Ý nghĩa của triết học
"Vì Thượng đế ban phát cho mỗi chúng ta ít nhiều Ánh sáng của Lý
trí (Light of Reason) để qua đó phân biệt cái đúng và cái sai,
tôi không thể tin rằng mình nên, trong một khoảnh khắc tạm thời
nào đó, an tâm mãn nguyện với ý kiến của kẻ khác. Còn về các ý
kiến đã được tôi ấp ủ cho tới lúc này, tôi nghĩ rằng cách giải
quyết tốt nhất là ngay lập tức quét sạch sành sanh chúng, và
rằng sau đó tôi sẽ ở trong tư thế tiếp thu ý kiến khác chính xác
hơn, hoặc thậm chí có thể tiếp thu những ý kiến cũ một khi chúng
đã trải qua cuộc xem xét rốt ráo của Lý trí"
(René Descartes: Discours de la méthode).
I. Tính hiếu kỳ triết học
II. Nguồn cội của triết học
III. Những thí dụ về các chủ đề của triết học
IV. Tinh thần triết học
V. Ðiểm khởi hành của triết học
VI. Giá trị của triết học
I. Tính hiếu kỳ triết học
Tự nhiên như trẻ thơ
Như kẻ nhẹ nhàng phân chia công việc, triết học chỉ đưa ra cho
người mới khởi sự tìm hiểu nó một yêu cầu duy nhất: bạn hãy bắt
đầu với tính hiếu kỳ và tiếp tục duy trì sống động tính cách ấy.
Chắc chắn bạn cũng như tôi, chẳng ai cho rằng đó là lời yêu cầu
quá đáng.
Chúng ta từng trải qua và cũng đang chứng kiến các trẻ em phô
bày tính tò mò tự nhiên của chúng như thế nào. Thế nhưng cùng
với thời gian dần trôi, trong khi mỗi ngày một lớn, chúng ta
thỉnh thoảng lại cảm thấy như thể mình đang nắm trong lòng bàn
tay mọi câu trả lời hoặc mình đang biết rõ nơi sẽ tìm thấy mọi
đáp án. Và rồi với tâm trạng tự tin như thế, chúng ta càng ngày
càng vô tình làm cho tính hiếu kỳ của mình cùn dần cạnh sắc của
nó.
Nghi ngờ mọi đáp án
Trong cuốn sách này, triết học sẽ hiện ra dưới mắt bạn với cơn
thách thức triền miên của nó, đặc biệt qua thái độ nghi ngờ mọi
câu trả lời – hoặc các đáp án – đã được tìm thấy hay kiến lập từ
trước. Vì nếu muốn bước qua ngưỡng cửa dẫn vào triết học, bạn và
tôi trước hết phải giống như trẻ thơ, với tính hiếu kỳ không bao
giờ có khả năng bị xơ cứng và trí óc tươi tắn, sẵn sàng đón nhận
những cái mới mẻ.
Tinh thần không biết của Socrates
Bạn sẽ không thể nào trở thành triết gia, thậm chí không bao giờ
cảm thấy thoải mái khi đi vào triết học nếu bạn nghĩ rằng mình
đang biết hết các câu trả lời cho bất cứ câu hỏi nào, hoặc ngay
cả mình biết hết mọi câu hỏi.
Kẻ nào nghĩ như thế tức là vẫn mãi mãi không biết về sự vô minh
(ignorance) của mình, và như thế, về mặt trí tuệ, y tự cưu mang
một chướng ngại tệ hại nhất. *Socrates (469-399 tr.C.N.) được
xem là người thông thái nhất thành quốc Athens của Hi Lạp vì
trong khi hết thảy những người đương thời ở đó đều không biết
rằng họ chẳng biết gì thì chỉ một mình ông biết ông không biết
gì. Triết học, trong điều kiện tốt nhất của nó, phản ánh tinh
thần ấy của Socrates.
II. Nguồn cội của triết học
1. Giới hạn của tri thức
Càng biết càng thiếu
Những tiến bộ của khoa học trong việc vén lộ các bí ẩn của thiên
nhiên (nature) – hay tự nhiên – đã và đang khiến cho chúng ta
ngày càng sửng sốt trước tính chất huyền ảo của thiên nhiên và
làm cho chúng ta nhận thấy những gì mình đã biết thật ra cực kỳ
nhỏ nhoi. Nhà vật lý học và toán học Anh *Isaac Newton
(1642-1727) thường xem mình giống như đứa bé đang nô đùa với các
viên sỏi bên bờ biển trong khi đại dương tri thức (knowledge)
vẫn ở ngay trước mặt và chưa được thăm dò.
Vào cuối thế kỷ 19, có một số nhà khoa học tin chắc rằng mọi vấn
đề khó khăn trong vũ trụ (the universe) và con người đang được
giải quyết, và chẳng bao lâu nữa, với sự phân công thích đáng
giữa họ với nhau, họ sẽ hoàn tất kho tàng tri thức của loài
người. Thế rồi sau đó, suốt thế kỷ 20 và bước sang thiên niên kỷ
thứ ba này, chúng ta ngày càng nhận ra rằng không đáp án nào
không làm phát sinh các vấn đề mới và rằng hơn bao giờ hết, loài
người đều cảm thấy không chắc chắn lắm về bất cứ kết quả nào.
Chung quanh vẫn huyền bí
Vũ trụ, cả trên không gian bao la, dưới đại dương sâu thẳm lẫn ở
gần gũi bên ta, vẫn bị che phủ bởi một tấm khăn huyền bí. Ðằng
sau tấm khăn liệm đó, mọi bí mật của nó vẫn còn giấu kín. Trong
khi con người tuy đã đặt chân lên mặt trăng, tiến dần về sao Hỏa
và tiến xa về mặt tri thức, vẫn càng lúc càng nhận ra sự ngu dốt
(ignorance) của mình thật không bờ bến.
Chúng ta đã nhìn thấy vũ trụ gồm những vì sao và những thiên hà
nhưng theo những phát hiện ở nửa sau thế kỷ 20, vũ trụ còn gồm
những thứ chúng ta hay kính viễn vọng không thể thấy. Sự tính
toán chính xác của các nhà khoa học trong năm 2004 cho thấy
những thứ chưa được thấy chiếm tới 96% khối lượng của toàn thể
vũ trụ. Những gì trước đây chúng ta tưởng là toàn thể vũ trụ
thật ra chỉ mới có 4%!
Ðôi khi tính hiếu kỳ của chúng ta nảy sinh do bởi cảm giác ngờ
vực, phát xuất từ sự nhận biết các giới hạn của tri thức. Khi
suy ngẫm về thiên nhiên, về bản thân, về thân phận (destiny)
tổng quát của con người, chúng ta cảm thấy dường như phần lớn
các vấn đề ấy đều mù mịt và khó hiểu. Là con người, chúng ta đều
bị cuốn hút vào mạng lưới của các biến cố (events) và bị chúng
chi phối. Chúng ta chẳng thể nào hành động như một loài tự
nhiên, thí dụ con trâu con bò hoặc dây bầu dây bí.
Sống như một con người
Dù tốt hay xấu, đúng hay sai, chúng ta đều phải hành động như
một con người. Một số hành động này của chúng ta được đánh giá
là tốt/thiện (good). Một số hành động khác của chúng ta bị phê
phán là xấu/ác (bad). Một số hành động đem lại khoái lạc hoặc
đau đớn cho chúng ta. Có một số hành động chúng ta cảm thấy mình
chịu trách nhiệm trong khi đó có một số hành động chúng ta bị kẻ
khác cưỡng bách mình làm. Thí dụ việc giết người trên đường phố
hoặc trên chiến trường.
Chúng ta thường cho rằng mình là những cá nhân độc lập
(independent individuals) tuy biết mình đang sống trong những
câu thúc của xã hội, hoặc đang bị điều kiện hóa bởi môi trường
(environment). Tuy trong chúng ta thời nào cũng có một ít người
tìm cách "nổi loạn"; họ quan tâm tới việc không sống đúng với
các khuôn mẫu (pattern) hoặc động thái (behaviour) đang được xã
hội chấp nhận và khích lệ.
Thời nào cũng thế, chúng ta thích nghĩ rằng bản thân mình tự do,
tuy hầu như ai cũng biết rằng số phận của mình, trên một qui mô
lớn, bị quyết định bởi những yếu tố nằm ngoài bản thân mình. Và
hơn hết, ai cũng biết rằng sự sống của mình chỉ là tạm thời;
trước sau gì mình cũng không thoát khỏi cái chết đã được định
sẵn cho loài người.
Duyệt xét nhân sinh quan
Những suy ngẫm (reflections) ấy khiến cho chúng ta không thể
không đặt câu hỏi về bản tính của con người (human nature), tự
do của con người (human freedom) và thân phận của con người
(human destiny).
Có phải cuộc đời là chỉ là một giai đoạn đang qua, không có cội
rễ trong quá khứ và chẳng có hy vọng cho tương lai? Có phải
chúng ta nên đồng ý với những kẻ theo thuyết *bất khả tri
(agnosticism) rằng con người đang đứng giữa hai cái vĩnh cửu: y
triền miên than khóc, suốt từ điểm chạm vào đầu mút vĩnh cửu đầu
này cho tới điểm chạm vào đầu mút vĩnh cửu cuối kia, và y chỉ
nhận được tiếng khóc than của mình dội lại.
Cuộc hiện sinh (existence) của chúng ta có ý nghĩa nào hoặc có
mục đích nào không? Có phải chúng ta chỉ là những sản phẩm tình
cờ của các hoạt động hoá học đang thao tác một cách mù lòa, vô
cảm, chẳng chút động lòng? Có phải con người có tự do quyết định
động thái của mình? Có phải hết thảy các hành động của con người
đều bị quyết định bởi các trung gian vật chất? Ðó là những vấn
nạn mà một người bình thường không thể không đặt ra cho y?
2. Tình trạng bối rối
Ðời phức tạp và lúng túng
Trước những vấn nạn biểu hiện mối quan tâm có tính lý thuyết ấy,
cho tới nay, dường như triết học là nỗ lực duy nhất nhằm đáp ứng
nó. Triết học cũng là lãnh vực duy nhất luôn luôn cần tới sự
khích lệ một tính hiếu kỳ thuần lý thuyết (a theoretical
curiosity). Nhiều người có khuynh hướng tin rằng tình trạng phức
tạp và lúng túng về cuộc đời làm nảy sinh trực tiếp mối quan tâm
tới triết học.
Con người đôi khi không thể không cảm thấy mình là đồ chơi của
thần linh, bị xô đẩy hết chỗ này sang chỗ nọ mà không có lý do
rõ rệt và không chút xót thương. Y cảm thấy trong bản thân tràn
ngập những sức mạnh mà y không thể nào kiểm soát. Chúng dẫn đưa
y tới những hành động mà bản thân y chẳng thể nào tán thành,
giống hệt tên nô lệ trơ vơ, bị các đam mê (passions) sai khiến.
Bên trên những cái đó, phủ chiếc bóng thảm kịch lớn lao hơn được
làm thành bởi cái chết, đau khổ, bệnh tật, lũ lụt, động đất, bão
tố, cách mạng và chiến tranh, hoặc mô tả ngắn gọn như *Phật
Thích Ca là sinh, lão, bệnh, tử.
Không thể tránh né
Các cơ hội xảy đến thì kể không cùng. Không dịp này cũng dịp
khác, sớm muộn gì mỗi người đều phải đương đầu với vấn đề cái ác
(evil), với sự nhận biết các sức mạnh trong vũ trụ; chúng dường
như đang nhắm thẳng đến chúng ta để hủy diệt con người.
Tình trạng hoang mang khắc khoải dễ thấy trong xã hội Việt
Nam
hiện nay là dấu hiệu cho thấy rằng tính lãnh đạm, lạnh lùng khắc
nghiệt đã thấm sâu vào tâm hồn của nhiều thế hệ. Hậu quả thê
thảm của các cuộc chiến tranh trong thế kỷ 20 vừa qua, và nhất
là những khép kín trong tương quan nhân quần, sự mất quân bình
giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, rồi tới cơn đảo
lộn cực kỳ của cuộc công nghiệp hóa trong thời kỳ đầu toàn cầu
hóa, v.v. Tất cả đã và đang làm lan tràn cảm giác bất lực và bất
an, được phản ánh trong cơn khủng hoảng niềm tin cùng những
hoang mang về các giá trị đạo đức, rối loạn đạo lý của xã hội
Việt Nam hiện đại.
Ði tìm ý nghĩa cuộc đời
Chúng ta tìm kiếm sự an toàn và chẳng thấy nó ở nơi nào. Khắp
mọi chốn, chúng ta đối mặt với quá nhiều điều khó hiểu tới độ dù
có vắt hết óc mình ra mà suy nghĩ hẳn cũng chẳng tìm được câu
trả lời thỏa đáng.
Triết học có thể nảy sinh từ sự nhận biết những thực tại cay
nghiệt của cuộc sống khi con người tìm cách nắm bắt trọn vẹn
trật tự của vạn vật và tìm cách nhận thức các vấn đề của bản
thân nó từ một điểm nhìn (perspective) bao quát hơn, hoặc một
viễn cảnh rộng lớn hơn. Trong các biến cố của cuộc nhân sinh,
con người muốn tìm cho ra một cứu cánh (purpose) nhằm biện minh
cho những khổ đau của y, và một niềm tin (belief) để cho y có đủ
sức mạnh để gánh vác số phận.
Kinh nghiệm tôn giáo
Nếu xem xét khía cạnh triết học của *Do Thái giáo, *Phật giáo,
*Ấn giáo, *Kitô giáo, *Hồi giáo (Islam), v.v. chúng ta sẽ thấy
rằng hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều quan tâm tới
những vấn đề đó, đều đặt vấn đề nhìn thực tại đúng như chúng
đang là và nhìn tới quá bên kia thực tại. Nghĩa là, những tôn
giáo lớn đều phát sinh từ cuộc tìm kiếm câu trả lời cho những
phức tạp lúng túng của con người.
Hình tượng vị Phật nghìn mắt nghìn tay và hình ảnh *Giêsu Kitô
trên cây thánh giá như một chốn ẩn náu dưới đôi tay vươn dài tới
vô tận. Cả hai hình tượng ấy đều biểu hiện cho quan điểm về vũ
trụ và sự tìm thấy sức mạnh tâm linh như một câu trả lời cho
tình trạng khắc khoải ấy. Các tín đồ của Ấn giáo, Hồi giáo và
của các tôn giáo khác cũng tìm thấy sự an ủi trong niềm tin của
họ với cách thức giống y như thế.
Tôn giáo nào, kể cả *Nho giáo và *Ðạo giáo, cũng có quan niệm
về vũ trụ – thường được gọi là phần Hình nhi thượng trong học
thuyết của mình – trong đó đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi
tối hậu. Nghĩa là chúng cung cấp cái được người Ðức gọi là
Weltanschauung – thế giới quan (world-view).
Ðáp án thích đáng thời đại
Chừng nào các câu trả lời còn thích hợp với nhu cầu của con
người thì chúng còn được duy trì. Thế nhưng những đổi thay xã
hội, biến động chính trị hoặc các nguồn suối tri thức mới mẻ có
thể làm cho chúng không còn thích đáng. Tới lúc đó, xuất hiện
tình trạng chống lại chúng. Con người thách thức thẩm quyền
(authority) của chúng, khiến chúng hoặc phải bị thay thế hoặc
phải được sửa đổi để có khả năng đáp ứng sự thách thức mới mẻ
ấy.
Thế nhưng chúng không bị tiêu hủy hoàn toàn vì loài người thời
nào cũng cần một đức tin nào đó để tiếp tục cuộc sống – cho dù
cuối cùng, có thể chỉ còn biết tin vào chính bản thân mình.
Những bất định và hoang mang trong cuộc sinh tồn (existence)
luôn luôn thúc ép loài người phải mở rộng tầm mắt và tìm kiếm
câu trả lời cho tình trạng khắc khoải của mình.
3. Mâu thuẫn
Trái ngược nhau thì sai
Triết học có thể bắt đầu từ tính hiếu kỳ sống động hoặc sự tìm
kiếm câu trả lời cho tình trạng khắc khoải của cuộc đời. Nó cũng
có thể bắt đầu với nỗ lực nhằm giải quyết các mâu thuẫn vốn xuất
hiện khi có các tiến bộ sâu xa hơn về tri thức. Có một nguyên
tắc chủ yếu của tư tưởng rằng không thể có hai câu trả lời vừa
mâu thuẫn nhau vừa đều đúng. Hoặc là p hoặc là không p chứ không
thể vừa là p vừa là không p.
Vì thế, bạn phải từ khước một trong hai câu trả lời hoặc bạn
phải đạt cho được một nguyên tắc cao hơn để giải quyết tình thế
mâu thuẫn ấy. Bạn hoàn toàn sai lầm khi cho rằng thân hình của
Ðại đế Quang Trung vừa cao vừa thấp trừ phi bạn nêu ra những
thẩm định khác và chứng minh rằng, thí dụ, so với vua Gia Long
thì ông ấy thấp hơn, còn so với vua Lê Chiêu Thống thì ông ấy
cao hơn.
Phải giải quyết mâu thuẫn
Trong thực tế, không thể khắc phục mọi mâu thuẫn một cách dễ
dàng như thế, nhưng những kẻ muốn suy nghĩ một cách chân thành
và thỏa đáng đều bị áp lực phải giải quyết mọi mâu thuẫn.
Thí dụ làm sao bạn có thể xem con người là một cá thể tự do
trong khi nó phải sống trong một thế giới mà khoa học chứng minh
cho thấy là bị chi phối bởi những định luật khắc khe và cứng
nhắc? Hoặc tại sao lại có quá nhiều sự ác trong một thế giới mà
từ người bình dân cho tới các nhà thần học đều cho rằng nó được
tạo ra bởi một Ông trời công chính hoặc một Thượng đế toàn năng,
toàn trí và đầy lòng thương xót?
III. Những thí dụ về các chủ đề triết học
1. Tính hiếu kỳ triết học
Phương hướng của óc tò mò
Giả dụ chúng ta đồng ý với nhau rằng triết học bắt đầu từ sự
kinh ngạc hoặc hiếu kỳ vốn được kích động do bởi tính chất huyền
ảo của thiên nhiên hoặc từ sự hoài nghi do bởi tri thức ngày
càng gia tăng của loài người, hoặc từ những nhu cầu khẩn cấp và
tuyệt đối của cuộc sinh tồn, lúc đó chúng ta phải đặt câu hỏi
rằng thế thì óc tò mò ấy phải nhắm tới phương hướng nào nếu nó
muốn được xem như một chủ đề (issue) trong triết học.
Thí dụ minh họa
Chỉ hiếu kỳ mà thôi thì chưa đủ. Một triết gia đang ở trong khu
phố của bạn có thể hết sức để ý và nói chuyện tò mò tọc mạch về
những việc người hàng xóm của y làm khi đêm về, đằng sau các bức
rèm cửa sổ họ vừa buông xuống, tuy thế, bản thân y biết rõ đó
không phải là sự tò mò mang tính triết học.
Triết gia cũng có thể, không kém một khoa học gia không gian,
quan tâm tới việc tìm cách cho con người đổ bộ xuống sao Hỏa,
nhưng y không gọi đó là sự hiếu kỳ triết học. Y cũng có thể,
không kém một nhà xã hội học, quan tâm tới sự phân tích bản
thống kê để chứng minh sự bất bình đẳng ngày càng lớn giữa giới
giàu và giới nghèo nhưng y cũng không gọi đó là sự hiếu kỳ triết
học. Cách tốt nhất để xác định một sự hiếu kỳ có tính triết học
hay không nằm ngay trong loại vấn đề mà y quan tâm.
2. Tri thức về ngoại giới
Kiểm tra để quyết định
Tôi chỉ vào một vật và nói rằng "Ðây là trái xoài". Lời phát
biểu ấy vô thưởng vô phạt và không thể tạo nên sự hoài nghi nào
nếu tôi không biết rằng mình có thể bị lừa dối do bởi trái xoài
này làm bằng nhựa hoặc được vẽ trong một bức tranh tĩnh vật.
Nhận thức rằng mình có thể bị lừa dối, tôi bắt đầu kiểm tra
(test) chân lý (sự thật, truth) của lời khẳng định ấy bằng cách
nhìn kỹ vật đó, ngửi nó và cắn nó.
Gần như mọi người đều đồng ý rằng đó là trái xoài nếu nhìn vẻ
ngoài của nó, ngửi mùi của nó và nếm vị của nó để "thấy" nó
giống với một trái xoài. Công việc đó xem có vẻ giản dị nhưng
thật ra mang tính hóa học. Rõ ràng rằng ngay cả chúng ta cũng có
thể bị lừa dối bởi các kiểm tra của mình, vì thế mới phải cần
tới thao tác hóa học để có quyết định chung cuộc; và chúng ta
cho rằng các kiểm tra ấy đều có tính quyết định.
Từ giác quan vào ý thức
Tới đây, ta bỗng chốc nhận ra rằng mình vừa đòi hỏi sự xác nhận
của ba giác quan khác nhau. Với mỗi giác quan, tôi chỉ được bảo
đảm một loại tác dụng kích thích cá biệt. Mắt không thể báo cho
bạn biết mùi vị của vật đó và mũi không thể báo về màu sắc. Bạn
chỉ có thể có được thông tin (information) về màu sắc nhờ cơ
quan để nhìn, mùi nhờ cơ quan để ngửi và vị nhờ cơ quan để nếm.
Do bởi các thông tin ấy khác nhau và chúng đi vào ý thức
(consciousness) bằng những lối đi khác nhau nên tôi kỳ vọng mình
sẽ tìm thấy trong tâm trí mình ba mảnh thông tin khác nhau.
Trong thực tế, tôi không trông chờ như thế vì tôi đang muốn tìm
thấy một ý tưởng (idea) duy nhất: cả ba cảm giác (sensations) đó
cùng phối hợp sao đó để cho ra bức hình của một vật duy nhất
trong khi tự thân các cảm giác đó không có điểm chung nào và
không cho ta thấy lý do khiến chúng phải phối hợp với nhau.
Chỉ tùy vào ý thức?
Cho tới nay, chúng ta đã biết ít nhiều về phương cách vật lý của
việc truyền giao màu sắc. Ánh sáng được phản chiếu từ một vật
như là những chấn động đánh vào thần kinh thị giác, làm phát
sinh ý tưởng về màu sắc. Chúng ta không thể giả dụ rằng các
luồng sóng ấy tự thân chúng có màu sắc vì thông thường, sự phân
biệt điều kiện vật lý của các màu sắc khác nhau đều chỉ do bởi
các luồng sóng dài ngắn khác nhau.
Nếu tự thân các luồng sóng ấy không có màu sắc và ngoài chúng
ra, chúng ta không còn cách nào khác để liên hệ với các đối
tượng (objects), thế thì làm thế nào chúng ta có thể biết chúng
có màu sắc? Rất có thể màu sắc ấy chỉ tùy vào ý thức của tôi như
một cái triền miên đi kèm với các tác nhân (stimuli) nhất định
và nó chỉ hiện hữu trong ý thức của tôi.
Cũng có thể đúng như thế với ngửi và nếm vì các nhà *tâm lý học
(psychologist) đoan chắc với chúng ta rằng cả hai cái đó nếu tùy
vào các thao tác hóa học trong mũi và miệng. Dường như cũng
giống với màu sắc, mùi và vị đều chỉ tùy vào ý thức của tôi. Tất
cả, nói theo *Duy thức tông của Phật giáo Ðại thừa là "vạn sự
qui tâm".
Duyệt xét thế giới quan
Nếu quả đúng như thế thì bắt buộc phải có sự duyệt xét nghiêm
chỉnh cái thế giới quan (view of the world) mang tính cảm quan
chung (commonsense) của chúng ta vì hầu hết người ta đều có
khuynh hướng tin rằng vạn vật (things) hiện hữu đúng theo vẻ bên
ngoài của chúng.
Nếu các ý tưởng hoàn toàn tùy vào tôi, thì khi giả định rằng
chúng quả thậ là vạn vật trong thế giới ngoại tại (the external
world), tôi buộc lòng phải nói rằng chúng hiện hữu (exist) mà
không có màu sắc, không có mùi và cũng chẳng có vị.
Như thế, bằng hành động ấy, tôi đã cất chân đi bước đầu tiên vào
triết học vì tôi vừa đưa ra lời tuyên bố về bản tính của thế
giới (the nature of the world) như một suy diễn từ tri thức tôi
đang sở hữu.
Có thể bước chân ấy sai lầm – chúng ta sẽ trở lại vấn đề đó ở
một phần sau – nhưng nó hẳn làm cho người đọc cảm thấy thú vị
khi ngang đây, họ biết rằng khái niệm ấy (conception) về vũ trụ
vật lý sẽ không gây bối rối cho các nhà khoa học đang nối gót
nhà thiên văn học và toán học người Ý *Galileo Galilei
(1564-1642) và Isaac Newton.
3. Phân biệt giữa thiện và ác
Thế nào là tốt, xấu
Minh họa vừa nêu ấy có tính rất đơn giản vì ít ra trong khi xem
xét nó, chúng ta có thể sử dụng phần nào tới tri thức được sở
đắc từ những nguồn khác nhau. Nhưng giả dụ khi tôi nói, như
chúng ta vẫn thường nói, rằng "Ðây là một hành động tốt" (good),
thì bằng cách nào mà tôi khẳng định hành động đó tốt hoặc không
tốt? Rõ ràng tôi không thể viện dẫn giác quan vì như chúng ta
biết cho tới hôm nay, rằng không có giác quan nào liên quan tới
sự tốt xấu hoặc sự thiện ác (good/bad).
Trong thực tế, vấn đề ấy không làm bận tâm nhiều người vì chúng
ta được dạy bảo cách phân biệt một hành động tốt với một hành
động xấu. Tôi học cách phân biệt màu đỏ với màu lục và màu xanh
vì đã có ai đó, vào những thời điểm khác nhau, đưa tay chỉ tới
một màu sắc nhất định và bảo rằng đó là màu "đỏ". Tôi học cách
liên kết từ ngữ "đỏ" ấy với một cảm giác nhất định. Bằng chứng
độc nhất tôi có thể đưa ra cho người khác về việc tôi đang thấy
màu "đỏ" là đưa tay chỉ vào vật đó, với niềm hy vọng rằng kẻ đó
đã từng học được một sự liên kết giống y như tôi đã học.
Nguồn của ý tưởng thiện ác
Ý tưởng về sự tốt/thiện (goodness) dường như cũng phát sinh theo
cách thức giống y như thế. Cha mẹ, thầy giáo cô giáo, các linh
mục và các nhà sư, các tỉ các huynh, v.v. gắn nhãn hiệu "tốt"
hoặc "thiện" cho các hành động nhất định, và nhãn hiệu "xấu"
hoặc "ác" cho các hành động nhất định. Vì tôi tín nhiệm óc phán
xét của chư vị ấy hoặc vì tôi cảm thấy mình chẳng có lý do gì
không đồng ý với họ nên tôi chấp nhận lời quả quyết của họ.
Và cứ thế, tôi tiếp tục gọi những hành động nhất định này là
"tốt/thiện" và những hành động nhất định nọ là "xấu/ác". Như
thế, có vẻ vấn đề ấy đã được giải quyết êm thắm.
Thực tế không đơn giản
Thế nhưng rõ ràng sự giống nhau giữa "đỏ" và "thiện" không hoàn
toàn y hệt như người ta tưởng. Bất cứ lúc nào tôi gặp người
không mắc bệnh mù màu sắc và có khả năng hiểu điều tôi muốn nói,
tôi đều kỳ vọng người ấy sẽ đồng ý khi tôi chỉ vào một vật nhất
định và bảo nó là "đỏ". Nếu người ấy không chịu bảo nó là "đỏ",
đôi bên sẽ tìm cho ra những gì đang gây nên sai biệt, cùng nhau
xem xét chúng để đạt tới một thỏa thuận, rằng nó chỉ "đo đỏ"
hoặc "đỏ lòm".
Tuy thế, giữa những người cùng chung ngôn ngữ và được đào tạo
giống nhau, có thể có sự khác biệt đáng kể về ý kiến khi họ mô
tả một hành động nhất định là "tốt" hoặc "xấu" và có thể đôi bên
không cách gì đạt tới một thỏa thuận về vấn đề ấy.
Chúng ta hầu hết đều được dạy bảo rằng không được giết người.
Giả dụ chúng ta đã đồng ý với nhau về ý nghĩa của từ ngữ "giết
người" và rằng những người tham gia tranh luận đều chấp nhận cụm
từ "không được giết người" như một nguyên tắc đúng đắn.
Trong những người tranh luận ấy, có kẻ cầm khí giới ra chiến
trường trong khi có kẻ không chịu làm như thế, họ thà chấp nhận,
như ở Na Uy, mỗi ngày làm công tác phục vụ cộng đồng trong vài
năm thay vì thi hành nghĩa vụ quân sự. Kẻ này quả quyết rằng
quốc gia (the state) có quyền hành quyết tội nhân trong khi kẻ
khác phủ định quyền ấy. Tuy cả hai chấp nhận nguyên tác tổng
quát đó và được đào tạo giống nhau nhưng đôi bên đều không thể
đạt tới sự đồng thuận nào về việc áp dụng từ ngữ "tốt" hoặc
"thiện".
Khác biệt xã hội và thế hệ
Tình trạng trở nên phức tạp hơn khi chúng ta so sánh các xã hội
khác nhau, vì cái được đánh giá là "tốt/thiện" trong xã hội này
có thể bị phê phán là "xấu/ác" trong xã hội nọ. Thậm chí không
cần phải so sánh các xã hội khác nhau vì chúng ta có thể tìm
thấy sự bất đồng ấy giữa các thế hệ trước sau, làm thành nguyên
nhân chủ yếu tạo nên những xung khắc giữa người già và người
trẻ.
Và cứ thế nó tạo nên một tình trạng rắc rối lưu niên ta thường
bắt gặp trong các tác phẩm văn học viết về buổi giao thời, thí
dụ của Khái Hưng (1896-1947) và Nhất Linh (1906-1963) trong Tự
lực Văn đoàn, về mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu, phu xướng
phụ tùy, tam tòng tứ đức, v.v.
Giả dụ đơn giản hóa
Ðể thuận tiện tranh luận, chúng ta cứ giả dụ rằng không hành
động nào vừa đồng thời có cả "tốt/thiện" lẫn "xấu/ác". Chừng nào
đôi bên tranh luận còn bất đồng về tính chất tốt hoặc xấu của
một hành động thì phải có một bên sai. Bên dựa vào thẩm quyền
thế giá (authority), cái vốn được y tín nhiệm từ trước tới nay,
hoặc bản tính y không ưa nghe lời chỉ trích, sẽ gạt vấn đề sang
một bên, không để cho nó làm vướng bận tâm trí (mind) mình.
Trái lại bên từng biết ít nhiều về tinh thần triết học
(philosophic spirit) trong cuộc truy tầm chân lý của con người
và y đang khắc khoải muốn có một quyết định chính xác cho dù kết
quả ấy làm y phải xét lại phán đoán của mình; y chấp nhận đối
mặt với vấn đề. Vậy, câu hỏi đầu tiên và cơ bản y tự đặt ra cho
mình là làm thế nào mình có thể biết hành động nào thật sự là
tốt và hành động nào thật sự là xấu?
Chắc chắn bạn, một trong những người đọc cuốn sách này, đang nôn
nóng trông đợi câu trả lời cho câu hỏi ấy. Nhưng xin bạn vui
lòng chờ một chút vì đây chưa phải là nơi cũng như chưa phải là
lúc để tính chuyện trả lời. Trong chương này, chúng ta hãy tạm
thời giới hạn sự quan tâm của mình vào việc trình bày loại vấn
đề nào các triết gia cảm thấy thú vị khi thăm dò và loại tri
thức nào họ tìm cách sở đắc cho bằng được.
Ði tìm nguyên tắc phân định
Rõ ràng rằng nếu có sự "tốt/thiện" tối thượng, nghĩa là có một
nguyên tắc bất di bất dịch để căn cứ vào đó, quyết định hành
động nào thật sự là tốt và hành động nào thật sự là xấu, thì
việc khám phá nó phải là công tác ưu tiên, vì đối với bất cứ xã
hội nào, các phán đoán đạo đức đều có tầm quan trọng tới tận nền
tảng.
Nếu không có sự "tốt/thiện" tối thượng, không có một nguyên tắc
như thế, lúc đó có nghĩa là chúng ta không nên ngần ngại trong
việc sửa đổi động thái của mình, vì hành động ấy đang có một bảo
đảm cụ thể, và thêm nữa, chúng ta có khả năng xúc tiến một lối
tiếp cận khác vào các vấn đề của con người.
4. Vấn đề chọn lựa
Chúng ta có tự do
Giả dụ rằng chúng ta có khả năng quyết định hành động nào là tốt
và hành động nào là xấu và rằng chúng ta khao khát làm điều tốt
chứ không làm điều xấu, liệu chúng ta có khả năng chọn lựa hành
động theo ý của mình không?
Khi đối mặt với một số khả năng hành động này hoặc nọ, người ta
hầu hết đều cảm thấy mình được tự do quyết định nên chọn cái
nào. Tình trạng ấy đưa tới giả định (assumption) rằng trên thực
tế, có ý chí tự do (free-will). Thế thì rõ ràng rằng, trong thực
tiễn của xã hội chúng ta, khái niệm về tự do là một khái niệm
được bảo lưu một cách tự nhiên, đã và đang được chấp nhận. Theo
luật pháp hiện hành của nhiều nước, tòa án không trừng phạt
người mắc bệnh mất trí (insane) hoặc trẻ em về các hành vi phạm
pháp của họ vì người ta cho rằng những kẻ ấy không ý thức được
hành động của mìnhï và do đó, không thể bị qui trách nhiệm.
Chúng ta có trách nhiệm
Lý thuyết ấy về trách nhiệm được xem ngang với việc khẳng định
rằng con người có ý chí tự do và có khả năng quyết định hành
động của mình, ít nhất về mặt luật pháp. Vì đương sự đã quyết
định một cách sai lầm, nghĩa là chọn sự phạm pháp, nên việc
trừng phạt đương sự là điều chính đáng.
Chúng ta chấp nhận nguyên tắc trách nhiệm khi cảm thấy hối hận
về một hành động nào đó mình đã làm, và tuyên bố rằng lý ra mình
không nên làm như thế. Ở đây có một điểm nhỏ cần để ý. Khi ta
nói rằng "không nên làm như thế" có nghĩa là tin rằng vào thời
điểm ấy, ta có thể làm điều ngược lại. Kinh nghiệm – hay trải
nghiệm – (experience) của chính chúng ta và kinh nghiệm của
những người khác chứng minh rằng trong thực tế có ý chí tự do.
Giới hạn của tự do
Thế nhưng trong thế giới này, quyền quyết định một cách tự do ấy
được mở rộng tới đâu? Không dễ dàng có câu trả lời dứt khoát cho
câu hỏi ấy.
Có những thời điểm đảo điên trong đó trâu bò cứ thế húc nhau,
chó sủa bậy, mèo kêu réo không ngớt như thể đất sắp động; chúng
không chịu nghe theo lời răn đe, kể cả roi vọt của con người.
Cũng có những lúc cỏ úp lá dưới ánh nắng, hoa khép cánh giữa
trời đêm, cây như quẫy mạnh cho rớt các tua dây leo và đánh bẫy
ăn tươi nuốt sống côn trùng như thể trời sắp bão. Phải chăng
những sự kiện (facts) ấy chứng minh cho thấy ở cấp độ đời sống
thấp hơn con người cũng có sự sở hữu ý chí tự do? Nếu như thế,
hẳn lũ thú vật và thực vật ấy cũng phải chịu trách nhiệm về hạnh
kiểm của chúng?
Cho tới thế kỷ 19, tại nhiều xứ sở, người ta đồng ý rằng thú vật
và thực vật phải chịu trách nhiệm và phải lôi cổ chúng ra trước
tòa án, xử chúng về tội phạm pháp. Ngày nay, không còn xảy ra
chuyện như thế. Cho dù thừa nhận chúng cũng có tự do nhưng không
ai trong chúng ta khẳng định rằng khúc cây hoặc hòn đá hoặc bất
cứ cái gì hoàn toàn thiếu sự sống lại có ý chí tự do.
Người ta cho rằng các thực thể (entities) vừa kể (gỗ, đá, v.v.)
không có ý chí tự do vì chúng không có khả năng hoạt động tách
biệt với ngoại giới (external), cũng không có khả năng tự mình
xê dịch lệch hướng quĩ đạo đã định sẵn cho mình. Nếu một hòn đá
rơi xuống từ nóc một tòa nhà thì chúng ta biết rằng theo công
thức đã được xác định, nó càng rơi càng tăng tốc.
Con người có thể quan sát chuyển động của trái bi trên bàn bi-da
để đoán đúng nó sẽ lăn theo hướng nào và rồi dừng lại ở chỗ nào.
Vì trái bi-da không có sự sống, động thái của nó bị quyết định
hoàn toàn bởi sức mạnh đến từ bên ngoài nên ta có thể dự báo
hành động của nó; do đó trái bi-da không sở hữu tự do.
Có phần nào không tự do
Nhưng nếu chấp nhận các tiêu chuẩn (criteria) vừa kể, chúng ta
sẽ nhận thấy rằng trong động thái của ta, cũng có phần nào không
có tự do. Tôi đang ngồi lên thành cửa sổ ở tầng thứ 20 của một
khách sạn năm sao gần chợ Bến Thành Sài Gòn, và ngẫm nghĩ về
tình hình tài chánh suy sụp của mình. Càng suy nghĩ tôi càng bức
xúc tới độ cảm thấy mình không còn có thể sống nổi, và tôi quyết
định nhảy quách xuống đất.
Một khi đã lao mình ra ngoài khung cửa sổ, chơi vơi giữa khoảng
không, thì lời phát biểu "Con người có tự do" đối với tôi chỉ
còn rất ít ý nghĩa. Vì có muốn tới mấy đi nữa, tôi cũng không
thể nào quay trở lại thành cửa sổ. Lúc ấy, đối với các lực ngoại
tại (external forces), tôi là một vật giống như bất cứ vật vô
tri vô giác nào khác và phải rơi xuống đất. Dù gì đi nữa, tôi là
một vật (object), chịu chung một định luật với bất cứ vật thể
đang rơi nào.
Nửa này nửa nọ
Nếu lúc đó có một nhà khoa học quan sát sự rơi của tôi, người ấy
có thể dự báo hoàn toàn chính xác sẽ mất bao lâu tôi mới đụng
mặt đất. Do đó, trong các tình huống nhất định, tôi hoàn toàn là
đối tượng (object) của các sức mạnh ngoại tại, và người khác có
thể tiên đoán đúng cách cư xử của tôi, giống hệt cách cư xử của
bất cứ đối tượng nào khác trên thế giới.
Tuy thế, vẫn có một điểm rất khác. Cú phóng người ra khỏi thành
cửa sổ để lao xuống đất ấy khởi đi từ quyết định nhảy của tôi.
Tôi hoàn toàn tin rằng nếu mình quay trở lại thành cửa sổ, có
thể mình sẽ quyết định ngồi lại ở đó. Và lúc ấy, hoạt động tiếp
theo của tôi sẽ khác hẳn. Nếu điều ấy đúng thì dường như tôi là
một vật bị phân chia: mặt này có khả năng quyết định hoạt động
của mình, và mặt kia thì không. Và cho tới đây, tôi không thể
thấy đường lằn phân chia ấy kéo tới đâu.
5. Thể xác và tâm trí
Hai cái khác nhau?
Có lẽ tạm thời, chúng ta có thể đồng ý với triết gia Pháp *René
Descartes (1596-1650) rằng chúng ta là sự phối hợp của thể xác
(body) và tâm trí (mind). Theo lý thuyết này, tôi là đối tượng
của hết thảy các định luật về thân xác vật lý, và trong chừng
mực là một tâm trí, tôi không lệ thuộc chúng. Quan điểm ấy dường
như cung cấp một lối ra khỏi tình thế nan giải (dilemma) của
chúng ta. Nhưng chẳng may nó lại dẫn tới những nan giải
(diificulties) khác.
Nếu thể xác và tâm trí khác nhau hoàn toàn thì không cách gì
chúng có thể ảnh hưởng lên nhau. Nếu như vậy làm thế nào chúng
ta nhận thức đối tượng ngoại tại (external object) vì toàn bộ
cảm giác là hoạt động trong thể xác và theo giả thuyết ấy, nó
không thể nào thâm nhập tâm trí.
Ðôi khi tôi cảm thấy ý muốn nhấc cánh tay mình là nguyên nhân
đưa lên của cánh tay, nhưng nếu tâm trí và thể xác hoàn toàn
khác nhau thì không cách gì một quyết định của tâm trí tôi có
thể tác động lên thể xác tôi. Giải pháp của Descartes đưa ra
trông có vẻ như một lối thoát khỏi tình thế nan giải của chúng
ta nhưng thực tế làm nảy sinh những nan giải khác và rõ ràng
nghiêm trọng không kém.
Ðịnh luật quan hệ nhân quả
Khó khăn ấy càng tăng thêm nếu chúng ta đưa mắt nhìn sang khoa
học để tìm ở đó bằng chứng hỗ trợ. Hầu hết các nhà khoa học đều
thừa nhận một nguyên lý, hay định luật (principle) được gọi là
"quan hệ nhân quả" (causality), qua đó họ hiểu rằng biến cố tự
nhiên (natural event) nào cũng được sản sinh bởi biến cố tự
nhiên xảy ra ngay trước đó. Nguyên lý này được xem là có tính
phổ quát (universal) trong ứng dụng của nó.
Các nhà khoa học chắc chắn, một cách tuyệt đối, rằng luôn luôn
có khả năng tìm ra nguyên nhân của bất cứ biến cố nào. Nguyên
tắc này trở thành định luật, dường như có giá trị cho hết thảy
các vật vô cơ (inorganic objects), và nó là cơ sở cho sự dự báo
động thái của chúng. Chiếu theo định luật này, dường như mỗi vật
đã được quyết định hiện hữu đúng như nó đang là và làm đúng cái
nó đang làm, do bởi một biến cố tự nhiên nào đó khác với nó.
Rõ ràng chừng nào tôi còn là một thể xác, tôi vẫn là đối tượng
của định luật quan hệ nhân quả ấy. Nếu tôi tập thể dục, bắp thịt
của tôi sẽ nở nang. Nếu tôi ăn kiêng, số đo vòng bụng của tôi sẽ
giảm dần. Nếu tôi uống quá nhiều rượu, lời tôi nói và chân tôi
đi sẽ để lộ ra. Nhưng nếu người ta có thể chứng minh cho thấy
rằng các hoạt động được gọi là "tâm thần" (mental), hay tinh
thần, cũng là đối tượng của định luật quan hệ nhân quả tự nhiên,
lúc đó biến mất sự phân biệt giữa thể xác và tâm trí.
Tâm trí và khát vọng
Descartes cho rằng chỉ riêng có con người mới sở hữu tâm trí.
Theo ông, thú vật, thực vật cùng các vật vô cơ khác đều không có
tâm trí. Ông giải thích động thái của những hữu thể (being) thấp
hơn ấy bằng những nguyên lý có tính máy móc (mechanical
principles).
Thí dụ, Descartes xác nhận chúng hành động như bất cứ hành động
máy móc nào, nghĩa là một cách mù lòa và đi theo sự cưỡng ép của
những hành động xảy ra trước đó. Chẳng có lúc nào thú vật hay
thực vật có khả năng quyết định hoặc không thể thực hiện một
hành động nhất định hoặc né tránh đừng làm việc đó.
Chúng ta từng thấy một số thú vật và thực vật có động thái rất
giống với con người. Chúng ta hẳn cũng có thể thông giải
(interprete) hành động của mình theo một cách thức giống y như
thế. Lúc đó, chúng ta có thể thấy các mong muốn hoặc khát vọng
nào đó đi trước và quyết định mọi hành động tiếp theo của mình.
Quả thật, triết gia chính trị học người Anh *Thomas Hobbes
(1588-1679) định nghĩa rằng ý chí là cái mong muốn cuối cùng
trong cuộc cân nhắc, thảo luận. Qua định nghĩa đó, ông có ý nói
rằng trước khi chúng ta thể hiện một hành động nhất định, đã xảy
ra cuộc xung đột giữa các khát vọng khác nhau; thế rồi một trong
các khát vọng ấy chiến thắng và nó khiến ta hành động.
Tự do và điều kiện thể lý
Ðối với chúng ta dường như chúng ta quyết định một cách tự do
giữa các cách thế hành động khác nhau – trong khi động thái
(behaviour) của chúng ta quả thật bị quyết định bởi điều kiện
thể lý (physical condition) trước đó. Xét theo hoàn cảnh tâm lý,
chúng ta chỉ có thể hành động như thế thôi, chẳng còn cách nào
khác.
Trong khi tôi ngồi lên thành cửa sổ của khách sạn năm sao, cả
khát vọng sống lẫn khát vọng chết đều phát sinh từ các điều kiện
thể lý; chúng chiến đấu với nhau để quyết định hành động của
tôi. Khát vọng nào mạnh hơn sẽ chịu trách nhiệm về hành động tôi
sắp thể hiện.
Trong các tác phẩm văn học như truyện dài, truyện ngắn, kịch,
cuộc xung đột hoặc cân nhắc thảo luận ấy mang hình thức khác
nhau tùy theo đề tài của tác phẩm nhưng chúng thường quyện vào
nhau, đẩy dần lên đỉnh điểm hoặc thắt gút lại, để đi tới kết
luận rằng nhân vật ấy hoàn toàn mang bản sắc thể lý và không
khác gì hòn đá hoặc bất cứ vật thể vật lý nào khác, nghĩa là y
không còn tự do. Thậm chí có trường hợp tác giả có cảm tưởng bị
một nhân vật của mình cưỡng lại khi tác giả dàn dựng cho y hành
động trái với những dữ liệu về y, theo với tính cách của y đã
được tác giả mô tả trong những trang sách trước đó!
Tự do là ảo giác?
Giải pháp này tránh được tình thế nan giải khi phân chia thể xác
với tâm trí và làm cho động thái của chúng ta phù hợp với các
điều kiện cần thiết cho một tiến trình thẩm tra khoa học. Có vẻ
nhà khoa học chỉ có thể kiểm tra được động thái khi cho rằng nó
bị quyết định bởi các điều kiện vật lý trước đó và có liên quan
tới chúng đúng theo cách đã được khám phá ra định luật hàm chứa
mối quan hệ giữa các biến cố vật lý đó.
Các ngành khoa học xã hội (social sciences), trong khi tha thiết
chứng minh tính khoa học của mình, cũng tìm cách giải thích động
thái của con người bằng những nguyên tắc tương tự như những
nguyên tắc của các ngành khoa học tự nhiên (natural sciences).
Bởi thế họ cho rằng toàn bộ động thái là đối tượng của các định
luật như nhau về quan hệ nhân quả dù chúng thao tác nơi này nơi
nọ trong vũ trụ hoặc trong con người.
Nếu họ có lý, lúc đó có nghĩa rằng cảm giác của chúng ta về tự
do chỉ là ảo giác và rằng mọi thực hành xã hội đặt căn bản trên
sự tự do đều sai lầm.
Không tự do không trách nhiệm
Nếu chúng ta không có tự do chọn lựa cách thế hành động của
mình, lúc đó bất cứ hành động nào cũng là cái độc nhất mà ta có
thể thể hiện. Nếu hoàn toàn không có khả năng chọn lựa thì thật
cực kỳ ngớ ngẩn khi tôi vừa cảm thấy hối hận về một hành động
trong quá khứ vừa kết án mình đã không chọn cách thế hành động
nào khác.
Ở một đoạn trên, chúng ta đã đề cập tới việc tòa án không trừng
phạt người bị mất trí và trẻ em về các hành động của họ vì người
ta cho rằng các đương sự ấy không chịu trách nhiệm về hành vi
của mình. Thí dụ cả hai đều không có khả năng để nhận thức ý
nghĩa hành vi của mình và để chọn lựa cách thế hành động thích
đáng.
Nếu hết thảy các hành động của chúng ta đều đã bị quyết định,
lúc ấy chúng ta chẳng hơn gì người mất trí và trẻ em; chúng ta
không thể bị qui trách về hành động của mình vì chúng ta không
có khả năng làm một điều nào khác với điều chúng ta đã làm.
Chúng ta như người lính khi đụng địch, chỉ còn một chọn lựa độc
nhất là nổ súng bắn về phía có đối phương. Như thế, không một
người nào trong xã hội đáng bị trừng phạt.
Sản phẩm của môi trường sống
Chúng ta đang thảo luận một vấn đề mà đối tượng quan tâm của nó
không thuần túy có tính hàn lâm sách vở (academic), vì chắc chắn
các nhà khoa học xã hội đã xem xét cặn kẽ những hệ lụy của lập
trường đó và họ sẵn sàng biện hộ cho nó. Theo lý thuyết ấy, phạm
nhân là sản phẩm của môi trường sống (environment) của y. Phạm
nhân chỉ là kẻ chịu khổ sở không khác chút nào người mắc bệnh ho
lao hoặc người bị cảm lạnh. Thay vì trừng phạt y vì tội ác của
y, ta nên cư xử với y như một người bệnh, vì y không thật sự
chịu trách nhiệm về hành động của y.
Cũng giống như thế nếu ta quan sát các trại cải huấn thiếu niên
phạm pháp. Một cách tổng quát, các thiếu niên ấy sinh ra và lớn
lên trong các gia đình bị đổ vỡ không về mặt này thì mặt khác:
cha mẹ li dị, nghèo khổ, thất nghiệp, v.v. Bản thân chúng ít
được cắp sách tới trường hoặc không an tâm học hành hoặc không
có điều kiện tham gia các trò giải trí lành mạnh. Do đó, theo
quan điểm vừa kể, chúng là sản phẩm của môi trường sống và chúng
không thể chịu trách nhiệm về các hành động tội phạm của chúng.
Và như thế là đủ, chúng ta chẳng cần phải minh họa thêm cho vấn
đề này.
Một chủ đề căn bản
Nếu lý thuyết ấy đúng, lúc đó người thiện không chịu trách nhiệm
về sự tốt lành của họ và không đáng được tán thưởng, người ác
không chịu trách nhiệm về sự xấu xa của họ và không đáng bị
trừng phạt. Và chúng ta hãy từ khước ý niệm về tự do, hãy chấp
nhận và truyền bá thuyết *tất định chủ nghĩa (determinism).
Từ ngữ "nên" sẽ không bao giờ còn có ý nghĩa như một nghĩa vụ xã
hội và cũng như tôi, bạn không cách gì có khả năng chọn lựa giữa
hành động tốt và hành động xấu. Như thế, tới đây bạn đã thấy vấn
đề này trở thành một chủ đề căn bản của triết học.
6. Vấn đề trật tự
Vô phương thoát
Thuyết tất định cung cấp giải pháp cho vấn đề trật tự (order)
trong vũ trụ này. Nó xem mọi biến cố, kể cả các biến cố của thể
xác và của tâm trí, đều liên quan nhau rất chặt chẽ tới độ với
kiến thức nhất định về những biến cố nào đó trong hiện tại, bạn
có thể thấy trước những gì sắp xảy ra. Thí dụ nếu là nhà thiên
văn, bạn có thể dự báo chính xác các biến cố tương lai, nếu là
nhà địa chất, bạn có thể trình bày những gì nhất định đã xảy ra
trong quá khứ.
Chúng ta đều biết rằng nước làm cho hết cơn khát, thực phẩm nuôi
dưỡng cơ thể, mọi cái đang sống đều sẽ phải chết, cuối mùa đông
chắc chắn sắp sang mùa xuân. Bạn cứ làm hết sức mình rồi bạn
coi, không ai trong chúng ta có khả năng thoát ra ngoài các tiến
trình (process) diễn biến liên tục ấy của mình và chúng cũng là
đối tượng vô tri giác (no sense subject) đối với ý chí của chúng
ta.
Trật tự của vạn vật
Khi nhà khoa học tiến hành một cuộc thí nghiệm trong phòng thí
nghiệm, y ghi chép tỉ mỉ các vật liệu được sử dụng, các điều
kiện theo đó cuộc thí nghiệm được xúc tiến, và các kết quả thu
lượm được. Y cực kỳ tin tưởng rằng bất cứ người nào sử dụng các
vật liệu giống như thế, xúc tiến theo các điều kiện giống như
thế thì chắc chắn sẽ thu lượm được những kết quả giống như của
y.
Khoa học tùy thuộc vào khả năng đưa ra những dự báo của nó. Nhà
khoa học không thể đưa lời tiên đoán nếu không có sự trật tự
trong thiên nhiên (hoặc trong tự nhiên, order in nature) bảo đảm
rằng với các điều kiện giống như thế ta chắc chắn sẽ đạt kết quả
giống như thế.
Trong cuốn Science and the Modern World (Khoa học và thế
giới hiện đại, 1925) triết gia và là nhà toán học người Anh
*Alfred North Whitehead (1861-1947) tuyên bố rằng: "Không thể có
khoa học sống động nếu không có niềm xác tín có tính bản năng và
bao quát vào sự hiện hữu của Trật tự của Vạn vật (Order
of Things) và cách riêng vào Trật tự của Thiên nhiên
(Order of Nature)".
Trật tự là tất nhiên
Lối sử dụng cụm từ "niềm xác tín có tính bản năng" (instinctive
conviction) của Whitehead khiến chúng ta đoán chừng ông có ý nói
rằng không nhất thiết hoặc khả dĩ qua tranh luận mà chứng minh
được sự hiện hữu của trật tự ấy. Nó là một giả định, một cái gì
đó được cho là tất nhiên vì điều thiết yếu là niềm tin vào nó,
và vì chẳng có lý do gì để giả dụ rằng nó sai. Nếu toan tính
chứng minh nó thì ta chỉ có thể viện dẫn thực tế rằng trật tự
giả định ấy đã hằng được con người nhận thấy từ quá khứ.
Rủi thay ta không thể nào lập luận từ quá khứ cho tương lai mà
không giả định cái trật tự chúng ta muốn thiết lập. Vì tương lai
chưa xảy tới nên chúng ta không thể hiểu nó sẽ giống với cái gì.
Khi tiên đoán rằng những tác động nhất định sẽ tiếp theo hôm qua
từ những nguyên nhân nhất định, tức là chúng ta đang ở trong
cảnh giới của đức tin (the realm of faith) chứ không ở trong
cảnh giới của chứng minh (the realm of demonstration).
Ðức tin khoa học và trật tự
Tuy thế, Whitehead có lý khi ông nói rằng có thể không có khoa
học nếu không có đức tin. Kỹ sư phải giả định rằng cây cầu do
mình sắp xây sẽ chịu nổi sức nặng mà mình dự báo. Bác sĩ phải
tin rằng những triệu chứng mình đã học ở trường y về việc xác
định bệnh viêm ruột thừa sẽ tiếp tục chỉ cho mình thấy bệnh ấy
trong điều kiện giống như thế. Nếu đức tin ấy không được chứng
minh, chúng ta sẽ đối mặt với hỗn độn và không thể nào dự liệu
tương lai bằng một mức độ bảo đảm nào đó.
Tại sao trong vũ trụ lại có trật tự? Theo như chúng ta biết cho
tới lúc này thì không có lý do nào cho thấy tại sao nên hiện hữu
trật tự thay vì vô trật tự; có lẽ vô trật tự có khả năng hơn.
Liệu chúng ta có thể hài lòng với lời quả quyết rằng có trật tự
trong vũ trụ và cứ để yên cho nó diễn tiến như thế? Người nông
dân bình thường đang thong thả vác cuốc về nhà và nhà khoa học
đang thao tác trong phòng thí nghiệm đều có khuynh hướng hài
lòng và an lòng như thế.
Thế nhưng, ở đây, đối với triết gia, tính hiếu kỳ triết học mang
y đi vượt quá đức tin mộc mạc ấy. Liệu quả thật có trật tự trong
trong thiên nhiên? Nếu có, nguồn gốc của nó là gì? Nếu nó hiện
hữu thì lý do nào khiến cho nó hiện hữu?
Thật chẳng đáng ngạc nhiên chút nào khi thấy người bình thường
chấp nhận niềm xác tín ấy không một chút áy náy, vì như thế là
đủ cho công việc thực tiễn của họ trong cuộc sống hằng ngày.
Nhưng cũng khá ngạc nhiên khi thấy nhà khoa học, kẻ vốn tự hào
rằng mình luôn luôn dựa vào bằng cớ, lại đặt trường hợp của
chính mình trên một hành động mang tính đức tin!
Tiến trình tất yếu
Nếu mọi vật đều liên quan với nhau rất chặt chẽ tới độ biến cố
nào cũng phải phát sinh từ một biến cố đi liền trước nó, và nếu
không có sự lệch lạc trong mối quan hệ ấy, lúc đó, trật tự của
vũ trụ được quyết định bởi định luật quan hệ nhân quả. Vạn vật
hiện hữu đúng như chúng đang hiện hữu vì chúng chẳng còn cách
nào khác. Các sức mạnh mù lòa chi phối dòng chảy của các biến
cố, và tính chất năng động của thiên nhiên (the dynamic of
nature) chỉ là hành động phô diễn những gì đã được gây ra từ
thuở tạo thiên lập địa.
Nếu đúng như thế, lúc đó trong thiên nhiên sẽ không bao giờ diễn
ra cái mới mẻ vì dù có xảy ra gì đi nữa thì đó cũng chỉ là một
hình thức khác của cái đã hiện hữu từ trước. Mọi hy vọng vào sự
thay đổi dòng chảy của các biến cố chỉ là giấc mộng hão huyền vì
không thể nào biến cải tính chất liên tục của tự nhiên.
Và như thế, chúng ta phải buông bỏ niềm xác tín vào sự tự do của
con người – hoặc chúng ta phải thông giải nó bằng một cách khác,
như người theo *chủ nghĩa *Marx cho rằng đó chỉ là ý thức về
tiến trình tất yếu của lịch sử. Có vẻ như thuyết tất định chủ
nghĩa giải quyết được vấn đề trật tự nhưng nó lại gây nên sự tổn
thất đáng sợ: con người không có tự do.
Hữu thể siêu nhiên
Thay vào học thuyết mang tính *máy móc chủ nghĩa (the
mechanistic doctrine) vừa kể, người ta đưa ra sự hiện hữu của
một Hữu thể siêu nhiên (a supernatutal Being). Ðấng ấy vừa vượt
quá lên trên tính chất liên tục tự nhiên của các biến cố vừa có
quyền năng ra lệnh cho chúng phải tuân theo ý chí của ngài. Bằng
cách ấy, người ta có thể giải thích mối quan hệ bình thường giữa
các biến cố đồng thời thừa nhận sự lệch lạc hoặc sự xuất hiện
của cái mới mẻ.
Thuyết này được chấp nhận một cách rất tổng quát. Ðối với nhiều
người bảo lưu nó, dường như rất rõ ràng rằng họ không thể hiểu
tại sao lại có kẻ hoài nghi nó. Những người ấy thường dè bỉu
rằng "Họa là điên mới nghĩ trong bụng rằng không có Thượng đế",
và rằng "Cứ đưa mắt ngó lên bầu trời sẽ thấy vinh quang của
Thượng đế và cứ đưa mắt nhìn quanh mặt đất sẽ thấy công trình vĩ
đại của Ngài".
Một bước lùi?
Lối giải thích như thế mang chúng ta lùi một bước dài vì lúc ấy
công tác tất yếu phải làm là kiến lập sự hiện hữu của Thượng đế
và bản tính của Thượng đế. Bởi vì không gì vô lý cho bằng khi
qui trật tự của thiên nhiên cho Thượng đế mà không có lý do để
tin vào sự hiện diện của Thượng đế.
Những minh họa vừa rồi chỉ để cho chúng ta thấy làm thế nào tính
hiếu kỳ có thể dẫn chúng ta đi từ những thực tế đơn giản trong
trải nghiệm (experience) hằng ngày tới các câu hỏi tối hậu về
bản tính (nature) của vũ trụ và định mệnh hay thân phận của con
người. Tuy thế, những gì chúng ta vừa tiến hành ấy chỉ mới là
nhú cao một chút lên trên bề mặt thôi.
IV. Tinh thần triết học
1. Tìm câu trả lời hợp lý
Phải xác minh đức tin
Tính hiếu kỳ triết học thì vô hạn, cũng như chẳng có giới hạn
nào cho những nỗ lực thăm dò sâu vào các bí mật của vũ trụ.
Trong khi ứng xử với vấn đề trật tự của vũ trụ, chúng ta đã nêu
ý tưởng rằng không thể tránh việc đưa ra một câu trả lời nào đó
cho vấn đề ấy dù câu trả lời đó hoàn toàn mang tính đức tin,
nghĩa là không một chút thắc mắc.
Tuy thế, nếu chân thành đối mặt với cuộc đời, chúng ta phải lục
lọi ở bất cứ chỗ nào có khả năng đưa ra lý do xác đáng cho đức
tin đang được chúng ta ấp ủ trong lòng, để chúng ta không tin
một cách nhẹ dạ, cũng như để không cho bất cứ bậc "thẩm quyền
thế giá" (authority) nào chi phối cái mà chúng ta có thể kiến
lập bằng lý trí.
Phải có vũ trụ quan
Nếu xem xét thêm lần nữa những minh họa vừa kể, chúng ta sẽ
thấy rằng đáp án cho các vấn đề đã nêu ấy đòi hỏi phải có một lý
thuyết tổng quát về bản tính của vũ trụ. Cắt nghĩa các nhận thức
của chúng ta, chứng minh việc chúng ta chọn lựa những hành vi
nhất định này là tốt hơn những hành vi nào đó khác, khẳng định
hoặc phủ định sự sở hữu ý chí tự do, và xác nhận rằng trật tự
của thiên nhiên do bởi ý chí của Thượng đế hoặc do bởi hành động
mù lòa của các sức mạnh tự nhiên, tức là nhìn vạn vật trong toàn
bộ của chúng và nói rằng vũ trụ, một cách tối hậu, là thế này
thế nọ.
Do đó, chúng ta có thể nói rằng, như một phương diện hoạt động
của nó, triết học nỗ lực hình thành một lý thuyết toàn diện và
nhất quán về bản tính của vũ trụ bằng thao tác của lý trí dựa
trên những thông tin có sẵn và tốt nhất.
Như một điểm khởi đầu
Câu vừa nói đó không là một định nghĩa, vì nó không phải là lời
phát biểu về chức năng phê phán của triết học cùng chức năng xem
xét những giả định của khoa học và kinh nghiệm thông thường,
những cái góp phần làm thành các chủ đề được thăm dò trong những
trang còn lại của cuốn sách này.
Tuy thế, để thuận tiện khởi sự, chúng ta phải bắt đầu từ một
điểm nào đó, và câu nói đó sẽ góp phần vào việc trình bày sơ
lược tinh thần, các niềm hy vọng và các phương pháp của triết
học.
Ý nghĩa của câu nói đó sẽ được triển khai khi chúng ta ứng xử
với tương quan giữa khoa học và triết học. Tạm thời lúc này, nó
tương đối đủ để làm nổi bật tinh thần thiết yếu được các triết
gia duy trì khi bắt đầu giải quyết một chủ đề triết học. Và như
thế, hy vọng rằng nó cũng tạm đủ cho những gì chúng ta xem là
hành trang gọn nhẹ khi đặt bước chân đầu tiên lên con đường dẫn
vào triết học.
2. Vai trò độc tôn của lý trí
Lý trí là cơ sở thao tác
Là người thao tác đặt cơ sở trên lý trí (reason), triết gia
không thể để bất cứ bậc thẩm quyền thế giá nào đọc kết luận cho
mà chép; triết gia chỉ chấp nhận các kết luận do bản thân y đạt
được.
Các chứng cớ đang ở trước mặt và người triết học phải đi theo
chúng cho dẫu chúng dẫn tới chỗ nào đi nữa. Lúc này, cơn đam mê
độc chiếm tâm tư y là cuộc truy tầm chân lý, do đó y phải tìm
cách khất rầy hẹn mai hoặc thoái thác những thứ khác mặc dù
chúng có thể rất quyến rũ và được cống hiến rất hậu hĩ.
Thực tế, chuyện đó không dễ làm vì triết gia cũng là con người
với đầy đủ thất tình lục dục. Trong lịch sử loài người, đã có và
vẫn có các chế độ chính trị bàn tay này không ngần ngại hành hạ
hiền giả trong khi bàn tay kia sẵn sàng ban phát bỗng lộc cho
những kẻ thông thái chịu đánh mất bản thân.
Lịch sử triết học đã để dành ít nhất một trang cho các triết gia
châu Âu lưu vong thời bị Hitler chiếm đóng. Thậm chí bản thân
triết gia Ðức *Martin Heidegger (1889-1976) cũng để lại nhiều
nghi vấn trong mối quan hệ giữa triết thuyết và tham vọng địa vị
cá nhân của ông với lý thuyết chính trị của đảng Quốc xã Ðức.
Gương mẫu Descartes
Nhiều người cảm thấy càng nghiên cứu sâu xa thì càng mệt óc mòn
người nên thay vì tiến hành công tác một cách gian nan, họ chỉ
muốn tìm chỗ trú ẩn trong một hệ thống nào đó không đòi hỏi phải
suy tưởng rốt ráo. Ở đây, ta chợt thấy hiện lên hình bóng của
Descartes, người được xem là cha đẻ của tư tưởng thời hiện đại.
Từ cuốn sách của ông có nhan đề là Discours de la
méthode (Luận về phương pháp, 1637), ta có thể trích đôi câu
như một lời khuyên đầy minh triết (wisdom), khích lệ chúng ta
nói gương ông:
"Vì Thượng đế ban phát cho mỗi chúng ta ít nhiều Ánh sáng của Lý
trí (Light of Reason) để qua đó phân biệt cái đúng và cái sai,
tôi không thể tin rằng mình nên, trong một khoảnh khắc tạm thời
nào đó, an tâm mãn nguyện với ý kiến của kẻ khác. Còn về các ý
kiến đã được tôi ấp ủ cho tới lúc này, tôi nghĩ rằng cách giải
quyết tốt nhất là ngay lập tức quét sạch sành sanh chúng, và
rằng sau đó tôi sẽ ở trong tư thế tiếp thu ý kiến khác chính xác
hơn, hoặc thậm chí có thể tiếp thu những ý kiến cũ một khi chúng
đã trải qua cuộc xem xét rốt ráo của Lý trí"
Chân lý không ngại lý trí
Descartes giả định rằng cái đúng (chân lý, truth) có thể đứng
vững trước sự thẩm tra của lý trí và rằng chỉ có cái sai là lẫn
trốn ánh sáng xuyên suốt của lý trí. Vì thế, ông xem xét hết
thảy các ý kiến của mình với niềm xác tín rằng cái đúng thì luôn
luôn đứng vững trước cuộc thẩm tra và nó rất đáng để kiểm tra.
Ông cho rằng các ý kiến đúng – vốn có thể bị chắn ngang hoặc bị
làm cho mù mịt bởi thành kiến và các ý kiến sai – có thể được
phát hiện và chấp nhận. Thật khó tin tưởng những kẻ tuyên bố
rằng mình yêu quí chân lý hoặc đang sở hữu chân lý mà lại không
chịu để cho kẻ khác xem xét hệ thống ý tưởng của họ.
Không có bậc thẩm quyền thế giá hoặc thành kiến hoặc tập quán
nào có khả năng biến cái sai thành cái đúng hoặc ngược lại, làm
cho cái đúng thành cái sai. Cái đúng hoặc cái sai phải trải qua
ngọn lửa kiểm tra mới có thể được tuyên bố một cách khẳng định
và đầy tin tưởng. Ngọn lửa kiểm tra duy nhất chính là sự khảo
sát dựa trên lý trí (rational examination).
Suy luận trên cơ sở chứng cớ
Suy luận thì bao hàm chứng cớ. Nếu định nghĩa rằng suy luận là
hành động đi từ cái đã biết tới cái chưa biết, chúng ta có thể
minh họa nó bằng một tiến trình qua đó quan tòa tìm kiếm một
quyết định khởi đi từ chứng cớ trước mặt ông để tới kết luận
rằng bị cáo có tội hay vô tội. Nếu quan tòa quyết định tuyên án
trước khi chứng cớ được đưa ra, nếu ông bác bỏ cái kết luận hiển
nhiên chỉ do bởi ông cảm thấy khó chịu hoặc không ưa nó, nếu ông
không chú ý tới chứng cớ và không chịu tham khảo ý kiến của
những người khác, hoặc nếu ông quyết định dựa theo những cái
không thích đáng như quần áo nhếch nhác hay vẻ mặt trông như có
tội của bị cáo, thì như thế, ông không thể hiện đúng chức năng
thẩm phán của mình.
Bổn phận của quan tòa là phải cân nhắc chứng cớ một cách vô tư
và không bị thiên lệch bởi đặc quyền đặc lợi của cá nhân hoặc
sức ép của xã hội, để đưa ra quyết định mà dường như đối với
ông, đó là phán quyết chỉ được chứng thực bởi những thông tin
ông đang sở hữu. Và tinh thần ấy của vị quan tòa cũng là tinh
thần của một triết gia.
3. Tính nhất quán
Luận cứ phải thống nhất
Suy luận thì bao hàm sự chú trọng tính chất nhất quán
(consistency), nghĩa là có sự thống nhất từ đầu đến cuối, trước
và sau không trái ngược nhau.
Con người nói chung dễ bị rơi vào chiếc bẫy của tình trạng duy
trì các lý thuyết trái ngược nhau về vũ trụ. Có một số người hẳn
muốn tin, như các nhà khoa học, rằng không thể có ý chí tự do
tuy họ chấp nhận ý chí tự do như một thực tế trong cuộc sống
hằng ngày của mình.
Thí dụ rõ nét nhất cho hiện tượng ấy là người chấp nhận chủ
nghĩa Marx. Theo lý thuyết của họ, loài người phải tin tưởng
rằng xã hội phi giai cấp thuộc phần tiến hóa của lịch sử nên dứt
khoát nó là cái không một ai có khả năng ngăn cản đà tiến. Họ
luôn luôn nhấn mạnh như thế nhưng lại không cân nhắc tính chất
mâu thuẫn (contradiction) trong lời phát biểu của mình rằng loài
người có thể và cần phải lao động cần cù để biến xã hội ấy thành
hiện thực.
Không chấp nhận mâu thuẫn
Bên cạnh thí dụ vừa kể, ta có thể dễ dàng tìm thêm nhiều thí dụ
khác. Tinh thần triết học chống lại tính chất không nhất quán
(inconsistency).
Ở bất cứ chỗ nào tìm thấy có mâu thuẫn, triết gia phải sẵn lòng
từ bỏ một trong các lập trường trái ngược nhau ấy, hoặc đề ra lý
thuyết có khả năng giải thích các sự kiện ấy mà không mâu thuẫn
với nhau, trước sau như một.
4. Tính toàn diện
Cân nhắc mọi sự kiện
Tính nhất quán là thiết yếu (ắt có) nhưng chưa đủ, còn phải có
tính toàn diện (comprehensiveness) hay tổng hợp. Chúng ta có thể
dễ dàng đạt tới tính nhất quán bằng cách làm như không biết tới
những sự kiện có khả năng đưa tới mâu thuẫn. Nhất quán theo
kiểu đó tức là phải trả giá bằng chân lý.
Một lý thuyết đúng về bản tính của vũ trụ phải là một lý thuyết
trong đó có tính tới hết thảy các sự kiện. Ðây là một thách đố
thật sự cho tư duy của chúng ta. Triết gia và nhà tâm lý học Hoa
Kỳ *William James (1842-1910) tâm sự rằng ông luôn luôn gặp khó
khăn với "các sự kiện bướng bỉnh, không thể giảm thiểu", những
sự kiện ông không thể bỏ qua tuy chúng chẳng thể vừa vặn với lý
thuyết đã được chấp nhận mà không gây ra mâu thuẫn.
Không đơn giản hóa
Trong khi suy ngẫm các sự kiện, khuyết điểm trầm trọng nhất của
chúng ta là có khuynh hướng chấp nhận sự giải thích đơn giản.
Những giải thích ấy dường như hữu hiệu vì chúng ta bỏ qua một
bên cái nào có vẻ là ngoại lệ.
Rõ ràng môi trường sống của các thiếu niên phạm pháp đóng vai
trò to lớn trong quá trình hình thành cá tính của chúng nhưng
vẫn có chứng cớ về khả năng chọn lựa các hành động khác nhau, và
sự chọn lựa ấy khiến cho cá nhân chịu trách nhiệm một cách thích
đáng về hành động tội phạm của y. Không thể nói rằng lý thuyết
ấy ứng xử thỏa đáng với vấn đề thiếu niên phạm pháp trừ phi nó
giải thích trách nhiệm thực tế cũng như ảnh hưởng mang tính
quyết định của hoàn cảnh.
Tìm kiếm nguyên tắc và hệ thống
Những người quả quyết rằng ý chí vốn tự do và các quyết định của
con người không bị tác động bởi các điều kiện vật lý, thì dường
như cũng vấp phải sai lầm không kém những người quả quyết rằng
con người chẳng có chút tự do nào. Triết học có nhiệm vụ đương
đầu với các khía cạnh mâu thuẫn rõ rệt của kinh nghiệm, và bằng
sự suy ngẫm về chúng, triết gia tìm kiếm nguyên tắc tổng quát
khiến cho con người có thể hiểu vị trí của mọi sự kiện cá biệt
trong một hệ thống có tính toàn bộ.
Ðó là lý do khiến trong cuốn Process and Reality (Tiến
trình và thực tại, 1929), Whitehead định nghĩa triết học là "nỗ
lực kết cấu các ý niệm tổng quát thành một hệ thống thiết yếu,
hợp lý, chặt chẽ, và từ cơ sở ấy, có thể thông giải mọi thành tố
trong kinh nghiệm của chúng ta".
Ðó cũng là lý do khiến trong cuốn The Function of Reason
(Chức năng của lý trí, 1929), triết gia ấy quả quyết rằng lý trí
suy xét "tìm kiếm, với tính hiếu kỳ và vô tư, tri thức về thế
giới này. Không điều gì xảy ra mà hoàn toàn ở bên ngoài hoặc bị
nó gạt bỏ ra ngoài. Nó được lèo lái bằng đức tin tối hậu rằng có
khả năng am hiểu mọi sự kiện đặc thù khi rọi sáng nguyên lý tổng
quát về bản tính của chính nó và về địa vị của nó giữa những sự
kiện đặc thù khác".
Hình thành lý thuyết
Thoạt đầu, mọi sự kiện cá biệt (particular facts) trông có vẻ
rời rạc, nhưng rồi chẳng bao lâu, những suy ngẫm về chúng sẽ vén
lộ cho thấy rằng chúng ta không thể nào am hiểu chúng nếu cứ để
sự kiện này rời rạc với sự kiện khác. Vốn bắt đầu với các sự
kiện đặc thù và tiến hành qua những nối kết của chúng với các sự
kiện khác, triết học phải đi tới một tổng quát tối hậu để rọi
sáng hết thảy các sự kiện ấy.
Nói theo ngôn từ của thi sĩ, triết học là nỗ lực để thấy toàn bộ
lược đồ chán ngán của vạn vật. Chính trong ý nghĩa đó mà chúng
ta mô tả triết học như một nỗ lực hình thành lý thuyết (theory),
vì bằng từ ngữ "lý thuyết", chúng ta có ý nói tới một sự tổng
quát hóa có khả năng giải thích vô số sự kiện – như lý thuyết
Newton về định luật vạn vật hấp dẫn đã đưa ra lời giải thích cho
động thái của hết thảy các đối tượng vật lý.
V. Ðiểm khởi hành của triết học
1. Tri thức chính xác
Tới đây chỉ còn một điều cần phải thảo luận, đó là chúng ta có ý
nói gì qua cụm từ "những thông tin có sẵn và đáng tin cậy nhất",
nghĩa là "tốt nhất".
Nói chung, người ta đều đồng ý rằng không phải hết thảy các
thông tin chúng ta đang sở hữu đều đáng tin. Không ai dám nghĩ
rằng ảo ảnh có thể biểu thị cho một sự kiện hiện hữu, rằng ảo
giác có thể cung cấp kiến thức đáng tin cậy và rằng dối trá có
thể cung cấp sự thông giải khả dĩ chấp nhận về một biến cố.
Chúng ta phải bắt đầu bằng tri thức – hay còn gọi là kiến thức,
am hiểu (knowledge, understanding) – chính xác, hoặc chúng ta có
thể làm cho nó trở nên cực kỳ chính xác hết sức có thể được, nếu
chúng ta muốn chứng minh hữu hiệu những suy tưởng hay lý đoán
(speculations) của mình.
2. Mạc khải
Thông tin của Thượng đế
Nếu có Thượng đế, nếu đấng Thượïng đế ấy vén lộ (reveal) cho
thấy thế giới này giống như cái gì và nếu ngài tiết lộ đầy đủ
câu chuyện về thân phận của con người, lúc đó chúng ta sẽ có
những thông tin chính xác mà chúng ta đang đòi hỏi. Ðã và vẫn có
những lời tuyên bố rằng loài người từng được ban cho một mạc
khải (revelation) như thế, và quả thật kinh sách của hầu hết các
tôn giáo đều có đề cập tới lời tuyên bố ấy.
Có những tôn giáo nhấn cực kỳ mạnh tới mạc khải, đặt hẳn cho
Thượng đế ấy một danh xưng là Thiên Chúa, là Giê-hô-va, là Ðức
Chúa Trời, là Allah, làm thành một nhóm Thiên Chúa giáo bao gồm
Do Thái giáo, Kitô giáo (Công giáo, Tin lành, Chính thống giáo,
v.v.) và có thể tính luôn cả đạo Islam (Hồi giáo).
Mạc khải không giống nhau
Rủi thay, các tông phái Thiên Chúa giáo có nhiều điểm bất đồng
khi trình bày lý thuyết của mình về mạc khải. Giữa những mạc
khải khác nhau đó, chúng ta hiện chưa biết làm thế nào để có thể
quyết định mạc khải nào là chính xác và duy nhất. Ấy là chưa kể
tới các mạc khải, thường được gọi là ngộ, chứng ngộ, thức ngộ,
v.v. trong Phật giáo, Ðạo giáo, Bái hỏa giáo, v.v.
Tín đồ Kitô giáo có thể khẳng định rằng Kinh thánh (Bible) – cả
Cựu Ước lẫn Tân Ước – kiến lập một mạc khải chính xác và duy
nhất, và rằng sự am hiểu chân chính về vũ trụ phải đặt cơ sở
trên cuốn sách thiêng liêng ấy. Thế nhưng không dễ dàng gì khi
phải quyết định rằng mạc khải ấy thật sự nói cho chúng ta biết
cái gì, vì gần như mỗi chi phái hội thánh Kitô đều đưa ra một
thông giải cá biệt, và chi phái nào cũng tuyên bố rằng cái mình
đưa ra đó là đầy đủ và chính xác.
Những tuyên bố ấy thường đối chọi nhau và dường như không cách
gì giải quyết. Thậm chí dẫu cho có đồng thuận đi nữa về một
thông giải đặc thù nào đó, chúng ta vẫn thấy mạc khải đó vẫn có
các giới hạn của nó vì nó chẳng giúp được gì nhiều trong việc am
hiểu bản tính của thế giới vật lý (physical world).
Mạc khải và khoa học
Trong quá khứ, đã từng có nhiều lý thuyết khoa học bị tấn công.
Thí dụ thuyết của nhà thiên văn học *Nicolas Copernicus
(1473-1543) hoặc *thuyết tiến hóa (the theory of evolution) của
nhà vạn vật học *Charles Darwin (1809-1882) dường như mâu thuẫn
với thông điệp tạo hóa trong Kinh Thánh Thiên Chúa giáo cho dù
về sau rất nhiều người đồng ý rằng đôi bên không có xung khắc.
Khoa học tiến bộ là nhờ viện dẫn sự kiện (fact) chứ không viện
dẫn mạc khải. Những kẻ tự giới hạn mình trong mạc khải thì
thường không đạt được thành quả tốt trong khoa học, nếu không
muốn nói toàn là những thành quả dở.
Ngay từ thuở thế kỷ 16, trong cuốn Novum Organum, (Công
cụ mới, 1620), triết gia Anh *Francis Bacon (1561-1626) đã có
thể viết rằng: "Với tính cực kỳ nhẹ dạ, một số người hiện đại
lấy làm thỏa thích, tới một chừng mực nào đó, nỗ lực tìm thấy
một hệ thống triết học tự nhiên trong những chương đầu của sách
Sáng thế, của sách Gióp và của những phần khác của kinh điển
thiêng liêng ấy... Xuất từ sự trộn lẫn không lành mạnh vạn vật
với con người và thần linh đã phát sinh không chỉ một nền triết
học quái đản (fantastic philosophy) mà còn một tôn giáo mang
tính dị giáo (heretical religion). Chính bởi sự gặp gỡ như thế
mà chúng ta phải điềm đạm tâm trí và phải cung cấp cho đức tin
cái duy nhất đúng là đức tin".
Phải phát hiện mạc khải
Trong khi vẫn còn nhiều người chấp nhận cái nhìn cổ truyền về
mạc khải, hầu hết các nhà tư tưởng tôn giáo hiện đại đều chia sẻ
quan điểm của vị Tổng giám mục Anh giáo *William Temple
(1881-1944) rằng không có chân lý được mạc khải theo kiểu đó. Có
chân lý của mạc khải theo ý nghĩa rằng Thượng đế tự ngài vén lộ
trong lịch sử và thiên nhiên nhưng loài người phải tự mình phát
hiện ý nghĩa của mạc khải ấy.
Tuy thế, thật không công bằng khi nói rằng hầu hết các nhà thần
học hiện đại đều đồng ý với nhà văn Ðức *Gotthold E. Lessing
(1729-1781) rằng "Chân lý của các tôn giáo lớn đều không hợp lý
khi chúng được mạc khải nhưng chúng được mạc khải để trở thành
hợp lý" (the great religious truths were not rational when they
were revealed but they were revealed so that they might become
rational).
Phải đi tìm chân lý
Cuốn sách này có chủ đề triết học chứ không phải *thần học
(theology) nên không thể đẩy vấn đề mạc khải đi xa hơn. Ngang
đây có lẽ vừa đủ cho mục đích của chúng ta, nhằm trình bày rằng
chân lý không được cung cấp sẵn dưới hình thức một viên thuốc
con nhộng – thường chứa chất thuốc kháng sinh hay thuốc trị bệnh
nhức đầu, cảm mạo – cho những ai muốn đi tới cội nguồn thích
đáng của nó.
Chỉ có thể tìm thấy chân lý bằng những nghiên cứu triệt để và
kiên nhẫn của những kẻ bị tính lương thiện trí thức khống chế và
được tính hiếu kỳ triết học thúc ép.
3. Cảm quan chung
Nhận biết ngay lập tức
Một số người cảm thấy không cần phải tìm kiếm chân lý về vũ trụ
ở đâu xa và cũng chẳng cần phải có bằng cớ tỉ mỉ. Theo họ, con
người có một khả năng thấy vạn vật ngay lập tức; họ gọi khả năng
ấy là cảm quan chung (commonsense), hiểu như một sự nhận biết
theo lẽ thường hoặc một khả năng cảm nhận đúng sai, tốt xấu tuy
chưa đạt tới mức bẩm sinh như lương tri.
Những kẻ chấp nhận "cảm quan chung" thường đối lập với cái bị họ
gọi là suy tưởng hay lý đoán trừu tượng (abstract speculation)
của triết gia. Ðối với họ thì triết gia, kẻ phát biểu về không
gian và thời gian (space and time) như là các điều kiện chủ quan
của kinh nghiệm (subjective conditions of experience) hoặc chức
năng của người nhận thức (function of the perceiver) trong việc
quyết định phẩm tính của đối tượng (quality of object), dường
như đang sống trên mây và đang dùng loại ngôn ngữ được đặc biệt
dự kiến chỉ cốt để gây hoang mang và thần bí hóa.
Nhìn đời giản dị
Theo họ, nếu chúng ta tự giới hạn trong những sự việc bình
thường của cuộc sống thì sẽ thấy vấn đề tranh luận bất tận về
bản tính tối hậu của thực tại (the ultimate nature of reality)
chỉ là chuyện nhỏ. Người ta có thể làm tình, giết người, nói
dối, làm giàu mà không cần phải có quyết định về các vấn đề *duy
vật chủ nghĩa (materialism) và *duy tâm chủ nghĩa (idealism).
Những thảo luận về các vấn đề tối hậu ấy thậm chí còn có thể làm
cho triết gia, không nhiều thì ít, mù lòa trước những sự thật
hiển nhiên.
Triết gia và giám mục Anh giáo *George Berkeley (1685-1753), sau
khi biện luận tỉ mỉ, đã phủ nhận thực tại vật chất của vạn vật
(material reality of things). Thế nhưng tác giả người Anh,
*Samuel Johnson, thường được gọi là Dr. Johnson (1709-1764), lại
xem quan điểm ấy cực kỳ phi lý tới độ có thể dễ dàng đánh bại nó
như co chân đạp đổ một hòn đá. May mà Tiến sĩ Johnson sai, như
rất nhiều người ưa chuộng "cảm quan chung".
Triết học gắn bó với đời sống
Các chủ đề mà triết học xem xét không phải là những nan đề nhân
tạo (artificial dilemmas) do con người bày đặt ra để tự tiêu
khiển bằng những trầm tư mặc tưởng của tâm trí; chúng là những
vấn đề liên quan thật sự tới cuộc sống.
Ta không thể nào giải quyết một vấn đề bằng cách bảo rằng nó
trừu tượng, hoặc giải quyết một khó khăn bằng lời quả quyết vu
vơ. Kẻ không chịu xem xét các nguyên lý căn bản đang nằm bên
dưới hành động của mình vẫn không thể tránh khỏi tác động của
các nguyên lý ấy; họ chỉ đơn giản thay thế các nguyên lý tốt
bằng các nguyên lý xấu.
Nội hàm cảm quan chung
Có thể định nghĩa cảm quan chung là sự nhận biết lập tức giải
pháp của một vấn đề mà không cần xem xét chứng cớ căn bản của
vấn đề ấy, cũng không cần xem xét giải pháp của nó có mâu thuẫn
hay không. Cảm quan chung chỉ có thể thao tác khi ứng xử riêng
biệt với từng vấn đề và từng giải pháp tương ứng vì nó khó có
thể hữu hiệu khi đem áp dụng nguyên lý ấy vào một tình huống
khác.
Cảm quan chung hình thành các ý kiến tức thời mà ta không thể
nào truy nguyên cội nguồn tâm lý của chúng; tuy thế không có lý
do gì để giả dụ rằng loài người được ban cho một quyền năng đặc
biệt, có thể quyết định một cách chính xác mà không cần phải suy
ngẫm, và chỉ việc lắng nghe tiếng nói của cảm quan chung – hiểu
đơn giản như một loại lương tri dường như bẩm sinh – là đủ.
Có khả năng rằng cảm quan chung chỉ là một hình thức khôn ngoan,
nghĩa là khả năng chiếu rọi các nguyên tắc từng thao tác hữu
hiệu trong quá khứ thành giải pháp cho các vấn đề hiện tại.
Nguồn gốc của cảm quan chung
Như thế, có thể hiểu cảm quan chung là khả năng nhận biết theo
lẽ phải thông thường, có được từ những trải nghiệm trong thực tế
cuộc sống chứ không phải do một tiến trình suy tưởng hoặc nghiên
cứu đặc biệt nào. Có đủ mọi lý do để tin rằng cảm quan chung,
hoặc có khi được gọi một cách khái quát là lương tri, chỉ là sự
tích lũy những thông tin sở đắc từ những cái khác.
Tri thức khoa học (scientific knowledge) thẩm thấu chầm chậm và
dài ngày vào ngôn ngữ thông thường, được các thế hệ đi sau chấp
nhận và xem là hiển nhiên những gì mà các thế hệ đi trước phải
khám phá. Nếu quả đúng như thế, cảm quan chung hoặc lương tri
lúc nào cũng là tiếng dội lại của quá khứ; tự nó không đủ để ứng
xử thỏa đáng những vấn đề phát sinh trong thời đại chúng ta hoặc
để đánh giá chính xác các khó khăn tiềm ẩn trong một lập trường
đã cũ, được phát hiện nhờ những thẩm tra mới.
Sai lầm của cảm quan chung
Cảm quan chung công kích lý thuyết của Copernicus vì rõ ràng mặt
trời mọc ở phương đông và lặn ở phương tây. Ðối với cảm quan
chung, dường như rõ ràng rằng không gian chỉ có ba chiều, bất
chấp những gì có thể được phát biểu bởi nhà vật lý toán học
người Ðức *Albert Einstein (1879-1955) hoặc bất cứ nhà khoa học
hiện đại nào khác, thí dụ nhà vật lý lý thuyết người Anh
*Stephen Hawking (1942- ) hay nữ giáo sư vật lý Mỹ *Lisa Randall
(1962- ). Cảm quan chung đặt cơ sở trên sự chứng nhận tức thời
của các giác quan cùng các ý tưởng khoa học đang lưu hành và
được tiếp nhận một cách tổng quát.
Cảm quan chung là đối tượng của hết thảy những sai lầm có xuất
xứ từ khuyết điểm của các giác quan và sự thiếu hiểu biết các
tiến bộ của khoa học. Ðối với tri thức, cách riêng tri thức
triết học (philosophic knowledge) thì không có phương cách dễ
dàng sở đắc chúng; những lời tuyên bố tức thời và thiếu phê phán
của cảm quan chung có khả năng làm cho chúng ta không đi sát với
việc giải quyết các vấn đề tổng quát mà chúng ta phải đối mặt.
4. Kinh nghiệm
Trải nghiệm không tự giải thích
Nhiều người chấp nhận các giải pháp mang tính cảm quan chung vì
chúng dường như bắt đầu với trải nghiệm (experience) và tiếp tục
gần gũi với kinh nghiệm, nhưng đặc tính đó không phải là độc
quyền của cảm quan chung.
Khoa học cũng như triết học đều đồng ý rằng đối với kinh nghiệm,
ta phải bắt đầu thẩm tra nó tới nơi tới chốn. Hai bộ môn ấy
không đồng quan điểm với cảm quan chung vì cả hai đều cho rằng
kinh nghiệm không mang tính tự giải thích và rằng vạn vật không
nhất thiết hiện hữu đúng như vẻ bên ngoài của nó. Người bình
thường thấy chiếc ghế dựa là cái gì đó rắn đặc trong khi nhà
khoa học có thể thấy nó như một không gian mênh mông. Kinh
nghiệm được khoa học chắt lọc cho tới khi vượt quá vẻ bên ngoài
và phát hiện mối tương quan giữa các biến cố.
Kinh nghiệm, khoa học và triết học
Chính vì rất thành công trong hoạt động đó nên khoa học là nguồn
thông tin tốt nhất cho chúng ta khi bắt đầu làm triết học, nghĩa
là khởi sự triết học hóa một vấn đề. Nhưng như thế không có
nghĩa khoa học là nguồn thông tin duy nhất. Chúng ta cần phải
tính đến những thành tố trong kinh nghiệm, thí dụ cảm giác tự
do, cho dù muốn cắt nghĩa thích đáng các thành tố ấy ta có thể
phải điều chỉnh các kết luận mang tính khoa học.
Cũng như khoa học, triết học không hoàn toàn bằng lòng với việc
trình bày kết luận của nó bằng lý trí nhưng phải cho thấy rằng
những cái tổng quát đã được thừa nhận ấy có sự ứng dụng của kinh
nghiệm và chúng làm cho kinh nghiệm có ý nghĩa. Nhà triết học
chân chính thường đồng ý với
Berkeley
rằng nếu trong kinh nghiệm có bất cứ thành tố nào mâu thuẫn với
lý thuyết tổng quát thì lúc đó rất có khả năng lý thuyết tổng
quát ấy sai.
Trong cuốn Process and Reality (Tiến trình và thực
tại) từng được nhắc tới ở một đoạn trên, Whitehead quả
quyết rằng điểm khởi hành của cuộc tra vấn là "thế giới thật sự,
gồm cả bản thân chúng ta; và thế giới thật sự ấy dàn trải nó ra
cho chúng ta quan sát nhân danh vấn đề kinh nghiệm tức thời. Sự
giải thích sáng sủa của kinh nghiệm tức thời là chứng minh độc
nhất cho bất cứ tư tưởng nào".
Kinh nghiệm và suy tưởng
Nếu tự thân kinh nghiệm tức thời mang trong nó sự giải thích tức
thời của chính nó thì hẳn chẳng cần tới khoa học hoặc triết học.
Chính kinh nghiệm khiến chúng ta phải đương đầu với vấn đề nên
mới cần đến suy tưởng. Vì suy tưởng liên quan tới giải pháp cho
vấn đề kinh nghiệm nên phải kiểm tra một cách thích đáng tính
chính xác của ý tưởng để ta có khả năng xử lý vấn đề. Và điều
này chỉ có thể được quyết định bằng việc đặt các giải pháp vào
trong kinh nghiệm.
Y hệt sự chính xác của khoa học, tính chất chính xác của mọi
quan điểm hay lập trường triết học (philosophic position) đều
phải được quyết định bởi sự thich đáng của nó để tiến hành công
việc mà nó đã khởi sự. Do đó, chẳng có gì lạ khi thấy rằng triết
học hiện đại phải tín nhiệm các kết luận của khoa học hiện đại
hơn bất cứ thông tin nào khác, và rằng trong nhiệm vụ của triết
học có phần việc biến những gì liên quan tới tri thức thành một
lý thuyết tổng quát có khả năng giải thích mọi mặt của kinh
nghiệm.
VI. Giá trị của triết học
1. Chiêm nghiệm và hành động
Thúc bách của đời thường
Thật không dễ trình bày cho người khác hiểu tầm quan trọng của
nỗ lực khai phá mang tính triết học. Thành quả của khoa học ứng
dụng và các yêu cầu của một xã hội kỹ nghệ cạnh tranh cao độ và
công nghệ thông tin chớp nhoáng ngày nay đang thúc đẩy con người
lao mình vào hành động và biến người ưa thích chiêm nghiệm
(contemplation) thành kẻ lỗi thời, hoặc thậm chí còn bị xem là
kẻ ăn bám.
Triết học không dạy cho người ta cách làm thức ăn ngon hơn, cách
áp dụng năng lượng hạt nhân vào kỹ nghệ hoặc tiếp tay trả cho
xong tiền nợ thẻ tín dụng. Nếu các vấn đề thực tiễn ấy quan
trọng đúng như vẻ bên ngoài của chúng thì người ta có lý khi
không còn kiên nhẫn trước một đề tài triết học vì dường như nó
không bao giờ đạt tới một kết luận chung cuộc và không bao giờ
làm tăng thêm khả năng kiểm soát các sức mạnh thiên nhiên của
con người.
Triền miên thảo luận
Nếu triết gia có thể đưa ra câu trả lời chắc chắn cho tình trạng
bối rối về đạo đức và tôn giáo của loài người, y sẽ được xem là
người cung cấp dịch vụ hữu ích. Nhưng ngay cả trong phạm vi ấy,
câu trả lời của y cũng chẳng cụ thể chút nào.
Người ta dễ dàng nhận ra rằng đó là các chủ đề thảo luận triền
miên và bất tận giữa những kẻ không có các phương pháp nhằm đạt
tới sự đồng thuận về bất cứ chủ đề nào, và có lẽ bản thân họ
cũng chẳng quan tâm tới sự đồng thuận! Do đó triết gia dường như
là người ngoại cuộc, khán giả; kẻ không tham dự vào trò chơi
cuộc đời và là kẻ viễn mơ xa xỉ mà xã hội phải nhẫn nại chịu
đựng.
Triết học song hành khoa học
Phán đoán ấy có thể không hoàn toàn chính xác. Ngày nay, chúng
ta thường nghĩ tới triết học như bộ môn khác với khoa học và
quên rằng cho mãi tới gần đây, từ ngữ "triết học" (philosophy)
bao hàm toàn bộ phạm vi tri thức trong đó khoa học là một thành
phần. Tại Bắc Mỹ, học vị tiến sĩ của ngành khoa học tự nhiên lẫn
khoa học xã hội đều được gọi là Doctor of Philosophy (Ph.D.),
gốc từ chữ La-tin Philosophiae Doctor.
*Aristotle (384-322 tr.C.N.), một trong các triêt gia vĩ đại
nhất của loài người, cũng được hậu thế ca ngợi một cách xác đáng
là cha đẻ của khoa học. Descartes, người thường được gọi là cha
đẻ của triết học hiện đại, từng ứng xử với mọi vấn nạn khoa học
trong thời đại ông và chắc chắn ông sẽ lấy làm kinh ngạc khi
nghe có kẻ bảo rằng khoa học khác với triết học.
Einstein với những phát biểu đầy tính triết lý và nhà toán học
*Bertrand Russell (1872-1970) với công trình triết học đồ sộ,
xứng đáng là những kẻ tiên phong cho một thế hệ triết gia mới,
xuất hiện nửa sau thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 có gốc gác từ giới
khoa học gia.
Khoa học bắt đầu tách rời triết học khi số lượng thông tin tích
lũy ngày càng quá lớn tới độ những kẻ muốn xử lý nó một cách có
lớp lang đều cảm thấy cồng kềnh. Cuộc tách rời ấy làm cho khoa
học, bằng sự phát triển các kỹ thuật thỏa đáng hơn và sự phân
công thích đáng hơn, tích lũy kiến thức nhanh hơn và hoàn toàn
bảo đảm hơn.
Do đó, triết học ngày càng bị phân biệt thành một đối tượng
không có phương pháp thẩm tra chuyên biệt nào cũng như không
quan tâm tới việc đua tranh với các ngành khoa học vốn là nơi
bảo đảm cho sự sở đắc tri thức. Thay vào đó, triết học tập trung
vào việc suy tưởng các vấn đề không thể kiểm nghiệm bằng thẩm
tra khoa học.
Triết học bổ sung khoa học
Trong cuốn The Nature of the Physical World (Bản tính của
thế giới vật lý, 1928), nhà thiên văn học người Anh *Arthur S.
Eddington (1882-1944) nỗ lực trình bày rằng khoa học hiện đại
phải thăng tiến thành suy tưởng triết học (philosophic
speculation) nếu nó muốn hoàn thành thỏa đáng chức năng của nó.
Nhiều nhà khoa học khác, kể cả *James Jeans (1877-1946), *Max
Planck (1858-1947) và Einstein, đều đã làm bước nhảy vọt ấy và
rồi họ nhận thấy nhờ thế mà sự nghiệp khoa học của mình ngày
càng phong phú.
Whitehead từng đề nghị thêm một chức năng cho triết học là nhắc
nhở các nhà khoa học rằng dù họ đi xa tới mấy đi nữa cũng còn
một quãng đường rất dài trước mắt để còn phải đi xa hơn, và qua
suy tưởng, triết học vạch ra cho các nhà khoa học thấy những đại
lộ thẩm tra sum suê hoa trái.
2. Triết học là suy tưởng
Suy tưởng để sống trọn vẹn
Dù triết học không đóng góp vào các ngành khoa học và cho dẫu
chức năng của nó có tính hoàn toàn chiêm nghiệm đi nữa, triết
học vẫn là một môn học quan trọng. Ở đây, chúng ta không có thời
gian suy ngẫm về đạo đức của thế hệ hiện nay nhưng từ cuối kỷ
trước cho tới đầu thiên niên kỷ thứ ba này, người ta càng ngày
càng thấy rõ rằng "Con người không chỉ sống bằng vật chất" và
rằng "Kẻ nào chỉ biết suy nghĩ tới cái gọi là ‘thực tế cuộc đời’
thì hầu như không thể nào sống trọn vẹn cuộc đời".
Các nghề nghiệp chuyên môn ngày càng được nhấn mạnh, đưa tới
tình trạng loại dần ngành khoa học nhân văn. Và đó dường như là
một đòi hỏi cấp thiết của xã hội công nghiệp hóa. Tình trạng ấy
gây thiệt hại đáng kể cho các trường đại học, và nói chung cho
phẩm chất của cuộc sống.
Từ khoảng năm chục năm nay, các trường đại học và cao đẳng đã
từng bước nỗ lực xóa bỏ sự phân biệt giả tạo ấy. Nhà trường đưa
vào học trình chuyên nghiệp một số tín chỉ cơ bản, có tính triết
học, nhằm giới thiệu những chủ đề có vẻ không quan trọng nhưng
thực tiễn, chúng có ích cho việc chuẩn bị nghề nghiệp cho sinh
viên.
Làm phong phú con người
Là con người, có lẽ ai cũng cảm thấy thích thú muốn biết đầy đủ
tất cả những gì có thể biết về thế giới mình đang sống và thỉnh
thoảng muốn có cơ hội suy tưởng các vấn đề, để vượt lên trên
những đòi hỏi chật hẹp của cuộc mưu sinh. Nếu triết học giới hạn
chức năng của nó để chỉ giới thiệu cho con người một số tư tưởng
sâu sắc nhất của một số nhân vật vĩ đại nhất, thì hẳn nó sẽ cung
cấp những kinh nghiệm vô cùng lý thú và hào hứng.
Tuy thế, như đã trình bày, triết học còn thêm nhiệm vụ chủ yếu
khác nữa. Bằng việc khích lệ sự suy ngẫm về các nguyên lý tối
hậu của tri thức nhân sinh và động thái con người, triết học ra
sức làm cho tinh thần của sinh viên thêm phong phú.
What is your philosophy?
Ai dám quả quyết rằng chẳng quan trọng chút nào việc suy ngẫm
mang tính xét lại (reflection) những nguyên tắc trên đó các niềm
tin xã hội, đạo đức và tôn giáo đặt cơ sở, và nếu cần thì sửa
chữa những nguyên tắc ấy? Chỉ có những kẻ không được chuẩn bị để
hành động như một người có trí tuệ mới dám khẳng định và đưa ra
lời quả quyết như thế.
Có lẽ vì thế, ngày nay các chuyên gia thượng thặng trong các
ngành khoa học nhân văn, thâm chí khoa học kỹ thuật, khi được
phỏng vấn trên báo đài, thường bị hỏi về quan điểm triết lý của
họ trong các vấn đề liên quan tới bộ môn của mình, hay nhận xét
của họ về khía cạnh triết lý của một vấn đề đang cần phải xử lý.
Qua câu trả lời, người ta thấy kẻ được phỏng vấn am hiểu bản
chất của vấn đề ngang mức nào.
3. Xung khắc thời hiện đại
Thời thế kỷ 20
Ngày nay, bước sang thiên niên kỷ thứ ba và đang trong giai đoạn
đầu của công cuộc toàn cầu hóa, nhất thời bị đặt nặng trên công
nghiệp hóa, quyền lợi của nước lớn và lợi nhuận của các tập đoàn
đại công ty, vấn nạn về giá trị thực tiễn của triết học đang
ngày càng trở thành một đề tài cấp thiết. Thế giới của thế kỷ 20
vừa qua đã để lại kinh nghiệm cay đắng trong việc tìm câu trả
lời cho vấn nạn đó.
Thuở ấy, sau hai cuộc đại chiến, thế giới bị chia thành hai hệ
thống chính trị lớn với hai *hệ tư tưởng (two ideologies) đối
lập và lao vào cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu, song hành với
những cuộc chiến tranh ủy nhiệm tại nhiều địa phương nằm cách xa
trung tâm quyền lực của các cường quốc. Ngày nay nhìn lại, hẳn
có nhiều người thấy rõ những nguyên nhân đưa tới tình trạng thê
thảm ấy, nhưng trong đó nguyên nhân chủ yếu vẫn là cuộc tranh
giành quyền lực tối thượng của hai hệ thống triết học khác nhau.
Triết học Marx và dân chủ
Giữa chủ nghĩa Marx và thể chế dân chủ (democracy) không có điểm
gặp gỡ nào, cũng như không có khả năng thỏa hiệp vì cả hai tiêu
biểu cho các khái niệm khác nhau về bản tính của thực tại. Các
khái niệm khác nhau đó đưa tới các quan điểm khác nhau về con
người, tự do và vai trò của nhà nước.
Chủ nghĩa Marx tuyên bố rằng nó là một triết học đầy đủ và rằng
nó rút tỉa các nguyên lý của mình từ bản tính của vũ trụ, một
cách cực kỳ đúng đắn. Cuộc đấu tranh mang tính biện chứng pháp
trong suốt quá trình lịch sử được đưa ra làm chìa khóa dùng để
am hiểu các biến cố lịch sử và nhìn thấu suốt dòng chảy tất yếu
của xã hội loài người.
Chủ nghĩa Marx làm ta bất chợt nhớ lại các ngôn sứ (prophet) Do
Thái xa xưa, những kẻ luôn luôn hướng ánh mắt tới các giai đoạn
bi thảm trong cuộc sinh tồn của loài người, tuy thế họ vẫn cất
cao lời bảo đảm rằng đang tới thời kỳ trên mặt đất lũ cừu non
nằm chung với loài sư tử, từ núi Sion tuôn trào công lý và các
quốc gia không còn gây chiến.
Marx nhấn mạnh những quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp và,
không có sự phù trợ của Thượng đế, hứa hẹn sự kết thúc toàn bộ
hình thức bóc lột trong một xã hội con người thôi không còn ở
trong tình trạng làm nô lệ cho đồng loại.
Thể chế dân chủ dựa trên các khái niệm về phẩm giá con người và
tự do, về giá trị của luật pháp, quyền tư hữu và khả năng của
con người bằng sự thao tác tự do của lý trí để sửa chữa những
độc dữ của xã hội mà không có nguy cơ đánh mất tự do vào tay các
chính thể bạo tàn.
Thách đố của thời đại
Triết học, một môn học tự thân nó là đấu trường của cuộc xung
khắc ý thức hệ toàn cầu đó, chắc chắn không thể bị gọi là môn
học không thực tiễn. Thời đại hiện nay đang thách đố chúng ta
tái khảo sát những nguyên tắc căn bản của mình. Sự thách đố của
các chế độ thiếu dân chủ hậu chiến tranh lạnh là có thật. Tình
trạng ấy không bao giờ có thể thay đổi bởi những phát biểu ngoan
đạo hoặc những lời lẽ ủy mị tầm thường hoặc những lên án mang
tính giáo điều.
Có một sự thách đố thật sự cho những ai xem xét các nguyên tắc
trên đó thiết lập thể chế dân chủ và cho thấy tính ưu việt của
nó so với những lời tuyên bố trước đây của chủ nghĩa Marx. Làm
điều đó có nghĩa là quay về với triết học.
Ý nghĩa và tư duy cá thể
Trong phân tích vừa rồi, ý nghĩa của triết học phải là một ý
nghĩa cá nhân riêng tư. Kẻ nào muốn trung thực với bản thân, kẻ
đó phải tìm kiếm câu trả lời các vấn đề của y bằng suy ngẫm có
tính triết học. Ngày nay, không có gì ổn định. Những ý niệm từng
phục vụ thế hệ cha ông chúng ta nay không còn thỏa đáng.
Trong khi các yêu cầu của thời hiện đại chưa được đáp ứng thỏa
đáng thì đã dậy lên phong trào hậu hiện đại với những phá cách
chưa định hình. Các nền tảng của tôn giáo, đạo đức, tổ chức
chính trị, v.v. đều đang bị thách thức, và nếu chúng ta không
muốn để cho lý trí sắp sửa bị thay thế bằng mê tín, chúng ta
phải tái xem xét toàn bộ chúng.
Triệt để và đồng bộ
Chúng ta được nhắc nhở không ngớt rằng tiến bộ đạo đức đang
không đồng bộ với tiến bộ công nghiệp và rằng những phát minh
của khoa học khiến cho loài người thấy mình đang sở hữu những
khí giới mà nó không có khả năng kiểm soát chúng để phục vụ cho
phúc lợi của nó. Tại sao lại xảy ra tình trạng như thế? Câu hỏi
đó hoàn toàn chính đáng.
Câu trả lời có thể là vì chúng ta đã không áp dụng vào các vấn
đề đạo đức những kỹ thuật cùng cung cách tự do thẩm tra giống y
như đã áp dụng vào khoa học, nơi đã và đang chứng tỏ kết quả rất
hữu hiệu của chúng. Nỗi niềm hoài nhớ những ngày xưa tốt lành
không đủ để đáp ứng các nhu cầu ngày nay.
Cũng như khoa học đã và đang tái xem xét hết thảy các khái niệm
căn bản và các nguyên tắc căn bản của nó, chúng ta cũng phải sẵn
sàng làm giống y như thế đối với các nền tảng thực tiễn của
mình. Chưa làm như thế tức là chưa chân thành đối mặt với hiện
trạng. Thách đố chủ yếu của triết học là thách đố của sự lương
thiện trí thức.
4. Ðạo của triết gia
Tình yêu minh triết
Sự phân biệt tính chân chính hay không của một triết gia đặt cơ
sở trên động thái của ông ta khi làm triết học chứ không dựa vào
các kết luận được ông ta đưa ra. Ðối với triết gia, triết học là
tình yêu sự minh triết, nghĩa là tha thiết sự khôn ngoan do suy
tưởng triết học mang lại. Tự thân chữ triết học (philosophy hoặc
philosophie) có nguồn gốc từ chữ Hi Lạp cổ philosophia (philos
nghĩa là yêu; sophia nghĩa là minh triết, khôn ngoan).
Triết học là niềm khát khao muốn biết chân lý của mọi vật, muốn
đặt câu hỏi tối hậu, muốn tìm kiếm câu trả lời hợp lý cho các
vấn đề xuất hiện trước mắt hay trong trí óc của người có tính
suy ngẫm.
Tình yêu ấy có một sức mạnh không ngưng nghỉ và không nao núng.
Nó không cho phép triết gia mãn nguyện với lý thuyết về vũ trụ
nào bỏ sót hầu hết các sự kiện hoặc đưa lời giải thích mang tính
giáo điều chủ nghĩa (dogmatism), không ai dám thắc mắc hoặc có
thể thắc mắc.
Hành giả khiêm tốn
Thế giới sắp sửa được giải thích nhưng nó quá đổi vĩ đại và quá
đổi huyền ảo so với những công thức đơn giản của chúng ta. Mọi
câu trả lời đều gợi tới những câu hỏi mới; chân lý luôn luôn ở
quá bên kia chúng ta.
Như một hành giả khiêm tốn, triết gia cất bàn chân kiên trì bước
tới phía trước, trong khi tìm kiếm phương thế nắm bắt ý nghĩa
của những thông tin tốt nhất mà mình có thể sở hữu.
Cho dẫu không đạt tới mục đích sau cùng, triết gia – thậm chí cả
bạn và tôi, những kẻ muốn được đồng hành với các nhà tư tưởng ấy
– cũng sẽ thoát ra khỏi tình trạng bối rối do bởi ý kiến lệch
lạc gây nên, lòng cảm thấy sung sướng rộn ràng vì sự tự do của
tâm trí, và mắt nhận biết các chân trời đang bị che khuất đối
với những kẻ mù lòa, mê tín và vô minh.
Nguyễn Ước
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|