I. Triết học là gì
II. Triết học để làm gì
III. Lý do học triết
IV. Các kiểu luận cứ khác nhau
V. Các phạm vi triết học được sách này đề cập
VI. Tiếp cận triết học Ðông phương
VII. Các truyền thống tư tưởng Tây phương
VIII. Có đáng để chịu chết không?
I.
Triết học là gì?
Triết học, tiếng Anh là philosophy, tiếng Pháp là
philosophie. Cả hai tiếng ấy có gốc từ tiếng Hi Lạp
philosophià (philo: tình yêu; sophìa: sự khôn ngoan, hoặc
minh triết).
Theo Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh, triết học là “thứ học vấn
nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ và nhân sinh”.
Theo Việt Nam từ điển của Lê Văn Ðức và Lê Ngọc Trụ, triết học
là “môn học chuyên tìm tòi cái gốc của vũ trụ và việc sinh sống
của vạn vật”; và triết lý là “cái lý sâu xa mà phải vậy của mọi
sự vật, mọi lý do, mọi nguyên lý trên đời”.
Theo từ điển Concise Oxford Dictionary, triết học là:
“...hành động tìm kiếm minh triết hoặc tri thức đặc biệt ứng xử
với thực tại tối hậu hoặc với các nguyên nhân hay nguyên lý tổng
quát nhất của vạn vật, và các tư tưởng, tri thức và tri giác của
chúng ta về chúng, các hiện tượng vật lý (triết học tự nhiên) và
luân lý (triết học đạo đức).”
Như thế, xét theo nghĩa đen, triết học là tình yêu sự khôn ngoan
hay minh triết. Triết học là sự khảo sát một cách có hệ thống
với tinh thần phê phán cách thức chúng ta suy xét, đánh giá và
hành động, nhằm mục đích làm cho bản thân mình khôn ngoan hơn,
suy tư hơn, và do đó, nhân tính hơn.
Triết học là hoạt động và là nỗ lực tìm cho ra các nguyên lý
tổng quát và các ý tưởng nằm đằng sau những khía cạnh muôn hình
muôn vẻ của cuộc sống. Có thể nêu hai thí du. Triết học chính
trị đặt những câu hỏi (vấn nạn) về công bình và bình đẳng, về
cách tổ chức quốc gia và nhà nước cùng ý nghĩa thật sự của các ý
niệm chính trị, như trật tự hoặc công bình xã hội. Triết học tôn
giáo bàn về việc có hay không có Thượng đế, bản chất và cứu cánh
của ngôn ngữ tôn giáo, nguồn gốc của cái ác, v.v...
II. Triết học để làm gì?
Khảo sát các thuật ngữ
Trong sinh hoạt thường ngày, thỉnh thoảng diễn ra những cuộc
tranh luận giữa người làm chính trị thuộc các tổ chức đối lập
nhau, các nhóm có những lợi ích xã hội khác nhau, hoặc giữa
những người có cùng mối quan tâm tới thời cuộc. Lúc ấy, thường
xảy ra chuyện người tham dự sử dụng những thuật ngữ tuy giống
nhau nhưng mang nội hàm khác nhau.
Cách riêng, có những kẻ muốn vận động sự ủng hộ của người khác
bằng cách cố ý sử dụng các từ ngữ phổ quát với nội dung uyển
chuyển để rồi có thể tùy nghi biến hóa cho phù hợp với sách lược
và mục tiêu giai đoạn của họ. Ðồng thời cũng không hiếm trường
hợp có những người vì xuất thân từ những bối cảnh khác nhau nên
thường có khái niệm không giống nhau về một số thuật ngữ mang
nội dung khá trừu tượng.
Shakespeare đã để cho nhân vật Macberth của ông mô tả tình trạng
ấy bằng những lời cụ thể mà ta có thể đem ra để mô tả nhiều cuộc
diễn thuyết và diễn văn dành cho công chúng ngày nay:
... đó chỉ là truyện kể lể
cũ kỹ của một gã khờ,
chỉ toàn lời la và tiếng rú
chẳng ý nghĩa gì!
Ðể tránh ngộ nhận, giảm dị biệt, tạo tương thông và đạt kết quả
tốt, điều thiết yếu là cần khảo sát các thuật ngữ được các bên
đối tác hay đối thủ đề cập trong khi tranh luận hoặc đối thoại.
Thêm nữa, các bên tham dự cần thăm dò nội dung của từ ngữ và ý
định của nhau khi sử dụng chúng. Ta có thể đặt các câu hỏi như:
“Bằng thuật ngữ đó, chúng ta có ý nói gì?” “Từ ngữ đó có những
hàm ý gì, có nội dung nào?”
Ðối với hai câu hỏi thuộc loại như thế, ta có thể tìm thấy trong
các từ điển tiếng Việt, thậm chí các cuốn liên quan tới lãnh vực
tranh luận, như từ điển chính trị học, từ điển xã hội học, v.v.
đôi dòng gợi ý hoặc lời giải thích ý nghĩa của một thuật ngữ,
nhưng nói chung, chúng vẫn khái quát và không thể nào đi sát với
vấn đề đúng theo bối cảnh hiện tại của nó.
Vì thế có người nghĩ rằng triết học đã không theo kịp thực tế mà
còn khô khan và quá hàn lâm. Có thể triết học là như thế, nhưng
không phải chỉ một mình nó có các đặc tính ấy, còn có những môn
học khác cũng khô khan và hàn lâm không kém. Thí dụ một bài toán
hoặc một bản vẽ kỹ thuật. Ðối với người “ngoại đạo”, chúng hình
như có ít ý nghĩa, nhưng đối với người am hiểu những gì chúng
đang diễn tả, họ sẽ thấy nội dung của chúng thích đáng và thú
vị.
Làm sáng sủa tư tưởng
Triết học cũng giống hệt như thế, không có ngoại lệ. Nó nhìn
từng lãnh vực của đời sống và đặt các “câu hỏi lớn lao”. Tùy
theo chủ đề, bạn có thể chia triết học thành những lãnh vực đa
dạng: triết học tâm trí, triết học tôn giáo, triết học khoa học,
triết học chính trị, mỹ học, v.v. Bạn có thể thăm dò các cách
thức cá biệt hoặc đặc thù khi làm triết học, hoặc khảo sát triết
học từ quan điểm lịch sử. Thí dụ như trong triết học Tây phương,
bắt đầu với các nhà tư tưởng Hi Lạp thời cổ đại – cách riêng
Plato và Aristotle – và nhìn vào con đường phát triển của nó qua
hàng chục thế kỷ.
Trên con đường phát triển ấy, triết học nhằm mục đích làm sáng
sủa các tư tưởng, các khái niệm và ý nghĩa của ngôn ngữ. Vì thế,
hiểu một cách cụ thể, việc bạn triết học hóa một đề tài tức là
bạn đang suy nghĩ một cách sáng sủa và chính xác về đề tài đó.
Nếu khi nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, bạn có thể truy
tầm khái quát quá trình tiến triển của các ý tưởng và sự phát
triển tiệm tiến của những kiến thức liên hệ. Thỉnh thoảng, có sự
thay đổi hệ qui chiếu và có sự phát hiện cách thức mới mẻ trong
việc nhìn sự vật, nhưng nói chung, những thay đổi đó có tính
ngoại lệ hơn là qui luật. Ngược lại, trong khi học triết, cùng
với việc lần tìm quá trình tiến triển của các ý tưởng, bạn đồng
thời có thể khám phá ra rằng có một số vấn đề tuy đã được người
Hi Lạp thăm dò từ thời cổ đại, nhưng đến hôm nay chúng vẫn được
ráo riết tranh luận, và rằng một số triết gia không ngần ngại
bác bỏ tận gốc rễ công trình của các triết gia khác.
Bất kỳ thời đại nào, triết học cũng thường xuyên đề nghị triết
gia nhìn lại các vấn nạn cũ và diễn đạt các ý tưởng bằng phương
cách mới, cùng tìm kiếm các quan điểm mới về mục đích và chức
năng của chính nó.
Hai cấp bậc phát biểu
Phần lớn triết học có liên quan tới ngôn ngữ. Thật thế, có một
số triết gia xem toàn bộ công trình của họ chỉ mang tính ngôn
ngữ học. Tuy vậy, để đánh giá một công trình triết học, điều
quan trọng là bạn phải phân biệt giữa ngôn ngữ ‘cấp một’ với
ngôn ngữ ‘cấp hai’. Dưới đây là một ít thí dụ:
Cấp một:
“A gây ra B”
Cấp hai:
“Có ý gì khi nói rằng A gây ra B?”
Cấp một:
“Làm thế này có đúng không?”
Cấp hai:
“Có ý gì khi nói rằng điều gì đó là ‘đúng’?”
Cấp một:
“Không có Thượng đế.”
Cấp hai:
“Nhưng, ngôn ngữ tôn giáo là gì, và làm thế nào có thể xác minh
những lời quả quyết mang tính tôn giáo?”
Ngôn ngữ cấp hai làm sáng sủa ngôn ngữ cấp một. Trong khi thực
hiện chức năng đó, nó đồng thời làm sáng sủa tư tưởng nằm đằng
sau ngôn ngữ ấy. Triết học quan tâm chủ yếu tới ngôn ngữ cấp
hai. Có thể triết học không có khả năng bảo cho bạn biết một
điều nào đó là đúng hoặc sai, nhưng chắc chắn nó sẽ làm sáng sủa
những nền tảng để bạn có thể căn cứ vào đó mà lập quyết định.
III. Lý do học triết
Khi truyền đạt cho người khác, bạn dùng ngôn ngữ. Nếu bạn không
chỉ lặp lại những gì được bạn nghe thì lúc đó, ngôn ngữ của bạn
phát sinh từ ý tưởng và quan điểm của chính bạn. Các ý tưởng và
quan điểm ấy tự thân chúng lại phát sinh từ kinh nghiệm cuộc
sống và từ bối cảnh giáo dục của bạn, những cái vốn có thể bị
ảnh hưởng bởi các thái độ đã được người đời chấp nhận và các
quan điểm của xã hội trong đó bạn chào đời.
Ðể lập quyết định chính xác
Triết học cung ứng cho bạn cơ hội để thăm dò các vấn nạn và để
xem xét một cách chính xác những gì các nhà tư tưởng đã phát
biểu về chúng trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ðiều ấy trong
tự nó đã có giá trị, vì nó giải phóng bạn khỏi tình trạng bị
giới hạn bởi những giả định mà từ trước tới nay chưa từng bị
những người sống chung quanh bạn chất vấn.
Suy nghĩ thấu đáo các đề tài từ những nguyên lý đầu tiên là kết
quả tự nhiên của hành động nhìn vào con đường mà các triết gia
đã và đang đi bằng công trình của họ. Triết học còn giúp cho tư
tưởng của bạn được sáng sủa. Càng suy nghĩ mạch lạc và sáng sủa,
bạn càng có khả năng diễn đạt trung thực ý tưởng của mình và
càng sở đắc cách thức xem xét chính xác cùng lập quyết định đúng
đắn về cuộc đời mình.
Ðể xác minh lời phát biểu
Tiếp đến, như chúng ta đã thấy, triết học khảo sát và làm sáng
sủa ngôn ngữ. Nó là một công cụ để làm lộ rõ những gì vô nghĩa
và để diễn đạt các ý tưởng một cách sáng sủa nhất có thể được.
Thí dụ, triết học tạo sự phân biệt giữa hai loại phát biểu: một
có tính “phân tích” và một có tính “tổng hợp”. Một phát biểu
phân tích được xem là đúng khi người ta hiểu định nghĩa về từ
ngữ của nó.
Phát biểu 2+ 2 = 4 là kiểu mẫu chính xác của loại phát biểu phân
tích. Bạn không bị bắt buộc phải bước ra ngoài phát biểu ấy để
thu thập các cặp gồm từng hai khoản một rồi bạn lần lượt đếm
chúng theo thứ tự để xác minh nó. Bạn không thể nào tuyên bố
chiến thắng và công bố rằng bạn đã tìm thấy một trường hợp riêng
lẻ có khả năng giúp bác bỏ qui luật ấy, nghĩa là có hai cặp của
hai nào đó mà khi cộng lại bạn thấy chúng thành năm!
Ðối với phát biểu phân tích, không cần đòi hỏi bạn phải nghiên
cứu hoặc xét nghiệm. Nhưng nếu tôi nói rằng một người nào đó
hiện có mặt tại nhà của anh ta thì phát biểu ấy không thể là
đúng theo kiểu mẫu vừa kể. Ðể xác minh, tôi phải gọi điện thoại
tới nhà anh ta hoặc ghé qua ngôi nhà đó. Người ta có thể dễ dàng
chứng minh phát biểu ấy là sai, và vì thế, nó không có khả năng
luôn luôn đúng một cách chắc chắn.
Nhưng nếu có người nói rằng “Có Thượng đế”, thì phát biểu đó có
tính phân tích hay tổng hợp? Liệu bạn có thể xác định “Thượng
đế” theo cách cho rằng sự hiện hữu của Ngài là điều không thể
tránh? Nếu như thế, liệu có thể có bằng chứng thích đáng nào để
biện hộ hoặc để bác bỏ phát biểu ấy? Luận cứ biện hộ có thể bắt
đầu bằng:
a. Thượng đế là mọi sự đang hiện hữu.
b. Mọi sự đang hiện hữu thì hiện hữu.
c. Do đó, Thượng đế hiện hữu.
Ðể thấy đúng thực tại
Luận cứ ấy nghe có vẻ có lý, nhưng nó hàm ý rằng “Thượng đế” và
“mọi sự đang hiện hữu” là hai thuật ngữ có thể đổi chỗ cho nhau.
Ðây là thuyết phiếm thần, với ý tưởng rằng Thượng đế và thế giới
thì y hệt nhau, và vì thế, luận cứ ấy hoàn toàn thuận lý. Thế
nhưng, hầu hết người ta có hàm ý gì khi dùng chữ “Thượng đế”?
Còn đối với cách nhìn của chúng ta thì “mọi sự đang hiện hữu” có
hàm ý gì?
Chúng ta quan sát và thấy rằng mọi sự trong thế giới này không
thể không tránh khỏi bị liên tục biến đổi. Và tới một thời điểm
nhất định, sẽ không tồn tại mọi sự đang hiện hữu. Như thế phải
chăng có nghĩa rằng Thượng đế mang tính phiếm thần thuyết ấy
cũng liên tục biến đổi? Tại Hi Lạp thời cổ đại, cách đây 2.600
năm, ngay từ đầu thế kỷ 6 trước Công nguyên (CN), triết gia
Heraclitus (? - 460 trước CN) trong khi xem xét cuộc thế vô
thường, đã nói rằng con người không thể bước hai lần xuống một
dòng sông vì nước giữa đôi bờ đang liên tục biến đổi.
Thế nhưng, có phải cũng vẫn ngôi trường thuở ấy không nếu các
tòa nhà đã được thay thế, ban giảng huấn đã bị thuyên chuyển, từ
năm học này sang năm học khác, học sinh của nó lần lượt ra đi và
được thay thế bằng các lượt học sinh khác? Và liệu tôi có thể
vẫn cứ là tôi thuở ấy không dù hầu hết các tế bào trong thân thể
tôi đang thay đổi và các ý nghĩ của tôi đang liên tục chuyển
động? Cái “Tôi còn lại” là cái gì trong suốt cuộc đời tôi?
Các vấn đề triết học
Bằng nội dung của các câu hỏi ấy, chúng ta đã chạm tới một số
vấn đề chủ yếu của triết học:
1. Siêu hình học: Nghiên cứu về thực tại, về những gì
đang thật sự hiện hữu;
2. Tri thức luận: Các vấn nạn (các câu hỏi) về những sự
vật nào chúng ta có thể biết và bằng cách nào chúng ta có thể
biết chúng;
3. Triết học tôn giáo: Những vấn đề nằm đằng sau các ý
tưởng và ngôn ngữ tôn giáo;
4. Triết học tâm trí: Nghiên cứu bản tính của cái tôi
(cái ngã, bản ngã).
“Hãy tự biết mình”
Những vấn đề vừa kể minh họa một đặc tính khác của triết học
cùng lý do chính đáng và tốt lành khiến chúng ta nên học triết:
bạn có thể bắt đầu từ bất cứ vấn nạn nào và rồi bạn sẽ thấy mình
bị lôi kéo vào việc xem xét hết vấn nạn này tới vấn nạn khác.
Câu châm ngôn vượt thời gian, được khắc trên đền
Delphi
ở
Athens,
và được Socrates dùng làm con đường triết học là: “Người ơi, hãy
tự biết mình”.
Hãy bắt đầu cuộc lên đường bằng cách bắt đầu đi vào “bản thân
mình”, và rồi bạn sẽ thấy rằng các vấn đề siêu hình học hoặc tôn
giáo bị cuốn hút vào cõi tư duy của bạn. Bằng việc dùng kỹ năng
triết học, bạn có phương tiện để hội nhập các ý tưởng của mình,
để gắn chúng liền lạc với nhau và để kiểm tra rốt ráo chúng nội
trong phạm vi rộng lớn của các vấn đề ấy.
IV. Các kiểu luận cứ khác nhau
Người ta có thể trình bày triết học bằng nhiều cách khác nhau.
Thí dụ Plato thích dùng hình thức đối thoại. Do đó, triết học
chính trị của ông trong
cuốn
Republic
(Nền cộng hòa) có một nhóm các nhân vật; mỗi người trình bày và
tranh cãi cho một quan điểm cá biệt. Các triết gia khác thì từ
từ mở các nội hàm tiềm ẩn trong lý thuyết đặc thù của mình ra
theo cách tuyến tính, nghĩa là cái này nối tiếp cái nọ theo một
đường thẳng.
Dĩ nhiên có một số triết gia dùng tới lối tiếp cận có tính phân
tích và diễn dịch hơn. Họ chiết các ý tưởng đã được người khác
chấp nhận thành những yếu tố rõ ràng và đơn giản nhất. Kế đó, họ
nỗ lực khởi sự từ đầu để đưa ra một tường trình về những gì có
thể biết một cách chắc chắn. Ngoài ra, cũng có luận lý học thuần
túy trong đó sử dụng ngôn ngữ nhân tạo để làm sáng sủa và sắp
đặt tính chất luận lý cho ngôn ngữ thông thường.
Triết học và ngôn ngữ
Trong triết học có một thời kỳ – khởi sự từ đầu thế kỷ 20 – lúc
ấy công tác độc nhất được đặt ra cho triết học là làm sáng tỏ ý
nghĩa của ngôn từ. Người ta cho rằng toàn bộ triết học liên quan
tới ngôn ngữ, và một khi vấn đề ngôn ngữ học được giải quyết thì
mọi cái khác cũng tự nhiên sẽ được giải quyết. Ngày nay, quan
điểm ấy nhường chỗ cho một viễn cảnh rộng rãi hơn.
Quả thật triết học liên quan tới ngôn ngữ; nó chủ yếu là để am
hiểu ngôn ngữ bạn đang sử dụng, nhưng cùng lúc ấy, triết học còn
có tầm quan trọng vượt lên trên ngôn ngữ. Triết học thăm dò các
ý tưởng và các khái niệm căn bản được diễn đạt bằng ngôn ngữ, và
rồi nó tiếp tục chuyển động để thăm dò các đặc tính về thế giới
vốn không thể được soi sáng nếu không có một quá trình tư duy và
phân tích nghiêm chỉnh.
Không có gì chắc chắn
Dĩ nhiên không phải các triết gia lúc nào cũng đồng ý với nhau
về cách ứng xử của triết học hoặc về các giá trị của nó. Năm
1980, Alfred J. Ayer (1910-1989), triết gia quá cố của Ðại học
Oxford, Anh quốc, và là người nổi tiếng với công trình về
“thuyết thực chứng luận lý”, khi trả lời trong một cuộc phỏng
vấn về tác phẩm ấy, đã bình phẩm những công trình đa dạng của
các triết gia khác. Bằng lối nói bộc trực, ông đề cập tới ý
tưởng của triết gia hiện sinh Ðức Martin Heidegger (1889-1976)
về “Hư vô”. Ayer cho rằng đối với ông dường như ý tưởng
ấy là “hoàn toàn rác rưởi” và rằng thỉnh thoảng người ta có thể
có ấn tượng về nó chẳng qua là vì họ thích bị kẻ khác chọc cho
hoang mang rối rắm.
Trong chương 9, chúng ta sẽ xem xét ngắn gọn công trình của
Heidegger. Sau khi đọc đoạn tóm lược đó, bạn có thể cảm thấy
mình nghiêng về phía đồng ý với Ayer, hoặc bạn có thể cảm thấy
Heidegger đang mô tả điều gì đó có tầm quan trọng hơn sự phân
tích dựa trên lý tính của Ayer về những gì được biết tới và được
mô tả. Ở cấp bậc sơ khởi này, điều mà bạn cần nhận biết một cách
cốt yếu là không phải mọi triết gia đều đồng thuận về các đề tài
được triết học hóa, các cách thức xử lý chúng trước đây cùng các
kết luận đã đạt được. Có nhiều triết gia bảo lưu những ý kiến
đối lập nhau. Thậm chí còn có triết gia có những ý kiến khác
nhau về cùng một đề tài, trong những đoạn đời khác nhau.
Triết học thì chẳng có gì chắc chắn. Không một bộ phận nào được
thiết định vĩnh viễn và không một công trình nào không bị chất
vấn. Ðúng hơn, như đã nói từ lúc bắt đầu chương dẫn nhập này,
triết học là một hoạt động đang tiếp diễn – và người làm triết
học thường đặt câu hỏi hơn là chỉ tìm cách đưa ra câu trả lời.
V. Các phạm vi triết học sẽ được đề cập
Hai vấn nạn nền tảng
Có hai vấn nạn căn bản liên quan tới triết học, đó là:
1. Bản tính của thực tại là gì? Thế giới chúng ta đang sống có
cấu trúc ra sao? Những vấn nạn ấy dính líu tới siêu hình học:
những câu hỏi sâu xa và tổng quát ấy nằm bên dưới loại chứng cớ
mà khoa học có khả năng khảo sát. Thuật ngữ bản tính
(nature) được dùng tới trong sách này có thể hiểu là thực tính,
thực chất hay bản chất; phẩm chất và đặc tính tự nhiên hay điển
hình của người, của vật hay của một vấn đề.
2. Chúng ta có thể biết chắc chắn những gì? Cái gì lập thành
chứng cớ có cơ sở? Có chân lý nào tuyệt đối không? Ðây là thuật
ngữ nói theo tri thức luận, tức lý thuyết về sự am hiểu.
Thêm vấn nạn thứ ba
Cùng với hai vấn nạn cơ bản trên là vấn nạn đang tiếp diễn về
ngôn ngữ. Không những dùng tới ngôn ngữ, triết học còn bị buộc
phải phân tích nó, thách đố nó và thăm dò cả những giới hạn của
nó lẫn cách thức chứng minh một lời phát biểu là đúng hoặc sai.
Luận lý học hình thức là lãnh vực mà bạn, người đang học triết,
phải biết tới; ít nhất là nhìn thoáng qua cách thức sắp xếp các
lập luận của mỗi luận cứ, để bạn tiến hành cuộc tranh luận một
cách thuận lý.
Các chủ đề khoa học, tâm trí và tôn giáo đều có tính cách trung
tâm đối với bất cứ việc học hỏi nghiêm chỉnh nào về triết học,
và chúng minh họa cách thức áp dụng các vấn nạn triết lý cơ bản
về ngôn ngữ và ý nghĩa vào các chủ đề cá biệt.
Còn có các lãnh vực khác
Nhưng loài người vốn không chỉ tìm cách hiểu rõ thế giới của
mình mà còn sống trong thế giới ấy, chọn lựa trong thế giới ấy
và tự tổ chức mình thành xã hội. Do đó triết học trình bày hai
lãnh vực thực tiễn của cuộc đời: đạo đức học và chính trị học.
Cả hai sẽ được xem xét trong chương 7 và chương 8.
Tới chương 9, chúng ta sẽ lướt nhìn truyền thống triết học lục
địa ở châu Âu kể từ thế kỷ 20 trở về trước, gồm hiện tượng luận
và chủ nghĩa hiện sinh, cùng các lãnh vực khác của triết học
châu Âu hiện đại trong khoảng ba mươi năm nay, thí dụ thuyết
giải cấu trúc hoặc chủ nghĩa hậu hiện đại, vốn có hàm ý dành cho
kiến trúc, mỹ thuật, văn chương cũng như triết học.
Sang chương 10, chúng ta sẽ đề cập một cách đại cương ba ngành
triết học để có thể “nếm trải” thêm đôi chút những gì đang có
sẵn. Mỹ học xem xét nghệ thuật, đặc biệt các bộ môn nghệ thuật,
và cố gắng xác định những gì chúng ta có ý nói qua cái đẹp;
triết học lịch sử nhìn cách chúng ta mô tả quá khứ; và triết học
giáo dục khảo sát công tác và chức năng của tiến trình giáo dục.
Sau cùng, trong chương chúng 11, chúng ta sẽ nhìn chức năng và
toàn bộ các lãnh vực được triết học vào đầu thế kỷ 21 này bao
gồm, và tính đại chúng tương đối của nó.
VI. Tiếp cận triết học Ðông phương
Một nhận xét chưa đúng
Triết học không bị giới hạn trong cương giới của một nền văn hóa
nào hoặc một lục địa nào. Nội dung triết học được giới thiệu
trong sách này và được giảng dạy tại các khoa triết ở hầu hết
các trường đại học trên thế giới, đặc biệt tại châu Âu, và Bắc
Mỹ, là triết học Tây phương. Tuy thế, đó mới chỉ là phần cơ bản
nhỏ bé trong truyền thống triết học lớn rộng hơn rất nhiều.
Nói chung, triết học Ðông phương bao gồm các hệ thống triết lý
và tôn giáo chủ yếu tại Ấn Ðộ, gồm các truyền thống đa dạng được
gom chung thành Ấn giáo, cùng với triết học Phật giáo và Kỳ na
giáo, và tại á đông gồm Việt Nam, Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật
Bản với tư tưởng của Nho giáo và Ðạo học cùng những phát triển
về sau của Phật giáo.
Người ta thường nói tới sự khác biệt sâu rộng giữa triết học
Ðông phương và triết học Tây phương, rằng triết học Ðông phương
có tính tôn giáo; nó quan tâm cực độ và đồng đều tới cả cứu độ
lẫn tri thức, trong khi đó triết học Tây phương có tính thế tục,
được nhiều người xem gần như một chọn lựa thay cho tôn giáo.
Nhận xét ấy không hoàn toàn đúng.
Tinh thần vô phân biệt
Tại Tây phương, Kitô giáo, Do Thái giáo, đạo Islam (Hồi giáo)
ảnh hưởng sâu xa lên tư tưởng triết học, và triết học của tôn
giáo tiếp tục đóng vai trò quan trọng, làm thành một khía cạnh
của triết học. Tại Ðông phương, dù triết học được xem là vấn đề
quan trọng đối với thực tiễn và tâm linh, nhưng quá trình lập
thuyết và tranh luận có thể được xem xét trong tự thân nó, hoàn
toàn tách biệt với bất cứ nội hàm tôn giáo nào. Người ta cũng có
thể xuyên tạc hoặc làm méo mó tư tưởng Ðông phương để rút tỉa
cho ra sự phân biệt giữa tôn giáo và triết học: thí dụ, Phật
giáo xem con đường chế ngự khổ não có liên quan tới sự am hiểu
các chân lý nền tảng của cuộc đời.
Vấn đề không phải là tách biệt học thuyết tôn giáo ở mé bên này
và tư tưởng thế tục ở mé bên kia – nghĩa là xem xét nó bằng việc
sử dụng lối phân biệt ấy, mang tính cách Tây phương và hoàn toàn
không thích đáng, đặc biệt khi xem xét tư tưởng Ðông phương. Bởi
thế với số trang khiêm tốn của cuốn sách này, chúng tôi dành
phần lớn nội dung để giới thiệu các lãnh vực của triết học Tây
phương. Chúng tôi xin để phần nói tới triết học Ðông phương với
những nỗ lực thăm dò và trình bày nó cho cuốn Ðại cương triết
học Ðông phương trong tủ sách triết học tổng quát này.
VII. Các truyền thống tư tưởng Tây phương
Thế hệ đi sau được xây dựng trên các ý tưởng và các giá trị của
thế hệ đi trước, đôi khi bằng cách bác bỏ và thay đổi chúng, đôi
khi bằng cách chấp thuận và triển khai chúng. Dù theo cách nào
đi nữa, ngôn ngữ và tư tưởng của bạn không thể không chịu ảnh
hưởng của các thế hệ tư tưởng gia Tây phương, trong trường hợp
thí dụ bạn đang sống ở châu Âu hay châu Mỹ, hoặc chỉ sang du học
hoặc thường xuyên đọc sách báo của họ. Sự nhận biết di sản của
loài người, cái là nền tảng cho các tư tưởng và các định chế,
cùng sự nhạy cảm đối với cách thức chúng tăng trưởng và triển
khai, giúp chúng ta nhận thức sâu xa nền văn hóa chung của thế
giới, nghĩa là của con người – dù nhận thức ấy đưa tới hành động
chỉ trích hoặc chấp nhận toàn bộ ý tưởng ấy hay chỉ chấp nhận
đôi chút.
Hai cách tiếp cận
Ta có thể tiếp cận triết học từ một số góc cạnh khác nhau. Cách
thứ nhất là liệt kê các vấn đề chính có liên quan tới triết học;
kế đó, nhìn vào cách thức được các triết gia khác nhau sử dụng
để xem xét chúng. Cách thứ hai là nghiên cứu tổng quát lịch sử.
So với các cách khác, cách thứ hai được đa số tán thưởng, vì nó
vén lộ những quan tâm của mỗi thời kỳ lịch sử. Nó cho thấy cách
thức mà các tiền giả định của các nhà tư tưởng phát sinh từ bối
cảnh xã hội cá biệt của mỗi người.
Hơn nữa, cách thứ hai còn vén lộ một điều khác. Mỗi thế hệ, dù
đang ở trên quá trình tiến triển về triết học, trong khi học hỏi
các thế hệ đi trước mình, vẫn thường có nhiều cơ hội khác nhau
để quay trở lại quá khứ gần gũi hoặc xa xăm nhằm thẩm tra thêm
nhiều lần các nan đề chính, tức là các vấn nạn nan giải, tới lui
đều khó giải quyết.
Trong lời dẫn vào cuốn sách tổng quan triết học Tây phương của
mình có nhan đề Philosophy and philosophers (Triết học và
triết gia), Penguin, 1994, trang ix, John Shand viết:
“Tính cách đặc biệt của triết học là quay trở lại nơi bắt đầu
các chủ đề khác biệt nhất, rồi thăm dò và thẩm tra chúng sâu xa
hơn. Triết học thảo luận các vấn đề lâu dài, phát sinh từ đời
sống tư tưởng. Một trong những nét hấp dẫn nhất của triết học là
nó nối kết các nhà tư tưởng sống trong những thời đại tư tưởng
khác nhau và tìm thấy nơi họ các đề tài có cơ sở giống nhau.”
Hiểu theo ý nghĩa nào đó, ý kiến trên có thể làm ta nãn lòng.
Tại sao tới hôm nay, một sinh viên ngồi trong một giảng đường
nào đó ở Việt
Nam
vẫn phải học về Plato ở mãi thời cổ đại Hi Lạp? Tại sao lại mất
thì giờ cho một học trình khảo sát các chủ đề mà phần chủ yếu
của chúng bị khống chế bởi những kẻ đã chết từ lâu như Plato,
Aristotle, Descartes, Hume? Và tại sao lại phải mày mò tìm đọc
các văn bản thế kỷ 20 này của Russell, Ryle hoặc Ayer, mà nội
dung của chúng chỉ xoáy sâu vào các đề tài cũ rích?
Không có đề tài nào lỗi thời
Ðiều quan trọng là nhận ra, như Shand tiếp tục trình bày trong
cuốn sách đáng đọc của ông, rằng viễn cảnh lịch sử vén lên nhiều
“tầng tầng lớp lớp” tư tưởng vẫn còn thích đáng đối với các vấn
đề đang được triết học quan tâm. Quan điểm của Plato về xã hội
hoặc cách thức am hiểu của ông về bản tính của thực tại; ý tưởng
của Aristotle về quan hệ nhân quả; cuộc truy lùng của Descartes
về cái chắc chắn – hết thảy những đề tài ấy vẫn còn thích đáng
dù ngày nay thuật ngữ được dùng để trình bày chúng không còn
giống với thuật ngữ của các triết gia ngày xưa.
Triết học dò sâu vào các tiền giả định của bất cứ lập luận nào
hoặc bất cứ lời tuyên bố nào. Nó nhìn bối cảnh của các giả định,
kế đó, nó lục lọi nền tảng xuất phát của từng cái cùng nội hàm
của nó và các luận cứ biện minh cho nó. Các đề tài về chân lý
không bao giờ bị giới hạn về phương diện lịch sử. Cái hình như
có giá trị ở một thời điểm nhất định vì đã được chứng minh bằng
những luận cứ chắc nịch vẫn có thể không đúng theo ý nghĩa tuyệt
đối hoặc thường trực. Thế nhưng, ngược lại, ta không nên gạt bỏ
một luận cử chỉ vì nó được đề ra trong một bối cảnh văn hóa với
ngôn ngữ được sử dụng rất khác với bối cảnh văn hóa và lối nói
của chúng ta ngày nay.
Phải sai mới đúng
Karl Popper (1902-1994), một triết gia thế kỷ 20, trong khi khảo
sát cách khoa học đạt được tiến bộ, đã nhấn mạnh sự kiện rằng
một lý thuyết nếu quả thật có tính khoa học, nó phải có khả năng
bị chứng minh là sai hoặc lệch. Người ta đạt được tiến bộ không
phải nhờ vào việc bố trí một chuỗi liên tục các thí nghiệm thành
công và chứng minh lý thuyết ấy đúng, nhưng do bởi việc tìm thấy
các thí dụ ở những chỗ nó thất bại. Sự thất bại của một lý
thuyết làm sản sinh lý thuyết kế tiếp – và đối với triết học,
quá trình thành tựu cũng y hệt như thế. Mỗi thế hệ triết gia
thẩm tra các ý tưởng đã được kiến lập, và bằng việc chứng minh
những giới hạn của chúng, họ có khả năng đề ra những thuyết mới.
Ðối với kẻ khao khát có được câu trả lời dứt khoát, triết học
dường như tỏ ra nó là nguồn chán nãn triền miên. Ðối với kẻ
triền miên đặt câu hỏi, sẵn sàng xem xét và sửa đổi quan điểm
của mình, triết học là nguồn hấp dẫn và là phương tiện mài dũa
khả năng phê phán.
Cuộc sống là đối tượng chính
Suốt nửa đầu thế kỷ 20, phần lớn triết học được giảng dạy tại
Anh và Bắc Mỹ bị khống chế bởi một quan điểm có tính hạn chế
chức năng của nó. Tại đó, hầu như triết học không đưa ra nội
dung của chính nó. Người ta xem công tác chủ yếu của nó là phân
tích và làm sáng tỏ những phát biểu được các trường phái khác
lập thành hoặc do đại chúng đưa ra. Triết học tại các xứ nói
tiếng Anh thời ấy không có bước nhảy vọt của trực giác để có thể
mở ra các viễn cảnh và các triển vọng mới, ngoại trừ việc tìm
kiếm một vai trò hỗ trợ càng chi tiết càng tốt.
Một viễn cảnh lịch sử và một thoáng nhìn phạm vi của các đề tài
được đề cập suốt trong nhiều thế kỷ sẽ cho thấy triết học có khả
năng to lớn hơn nhiều trong ứng phó của nó và rộng rãi hơn nhiều
trong thẩm tra của nó.
Phạm vi truyền thống của các chủ đề khảo sát bao gồm các bộ môn
như siêu hình học, về bản tính của thực tại; tri thức luận, lý
thuyết về nhận thức; đạo đức học; triết học tôn giáo, triết học
tâm trí, triết học khoa học, triết học chính trị, triết học nghệ
thuật. Hết thảy những bộ môn ấy đều xứng đáng chứng minh cho
cung cách ứng xử rộng rãi hơn của các công trình triết học và sự
thích đáng của triết học đối với cuộc sống đời thường.
Ðã tới lúc con người có thể nghĩ tới triết học như một hành động
chiếm lĩnh các không gian còn lại trong tri thức của loài người
sau khi khoa học, xã hội học, tâm lý học, kinh tế học – như
chúng ta hiểu chúng cho tới hôm nay – nói cho chúng ta biết
những gì mà chúng có thể nói về thế giới.
Lợi thế của người đi sau
Không khác bọt biển trên đầu sóng, cuốn sách nhỏ này được đưa
đẩy bởi toàn bộ chuyển động của tư tưởng kéo dài từ ít nhất
2.500 năm trước. Trong khi hiểu rõ những giới hạn trên bề mặt và
dưới chiều sâu của mình, chúng tôi chỉ dám trình bày về thực tại
của triền sóng ấy và chiều hướng tổng quát của con nước bên
dưới. Một xã hội không triết học sẽ bị cắt đứt với cội rễ của
nó. Sống trong một xã hội như thế, con người, đặc biệt các bạn
trẻ, hẳn phải bắt đầu từ thời hồng hoang và phải lặp đi lặp lại
nhiều lần, để chọn lọc các giá trị cho mình và để am hiểu chính
mình.
Với triết học, quá trình chọn lọc ấy được bộc lộ trong các viễn
cảnh luận lý và lịch sử của nó. Với triết học, bạn ở tư thế
thượng phong; bạn bắt đầu nhìn vấn đề với lợi thế vì bản thân
bạn đã có thể thu thập ít nhiều kiến thức từ kho tàng minh triết
được tích lũy bởi một số nhà tư tưởng kiệt xuất trong cả hai nền
văn hóa Tây phương lẫn Ðông phương, và chúng ngày càng được giao
lưu nhiều hơn để lập thành nền văn hóa chung của con người trong
thiên niên kỷ thứ ba.
VIII. Có đáng để chịu chết không?
Trong lịch sử triết học Tây phương, nếu Thales là triết gia đầu
tiên vì ông bắt đầu nhìn ra thế giới thì Socrates là triết gia
và là hiền giả vĩ đại nhất vì ông bắt đầu nhìn vào con người.
Ông là kẻ đầu tiên tiêu diệt ý thức huyền thoại và xây dựng lý
tính.
Với Socrates, cỏ cây, sông núi, trăng sao và toàn bộ thế giới
bên ngoài đều không quí trọng bằng con người. Nỗ lực của con
người nhằm tự biết mình là quan trọng nhất. “Người ơi, hãy tự
biết mình”. Sau đó mới tới việc tìm biết những vấn đề của
con người. Thứ nhất: tôi là ai. Rồi mới tới thứ hai: con người
là gì và con người đi về đâu. Và đối tượng đứng hàng thứ ba của
tri thức có lẽ là các vấn đề tự nhiên, v.v.
Tìm chân lý hoặc chết
Thế rồi, phút giây đặc biệt và cảm động nhất trong lịch sử triết
học Tây phương là khi Socrates chấp nhận cái chết và nâng chén
thuốc độc lên môi vào một buổi sáng năm 399 trước CN. Biến cố ấy
được ghi lại bởi Plato, kẻ tôn kính sư phụ mình tới độ về sau,
ông trình bày các luận cứ triết học của mình theo hình thức
những cuộc đối thoại hùng hồn trong đó Socrates là kẻ phát ngôn
và là nhân vật chủ chốt.
Bị cáo buộc có thái độ cũng như có những lời giảng dạy vừa bất
kính thần linh vừa làm hư hoại thanh niên thành quốc Athens,
những kẻ hằng ngày lắng nghe ông, tôn kính ông làm đấng hiền giả
đại sư phụ qua động thái của ông liên tục chủ động thách thức
các niềm tin của người khác và các qui ước của xã hội. Tòa án
Athens
kết án tử hình Socrates. Theo Plato, Socrates từ khước lời đề
nghị chọn một hình phạt khác thay thế; ông cũng không chịu bỏ
trốn khỏi Athens để sang sống bình yên tại một thành phố khác,
cũng tọa lạc trong không gian văn hóa Hi Lạp. Chấp nhận cái chết
để chứng minh cho niềm tin và tư tưởng triết học của mình,
Socrates sẵn sàng uống chén thuốc độc hành quyết.
Tự do tư tưởng là tối thượng
Ðối với Plato, lý trí và tự do của cá nhân được quyền sống phù
hợp với bản thân mình, chiếm địa vị cao hơn trật tự xã hội và
chính trị. Trong công cuộc truy tầm chân lý, Socrates không
buông bỏ quyền tự do của ông hoặc chấp nhận một hình thức thỏa
hiệp nào đó, dù dưới mắt nhìn phán xét của chính quyền, công
cuộc ấy mang tính khuynh đảo và nguy hiểm. Thật thế, như về sau
Plato mô tả chi tiết trong cuốn Republic, sự công bình và
các định chế của quốc gia phải đặt căn bản trên lý trí, và nhà
cầm quyền nên là các triết gia, những kẻ có ý muốn và có khả
năng áp dụng lý trí với thái độ khách quan và vô vị lợi.
Ðối với Socrates, triết gia không tiến hành công việc của mình
bên lề cuộc sống mà ở ngay tâm điểm của nó. Việc thôi không còn
tra vấn và thách thức các khái niệm đã được người đời chấp nhận
là một hành động không đáng cho ta nghĩ tới. Socrates chấp nhận
thà chết còn hơn nộp phạt hoặc đi khỏi
Athens.
Và Plato, người thanh niên môn sinh kính yêu ông, đã cho hậu thế
biết rõ vị sư phụ của mình là một người trầm tĩnh, có lý tính và
có phẩm cách tuyệt đối.
Cái giá của việc làm triết học
Sau Socrates với chén thuốc độc, ta còn có dịp đọc thấy rất
nhiều triết gia tiếp tục noi theo tấm gương xác tín và dũng cảm
của ông. Suốt hơn hai ngàn năm qua, không thiếu các nhà tư tưởng
bị đày biệt xứ, bỏ mình trên giàn hỏa, trên đài xử giảo hoặc
trong ngục tối hay trại tập trung vì công trình triết học của
họ.
Xưa nay, triết học có thể là môn học làm nãn lòng. Ðôi khi nó có
vẻ khô khan và xa rời cuộc sống. Ðôi khi nó đóng vai trò người
hầu hẻ hạ của ngữ học với nhiệm vụ duy nhât là làm sáng tỏ những
thuật ngữ được các môn học khác sử dụng, còn bản thân nó chẳng
cống hiến được điều gì chắc chắn cho kho tàng tri thức của loài
người. Ðôi khi có những triết gia cứ nhất định ghi ghi chép chép
tư tưởng của mình bằng một bút pháp mù mờ thay vì viết ra một
cách sáng sủa. Nhưng từ thời này sang thời khác, dường như người
ta cứ bị thôi thúc, quyến dụ phải nêu vấn nạn, phải đặt câu hỏi
rằng:
“Có đúng vậy không? Tại sao người ta không ổn định một lần cho
xong các tư tưởng, các giá trị đã được thiết lập, dù chỉ là ổn
định ở bề mặt? Tại sao lại làm cho cuộc sống thêm phần rắc rối
và khó khăn bằng cách cứ phải triền miên phân tích? Hoặc trong
trường hợp các triết gia bị thảm sát, đặc biệt Socrates, chén
thuốc độc ấy có đáng để uống không?”
Khởi sự tìm hiểu triết học, cũng là lúc tâm trí của bạn bắt đầu
vương vấn các câu hỏi ấy, và chính bạn là người sẽ tự trả lời
cho mình. Dù năng nổ hay thụ động, con đường đi vào triết học
chỉ mở một chiều thẳng tới phía trước. Và đi trên con đường đó
nghĩa là bạn trở thành kẻ duy nhất giúp mình tự định nghĩa thực
tại của bản thân và cuộc đời.