là lý
do có thể dùng để giải thích những thần chú tuy có vẻ viện cầu
tha lực nhưng thực chất là tự trấn định, thí dụ “Nam
mô cứu khổ cứu nạn Quán thế âm Bồ tát”.
Ðồ biểu (yantra)
Yantra là một hình thức biểu đồ thần bí được Mật tông Phật giáo
sử dụng trước cả Mật giáo Ấn Ðộ, như một điểm trọng tâm của quán
tưởng và thờ phượng. Tương phản với Man-đa-la, các yantra thường
thể hiện những biểu tượng đôi khi lấy từ cảnh giới tính dục với
ý chỉ cuộc khiêu vũ của vũ trụ và hoạt động sáng tạo vẫn tiếp
diễn.
Các yantra được vẽ trên mặt đất, trên quần áo hoặc gạch đá, để
làm đối tượng thờ phượng (puja), quán tưởng (dhyana) như một
thần linh (devata) trong tự nó. Ðôi khi việc thực hành quán linh
ảnh của Mật tông có sử dụng tới yantra, qua đó, người thành thạo
có thể rút năng lượng và phẩm tính từ đồ biểu đang được quán
bằng cách đồng hoá mình, về mặt tâm lý, với ý nghĩa nội tại của
yantra ấy.
Quán đỉnh
(abhiseka)
Ðây là nghi thức đặc biệt của một quá trình quán linh ảnh. Khi
quán đỉnh, hành giả tưởng tượng rất chi tiết vị thần linh như
một hiện thực tâm linh và vạch ra toàn bộ quá trình tâm thần đi
từ việc hình dung hoá cụ thể đến việc loại trừ toàn bộ những gì
vừa hình dung. Ðể thực hiện, đệ tử ấy phải được đạo sư làm lễ
nhập môn, hay còn gọi là điểm đạo.
Quá trình thực hiện Quán đỉnh chia làm 3 phần:
1.
Phần chuẩn bị:
Qui y Tam bảo và cầu khấn tinh thần Ðại giác (Bồ tát) để khai
triển Bồ-đề tâm;
2.
Phần chính:
Gồm ba bước. Một là xây dựng linh ảnh của một thần Hộ Pháp, hay
Hộ Thần, tức là hữu hình hoá thần linh với đầy đủ những đặc tính
của vị đó. Tiếp đến, hoà nhập mình vào linh ảnh ấy. Sau cùng,
xoá sạch linh ảnh, trực nhận Chân như hay Không tính của vạn sự.
3.
Phần kết thúc.
Gồm những lời cầu nguyện, chúc tụng và hồi hướng.
Hình thức của văn bản được dùng trong nghi thức Quán đỉnh là
Thành tựu pháp hoặc Nghi quĩ (sadhana). Ðó là một Mật pháp tương
ứng được vị đạo sư Kim cương thừa cho phép đệ tử sử dụng. Thông
thường, đạo sư đọc sadhana qua một lần, có giá trị cho phép
người đệ tử tu học nó. Sau đó đạo sư bình giảng những điểm khúc
mắc, khó hiểu, những bí truyền trong Nghi quĩ ấy để bảo đảm đệ
tử tu tập được chính tông và đúng đắn.
Ðại Ấn, Pháp ấn
Một Ấn hay Pháp ấn (mudra) nói chung là một dấu hiệu thể lý.
Trong tranh tượng, mỗi vị Phật được trình bày với một kiểu tay
đặc biệt, vừa tự nhiên vừa là dấu hiệu của Phật tính. Ấn bằng
tay gọi là Thủ ấn, bằng tư thế của thân thể gọi là Khế ấn. Trong
Kim cương thừa, ấn thường đi đôi với Thần chú tương ứng, nhằm
giúp hành giả chứng nghiệm các cấp bậc tinh tiến của tâm thức và
tạo được mối liên hệ giữa hành giả với vị Phật hoặc Bồ tát đang
là đối tượng của quán linh ảnh.
Vị trí đặt bàn tay, hướng của bàn tay và cách bố trí các ngón
tay hình thành mười ấn chính, trong đó năm ấn đầu có tầm quan
trọng và nổi bật hơn phần còn lại.
1.
Ấn thiền;
2.
Ấn giáo hoá;
3.
Ấn chuyển pháp luân;
4.
Ấn xúc địa;
5.
Ấn vô uý;
6.
Ấn thí nguyện, cũng được gọi là Dữ nguyện ấn;
7.
Ấn tối thượng bồ đề;
8.
Ấn trí huệ vô thượng;
9.
Ấn hiệp chưởng;
10.
Ấn kim cương hiệp chưởng.
Kim cương chữ
Kim cương chữ (vajra), một pháp khí được dùng trong nghi lễ Mật
tông, có ngữ căn từ Kim cương thừa (Vajranaya). Nói chung, kim
cương chữ kích cỡ nhỏ, vừa đủ nắm trong lòng bàn tay. Nó gồm một
khối cầu ở giữa, trổ ra hai đầu đối xứng nhau. Mỗi đầu có năm
chồi, giống như các cánh của bông sen, uốn ra ngoài rồi cùng tụ
vào một điểm. Với hình thức và bố cục như thế, kim cương chữ còn
được gọi là kim cương chuỳ, biểu hiệu sự thức ngộ nhất thể của
vũ trụ, vượt lên trên mọi nhị nguyên có tính qui ước.
Bộ phận nào của kim cương chữ cũng mang tính biểu tượng. Khối
cầu biểu tượng sự thuần khiết, nghĩa là cái tôi đã giác ngộ. Ở
một đầu này, năm cánh sen biểu tượng cho ngũ độc gồm vô minh,
sân hận, kiêu mạn, mê đắm và ganh tị. Ở đầu kia biểu tượng cho
ngũ hảo của năm Ðại Phật Như Lai, một ngự ở điểm trung tâm và
bốn ở các hướng đông bắc tây nam trên Man-đa-la.
Do đó, được dùng như một toàn bộ, kim cương chữ biểu tượng cho
sự chuyển thể: có thể biến các độc chất ngăn chặn quá trình
chuyển thể của ta thành cái rất hoàn hảo mà ta đang tìm kiếm.
Những đường nét của kim cương chữ cũng phản ánh cái nhìn như
nhất của Mật tông, nghĩa là các độc chất lẫn các hảo chất đều
xuất phát từ một tâm điểm thực tại. Ðộc dược trong bạn cũng
chính là tiên dược của bạn.
Giả định căn bản trong Mật tông – và thật sự trong toàn bộ Phật
pháp, tiềm ẩn trong mọi hình thức của nó – là rằng không có hai
thế giới tách biệt: một là thế giới khách thể “ở ngoài ta” và
một là thế giới bí ẩn riêng tư của bản ngã “bên trong ta”. Ðối
với Phật giáo, tối hậu là không bản ngã; ý tưởng “bản ngã” hoàn
toàn chỉ là thuật ngữ qui ước, và một khi phân tích cực kỳ rốt
ráo thì không một “bản ngã” nào có thể đứng vững.
Như thế, dưới cái nhìn của Kim cương thừa, các sức mạnh thao tác
khắp vũ trụ bao la mênh mông cũng được tìm thấy trong con tim
(tâm) của mỗi người. Chỉ có một thế giới, không hai.
Như nhất
Ngũ độc chuyển thành ngũ hảo, Bồ tát Quán thế âm mỉm cười từ ái
cũng là Ðại Hắc mình người mặt thú, tiếng gầm rống kinh khiếp
cũng là âm thanh xua tan các chướng ngại tu tập, quấn quít tính
dục cũng là hoà hợp vũ trụ, thực tại thì thuần khiết và là Một,
là Như nhất. Từ “Không tính” tới “Chân không không ngoài Diệu
hữu”, ta đi tới “Như nhất”. Trong khi thăm dò ý tưởng
Như nhất, ta bắt gặp sự vén lộ một con đường khác đi vào triết
học Phật giáo.
1.
Như nhất là hiệp nhất không xác định. Nói cách khác, trải
nghiệm Như nhất là nhận chân thực tại vượt quá mọi phân chia,
vượt quá sự phân biệt cái này với cái nọ. Và do đó, đi tới quá
bên kia tri giác qui ước về thời gian và không gian.
2.
Như nhất vì thế phi thời gian, bất biến và hằng cửu. Như
nhất biểu hiện thực tại toàn bộ trước khi nó bị phân chia này nọ
do bởi trải nghiệm có tính qui ước của chúng ta về nó. Nó cũng
đi tới quá bên kia sự phân biệt ngã với vô ngã.
3.
Ði vào trải nghiệm Như nhất do đó chính là sự tự giải
phóng vì nó mang con người tới quá bên kia vạn sự trong thế giới
vô thường, nơi tạo ra khổ não.
Trong quán linh ảnh, hành giả hình dung vị Hộ Thần đặc thù và
riêng tư của mình, đắm chìm mình trong hình ảnh ấy, và điều đó
có thể tạo ra ấn tượng rằng có sự tách biệt giữa vị thần được
hình dung hoá và bản thân hành giả. Thế nhưng người Kim cương
thừa quả quyết rằng ta không nên nhiệt tình quá đáng với linh
ảnh của Hộ Thần ấy vì chúng chỉ là những biểu thị trong tâm thức
ta. Tới thời điểm thích hợp trong diễn tiến quán tưởng, ta xoá
sạch các hình ảnh ấy và trực nhận Không tính.
Như thế, ngay trong khía cạnh Mật tông bị xem như một tôn giáo
qui ước thờ phượng thần linh, vẫn hiện hữu lời nhắc nhở rằng tất
cả nghi lễ và thực hành chỉ là quá trình tu luyện tâm trí. Và ta
cũng không nên nhấn mạnh lời đó như một hiện hữu “duy nhất”
trong tâm trí, vì làm thế tức là tạo ra sự phân biệt ngã với vô
ngã, cái mà Phật giáo như một toàn bộ muốn ta vượt quá. Chỉ có
một thực tại, và tâm trí của ta là thành phần của thực tại ấy.
IV. Phát triển của Kim cương thừa
Cộng đoàn Kim cương thừa
Các nam nữ đạo sư đa dạng của Kim cương thừa cùng với đệ tử lập
thành cốt lõi của một cộng đồng Mật tông được phát triển đầy đủ.
Có những đạo sư là tăng sĩ sống trong rừng, đi theo một hình
thức sửa đổi nào đó, trong đó có một số nét không giống với lối
sống chính thống, đã làm thành đặc tính của các siddha thời kỳ
đầu. Kế đến, có những phối hợp các kiểu mẫu của lối sống truyền
thống có tính tu viện hơn (bao gồm sự liên hệ mật thiết với Nhất
thiết hữu bộ và việc nghiên cứu kinh tạng) với các kiểu mẫu đặc
biệt mang tính Kim cương thừa hơn. Tuy vậy, không một bộ phái
nào sở hữu độc quyền một kiểu sống và có nhiều hành giả Mật tông
di động qua lại giữa cả hai.
Có những gợi ý cho thấy một số đạo sư Mật tông vì mối quan hệ
mật thiết với triều đại Pâla nên đã sử dụng nghi thức tôn giáo
làm lễ đăng quang cho tân vương và bảo vệ nhà cầm quyền cùng
vương quốc của họ chống lại những sức mạnh độc dữ có thể đe doạ
phúc lợi của giới thống trị. Cũng có những nghi lễ được thể hiện
nhằm tăng tiến trình độ tu Phật của nhà vua, thậm chí có thể tấn
phong một vị vua làm Bồ tát hoặc Phật sống.
Trong giai đoạn phục hưng sức sống của Bà-la-môn giáo, không
thiếu những lý do vững chải để tin rằng người Kim cương thừa góp
phần duy trì lòng trung thành của cộng đồng cư sĩ Phật giáo. Các
siddha nổi tiếng về những thành tựu tôn giáo và trí thức, đồng
thời quyền năng huyền thuật của họ được ngưỡng mộ rộng rãi.
Nhiều học giả Tây phương có khuynh hướng cho rằng chính sự kiện
các thành tố ban sơ của Tantra Bắc Ấn thâm nhập Phật giáo, góp
phần hình thành Mật tông và sau đó đưa tới việc hệ thống hoá Mật
giáo là nguyên cớ khiến Phật giáo đánh mất sự hỗ trợ của dân
chúng tại Ấn Ðộ. Tuy thế, trong thực tế, có lẽ sức sống mới mà
hành giả Kim cương thừa đưa dẫn vào cũng khiến cho Phật giáo Ấn
Ðộ có khả năng kéo dài sự ủng hộ của dân chúng, lâu hơn thời
gian đáng phải tàn lụi của nó.
Có mặt ngắn hạn ở Trung Hoa
Tại Trung Hoa, Phật giáo Mật tông được gọi là Mật giáo, Bí mật
giáo, Du già hành giáo hay Chân ngôn thừa, và thịnh hành vào đời
Ðường.
Năm 714, cao tăng Thiện Vô uý (Subhakarasimha, 637-735)
từ Trung Ấn sang Trung Hoa truyền giáo Mật tông, dịch bộ Ðại
Nhật mật pháp ra chữ Hán và được phong là Quốc sư. Bốn năm
sau, sư Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 663-723) người Nam
Ấn, sang và dịch Kim cương đỉnh Du già trung lược xuất niệm
tụng pháp. Kế đó, đệ tử của sư là Bất Không Kim Cương (Amoghavajra,
705-774) dịch Kim cương đỉnh kinh và trở thành một
trong bốn dịch giả kinh điển nổi tiếng nhất tại Trung Hoa. Ba vị
cao tăng Mật tông ấy hoằng pháp khắp nơi, dần dần hình thành
tông phái Mật tông Trung Hoa. Cả ba được gọi chung là Khai
Nguyên tam đại sĩ.
Bất Không Kim Cương, gọi tắt là Bất Không, hiệu Trí Tạng. Sư
người gốc Tích Lan, đến Lạc Dương năm 720, thụ giới Tỳ kheo tại
chùa Quảng Phúc (724) thuộc truyền thống Nhất thiết hữu bộ. Năm
741, sư quay lại Ấn Ðộ, thụ giáo Mật tông tại Tích Lan, do Ðại
sư Phổ Hiền truyền mật ấn và được xem là tổ thứ sáu của Mật tông
Trung Hoa. Năm năm sau, Bất Không về kinh đô Trường An, thực
hiện nghi lễ Quán đỉnh cho vua Ðường Huyền Tông. Ðược triều đình
tín nhiệm nhờ đạo hạnh, trí thức và huyền thuật, sư là thầy của
ba vua Ðường liên tiếp. Bất Không kiến lập đạo trường của Kim
cương thừa tại núi Ngũ Ðà, Thái Nguyên, và từ đó Phật giáo Mật
tông rất thịnh hành.
Sư Bất Không có rất nhiều đệ tử. Người được đích truyền là sư
Huệ Quả, tổ thứ 7 của Mật tông Trung Hoa. Dựa trên cơ sở kinh
điển của Kim cương thừa, Mật tông Trung Hoa nhấn mạnh “lục đại
duyên khởi”, chủ trương sắc và tâm là một. Tín đồ theo phương
pháp tu tập “Tam mật gia trì” để “Tức thân thành Phật”. Kinh
điển Mật tông bằng chữ Hán rất nhiều, và phép tắc nghi lễ rất
phức tạp. Hiện nay tại Trung Hoa vẫn bảo tồn được nhiều bản dịch
kinh Mật tông với chất lương rất cao, dùng làm nguồn tư liệu dồi
dào để nghiên cứu Phật giáo Mật tông Ấn và Hoa.
Cũng như tại Ấn Ðộ, đường lối truyền thụ trong tông phái này chủ
yếu bằng khẩu quyết bảo mật do tôn sư đích thân truyền cho từng
đệ tử. Và đó là lý do khiến Mật tông tuy được nhiều người kính
ngưỡng nhưng không thể lan truyền rộng rãi và nhanh chóng bị
triệt tiêu. Dù sư Bất Không là thầy của ba đời vua, sau khi sư
từ trần, Mật tông suy tàn vì không có đạo sự nào từ Ấn Ðộ sang
nữa. Từ đó, Mật tông chỉ còn lưu lại nhiều dấu vết trong sinh
hoạt của Phật giáo Trung Hoa.
Phát triển sâu rộng tại Nhật Bản
Sau khi tu học Mật tông tại Trung Hoa, chuyên về Mantra: chân
ngôn, chân âm và thần chú, đại sư Không Hải (774-835) trở về
Nhật, mở đạo trường tại Cao Dã và sáng lập Chân ngôn tông, một
hình thức Phật giáo bí truyền, đúng với nguồn gốc Ấn Ðộ của nó.
Kế thừa lập luận của Kim cương thừa, Chân ngôn tông xác nhận
rằng trong lịch sử, Ðức Phật có tính lịch sử chỉ rao giảng giáo
pháp của ngài tới một mức độ giới hạn nào đó. Trong thực tế,
ngài còn có pháp khác nữa. Ðó là một truyền thống giấu kín liên
quan tới “ba bí mật thân, khẩu, ý”, ba phương pháp để mỗi người
có thể giác ngộ và trở thành một vị Phật sống. Bí mật “thân” nằm
trong Thủ ấn, bí mật “khẩu” nằm trong Mantra và bí mật “ý” nằm
trong Quán tưởng.
Theo đại sư Hoàng Pháp, một danh hiệu khác của sư Không Hải, chỉ
có thể diễn đạt giáo pháp bằng hình ảnh nghệ thuật, trong đó đồ
hình Man-đa-la đóng vai trò quan trọng nhất. Thờ Ðại Nhật Như
Lai, Pháp thân vô tận, làm vị Phật nguyên thuỷ tuyệt đối, Chân
ngôn tông chủ trương rằng chỉ những kẻ đã được điểm đạo mới có
thể tu tập theo tông này. Bạn tu tập tinh tiến tâm linh cho tới
khi bạn đạt tới điểm nhìn toàn bộ vũ trụ như một biểu thị của
Ðại Nhật Như Lai. Tại Nhật Bản, vị Phật với năng lượng trí huệ
hoàn hảo ấy được ví như mặt trời và bốn vị Phật còn lại trong
Phật gia được xem như các hành tinh xoay chung quanh.
Ðại sư Không Hải để lại tác phẩm Thập trụ tâm luận gồm
mười chương, trình bày mười cấp bậc phát triển của ý thưc giác
ngộ. Cho tới nay, Chân ngôn tông vẫn phát triển lớn rộng tại
Nhật Bản.
Chủ yếu ở Tây Tạng
Chủ yếu từ Ấn Ðộ truyền sang, Phật giáo Tây Tạng được thành hình
từ thế kỉ 8 với nội dung kết hợp các giới luật của Nhất thiết
hữu bộ cùng các phép tu của Kim cương thừa. Ở phần dưới, chúng
ta sẽ bàn chi tiết về chủ đề này.
Hoà nhập vào Việt Nam
Sống giữa đất trời bằng nghề chài lưới và làm ruộng nước, dân
Giao Châu hẳn có sự trực nhận sâu xa về năng lượng vũ trụ và bị
chi phối bởi những rủi ro do thời tiết, sóng gió và thuỷ quái
nên sinh hoạt phong tục và tín ngưỡng không khỏi đượm mùi mê tín
dị đoan. Môi trường ấy thúc đẩy con người dễ dàng tìm tới tín
ngưỡng và thần linh như một nơi để trông cậy và được an ủi. Và
như thế, nó rất thuận lợi cho Mật tông, vì ngoài những nghi lễ
và thực hành huyền thuật, tông phái còn này chấp nhận sự có mặt
của các thần linh bản địa đang được dân gian thờ phượng.
Mật tông đến với người Việt theo nhiều con đường khác nhau từ Ấn
Ðộ, Trung Hoa và Chiêm Thành. Không đứng hẳn thành một tông phái
cá biệt, Mật tông hoà nhập nghi lễ và thực hành của mình vào các
phái Thiền tông, và cùng với Tịnh độ tông làm thành ba thành tố
quyện vào nhau của Phật giáo Việt Nam. Có thể chia quá trình
thẩm thấu của Mật tông tại Việt Nam thành ba thời kỳ.
1. Du nhập và thịnh hành. Tì-ni-đa Lưu-chi (Vinitaruci,
?-594) là khuôn mặt đầu nguồn. Từ Ấn Ðộ, sư qua Trung Hoa, trở
thành môn đệ đắc pháp của Tam tổ Thiền tông Tăng Xán. Sư sang
Giao Chỉ khoảng cuối thế kỷ thứ sáu, khai sáng thiền phái
Tì-ni-đa Lưu-chi từ chùa Pháp Vân (chùa Dâu) ở Hà Bắc. Tại đây,
sư dịch Ðại thừa phương quảng tổng trì, một bộ kinh
Tantra, đưa tới một trong những đặc điểm của thiền phái này là
sự có mặt của yếu tố Mật tông.
Tổng trì là tiếng dịch chữ dharani (đà-la-ni) trong Phạn ngữ, có
nghĩa là duy trì thiện pháp và ngăn ngừa ác pháp. Trong sách
Ðại trí độ luận, Long Thọ liệt kê bốn loại đà-la-ni: pháp,
nghĩa, chú và nhẫn. Chú đà-la-ni là duy trì các thần chú để
không quên không sót. Ở đây, thần chú là những mật ngữ phát sinh
trong khi thiền định và được xem là linh nghiệm khôn lường.
Di chỉ khảo cổ cho thấy thời Ðinh và Tiền Lê rất phổ thông việc
thực hành trì chú. Phái Tì-ni-đa Lưu-chi về sau còn có thiền sư
Sùng Phạm (1004-1087), pháp hệ thứ 11, sang Ấn Ðộ tu học 9 năm.
Sư mở trường dạy tại chùa Pháp Vân, trong số đệ tử có sư Ðạo
Hạnh (?-1115), (thường gọi là Từ Ðạo Hạnh) rất nổi tiếng về phù
chú Mật tông. Sư Trì Bát (1049-1117), kế thừa Sùng Phạm, có để
lại một bài kệ kết thúc bằng mật ngữ “án tô rô rô tất rị”.
Trước đó, thiền sư Mahamaya (Ðại ảo tượng) cũng thuộc pháp hệ
thứ 10 của thiền phái này. Sư xuất thân từ một gia đình Chiêm
Thành có bối cảnh tín ngưỡng Ðại thừa phối hợp với đạo thờ thần
Shiva. Theo lời kể, sư Mahamaya chế ngự được tâm và có vô số
pháp thuật. Sư thường vân du thi triển thần thông làm phương
tiện giáo hoá. Sư phụ của Mahayama là Pháp Thuận (914-990) nổi
tiếng thực hành nhiều pháp thuật. Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018),
thế hệ 12 của phái Tì-ni-đa Lưu-chi rất tinh thông Mật tông.
Sư Vô Ngôn Thông (?-826), học trò của Thiền sư Bách Trượng Hoài
Hải, người chủ trương kết hiệp giữa thiền và các việc lao động
chân tay trong và ngoài thiền viện. Từ Trung Hoa, năm 820, sư
sang ở tại chùa Kiến Sơ, Bắc Ninh, lập thiền phái Vô Ngôn Thông.
Tuy khởi đầu, thiền phái này không thuộc truyền thống Kim cương
thừa nhưng 300 năm sau, trong hành trạng của các thiền sư như
Không Lộ, Giác Hải và Nguyện Học phản ánh khá nhiều ảnh hưởng
của Mật tông.
Sư Không Lộ (?-1119), đời thứ 9 của Vô Ngôn Thông, từng đi Ấn Ðộ
học về Mật tông và đắc “lục trí thần thông”. Tương truyền sư có
nhiều phép thuật, như bay giữa trời, đi trên mặt nước, hàng phục
cọp beo, v.v... Sư được phong làm quốc sư sau khi dùng pháp
thuật chữa lành bệnh ngồi xổm và rống như mãnh hổ của vua Lý
Thần Tông.
Sư Giác Hải, chung thiền phái và bạn của sư Không Lộ, từng làm
nhiều phép lạ trước mặt vua Lý Nhân Tông và quần thần. Sư được
vua khen trong bài thơ: “Tâm Giác Hải như hải / Ðạo Thông
Huyền thật huyền / Thần thông và biến hoá / Bên Phật bên là Tiên”
(Thích Nhất Hạnh dịch).
Sư Nguyện Học (?-1174) thuộc đời thứ 10 thiền phái Vô Ngôn
Thông. Sư đạt nhiều thần thông như trị bệnh, cầu mưa, v.v… Vua
Lý Anh Tông kính phục, để sư ra vào cung tự do. Sau sư viện cớ
tuổi già sức yếu, lui về trụ trì chùa Quảng Báo ở làng Chân Hộ,
Như Nguyệt. Số đệ tử theo học với sư rất đông, không dưới trăm
người.
Tổng kết thời kỳ này, Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) trong sách
đã dẫn, tập I, t. 217, viết như sau:
“Mật Giáo thịnh hành tại Việt Nam từ những thế kỷ thứ bảy và thứ
tám; tuy thiền phái Vô Ngôn Thông cố sức tự bảo vệ không để Mật
Giáo thâm nhập [.] nhưng vẫn không tránh khỏi ảnh hưởng của giáo
lý này. Sự kiện [ấy] cho thấy tầm quan trọng của Mật Giáo ở Việt
Nam từ ngày Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến Việt Nam qua Ðinh, Tiền Lê cho
đến cuối Lý”.
2. Thanh lọc và biến dạng. Huyền thuật của Mật tông nếu
không sử dụng với cứu cánh tinh tiến tu tập sẽ trở thành một
dạng phép phù thuỷ, đáp ứng nhu cầu mê tín và tạo thế phát triển
cho dị đoan khiến người tìm đến đạo, trên thực tế, ngày càng đi
lạc con đường đạo. Ðiều đó trở thành sự thật khi tới cuối đời
Lý, bản sắc của Phật giáo Việt Nam bị lu mờ vì loại Mật tông
được thể hiện trong thời đó. Phải chờ tới đời Trần mới thanh lọc
được phần nào, nhờ sự yểm trợ của hoàng gia, tập hợp hai thiền
phái vừa kể cùng thiền phái Thảo Ðường làm thành Trúc lâm Yên
tử.
Nhưng rồi chẳng bao lâu, chỉ sang đời Pháp Loa (1284-1330) và
Huyền Quang (1254-1334) dưới ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa
và Tây Tạng, Mật tông lại khôi phục trở lại. Sách Ðại Việt
Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên có nói tới tăng sĩ Mật tông
Tây Tạng là Du Chi Bà Lam sang truyền giáo dưới thời vua Trần
Nhân Tông và làm nhiều phép thuật. Tới năm 1311, ông lại đem con
gái của mình là Ða La Thanh sang Thăng Long và được vua tuyển
vào cung. Ông ở lại kinh sư cho đến ngày qua đời.
Sau thời Trần, Việt Nam bắt đầu thời kỳ nhiều xáo trộn, Mật tông
nhanh chóng bị biến chất và khiến cho sinh hoạt tín ngưỡng dân
gian ngày càng sa vào tình trạng mê tín dị đoan hơn.
3. Cùng Tịnh độ tông hoà nhập. Giới tăng lữ càng tiếp
cận với dân dã thì càng phải đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của tín
đồ vốn chỉ nghĩ mình tìm đến tôn giáo để được cứu khổ cứu nạn
khi sống và siêu thoát khi chết. Vì thế càng ngày yếu tố Mật
tông và Tịnh độ tông càng mạnh, chiếm chỗ trong hầu hết sinh
hoạt nghi lễ và thực hành.
Theo Thích Nhất Hạnh,
“Ở các tu viện thiền, ảnh hưởng Mật tông và Tịnh độ tông tuy
lớn, nhưng sự toạ thiền vẫn là chính yếu. Tại các lễ cầu an và
cầu siêu [hay tang lễ, v.v… tại gia], sự trì tụng các đà-la-ni
và sự niệm Phật cầu vãng sinh trở thành chính yếu”. (Sách đã
dẫn, tập II, t.32)
Tôn giáo và phép lạ
Trong Phúc âm Kitô giáo, các phép lạ của Ðức Giêsu đóng vai trò
thứ yếu so với ý nghĩa của lời giảng và cuộc đời ngài. Trong
kinh Phật cũng thế, thần thông của các vị Phật và Bồ tát chỉ có
tính phù trợ, nghĩa là đóng vai trò phụ, và thậm chí kinh sách
cũng chỉ là chiếc bè chuyên chở. Sau khi sang bờ, người qua sông
phải để lại bè để đi trên đôi chân của mình, cũng như không nên
mãi ngó ngón tay tới độ quên nhìn mặt trăng mà nó đang chỉ. Ngay
cả với Mật tông, chặng cuối của quán linh ảnh là xoá sạch mọi
hình tướng để cảm nhận Không tính. Dù thiện xảo tới mấy đi nữa,
phương tiện cũng chỉ là phương tiện.
Tín ngưỡng và tôn giáo sẽ vẫn mãi mãi có mặt trong cuộc sống của
loài người. Nhưng thực tế, không phải mọi người đều đến với tôn
giáo trên đôi chân hành giả đi theo đạo để tu và sống với tâm tư
hướng tới giải thoát.
Trong cuốn Anh em nhà Karamazov, Dostoievsky viết: tuy
Ðức Giêsu đã nói thẳng vào mặt quỉ dữ rằng con người không nên
tìm kiếm những dấu hiệu kì diệu, thế nhưng loài người lại có nhu
cầu được nghe nói hoặc nhìn thấy hoặc mường tượng có phép lạ, và
Giáo hội Thiên chúa giáo không thể không đáp ứng đòi hỏi ấy.
Người Tịnh độ tông và người Mật tông đều bảo rằng cần cống hiến
cho các tín đồ thời mạt pháp, vốn nông nổi và yếu đuối, một con
đường đạo thích hợp với tâm tư tình cảm và nằm trong tầm nắm bắt
của họ.
Như thế, từ hàng ngàn năm nay, vẫn lưu hành một khái niệm phổ
biến rằng hầu hết tín đồ tìm đến tôn giáo với niềm tin siêu
nhiên để được an ủi và cứu chữa. Chính khái niệm ấy cùng những
triển khai nó trong sinh hoạt tôn giáo đại chúng đã khiến vô số
tăng lữ thất lạc sứ mệnh cao cả của mình. Họ bị hạ giảm thành kẻ
tư tế với chiếc áo khoác gọi là đại biểu cho quyền năng siêu
nhiên tối thượng. Và tôn giáo bị đẩy xa dần mục đích hướng dẫn
tâm linh vốn chỉ để sống đạo, nghĩa là đạt giải thoát ngay giữa
lòng đời.
Vấn đề lấy cứu cánh tâm linh làm trọng tâm của mọi nghi lễ và
thực hành tôn giáo cũng như xác nhận ranh giới giữa giáo hoá
chân chính và huyễn dụ mị dân được đặt nặng lên đôi vai của giới
tăng lữ vốn luôn luôn là trí não và xương sống của mọi tôn giáo.
Bên cạnh đó, các nghi lễ và những trình bày giáo thuyết cũng cần
được hiện đại hoá bằng cung cách và ngôn ngữ thời đại, đi kèm
với các luận cứ khả thi có tính triết học và chứng lý khả tri
của khoa học, để xây dựng một nền thần học mới mà cốt lõi của nó
vẫn là lời giảng đầy minh triết của đấng khai
sáng.
Xem tiếp>>
Ngươi không phải là một tạo sinh, mà là sự biểu hiện |
|