Truy tìm tự ngã
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học.
Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng. Kinh
Kim-cang được soạn tập bằng tiếng Phạn tiêu chuẩn, nhưng rất tiếc
chúng ta không thông thạo thứ cổ ngữ này, nên cũng chắc chắn là
không thể hiểu hết những tư tưởng ẩn áo của kinh hàm chứa trong các
từ ngữ và các câu văn. Như người không biết chữ Hán mà đọc thơ Đường
qua một bản dịch thì không thể thưởng thức hết giá trị của bài thơ.
Lời thơ là lời của phàm phu mà còn vậy, huống chi lời kinh là lời
của Phật. Tuy nhiên, không hiểu chữ Hán thì đọc thơ Đường qua các
bản dịch cũng được. Nhưng cũng nên nói thêm là thế giới xưa nay chưa
có Huệ Năng thứ hai.
Kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa được kết tập không giống nhau.
Kinh điển Nguyên thủy được kết tập theo dạng truyền khẩu; có những
nét đẹp của nền văn học truyền khẩu. Kinh điển Đại thừa phần lớn
được ký tải bằng văn tự, có những nét đẹp riêng của văn tự.
Văn học Đại thừa xuất hiện vào giai đoạn mà văn học Ấn Độ nói
chung phát triển đến một hình thức nhất định, với văn chương thi
ca, các thể loại về kịch, truyện, vốn rất ít được phổ biến trong
thời Phật. Như kinh Pháp hoa chẳng hạn, mở đầu bằng nhân duyên Phật
phóng quang, sau đó ngài Di-lặc hỏi, Văn-thù trả lời. Đó là phần mở
đầu giới thiệu, như thường được thấy trong các thể loại kịch cổ.
Trong kinh Kim-cang, chúng ta sẽ thấy không giống như kinh điển Đại
Thừa khác, mà lại gần với Nguyên thủy ở chỗ Phật ôm bình bát khất
thực xong rồi trở về Tinh xá. Sau bữa ăn, các vị tỳ-kheo thường tập
hợp tại giảng đường để thảo luận giáo lý. Bấy giờ, trong đại chúng
có sự hiện diện của Tu-bồ-đề; và ngài bắt đầu thưa hỏi. Ở đây, không
mở đầu bằng sự phóng quang, hay những thần thông biến hóa khác. Nhìn
từ ý nghĩa văn học, người ta giải thích rằng, những vấn đề được nêu
trong kinh Kim-cang là những sự việc trong đời sống, là những cái
ăn, cái uống, nghỉ ngơi, không phải trong thế giới huyền bí kỳ ảo
như là của Hoa nghiêm, Pháp hoa.
Còn một nghĩa nữa mà chúng ta thấy có quan hệ đến lịch sử văn học.
Trong các kinh điển Nguyên thủy, các vị tỳ-kheo buổi trưa sau khi
thọ thực xong, nếu không tụ tập tại giảng đường, thì thường vắt tọa
cụ trên vai, đi vào rừng, tìm đến một gốc cây mà ngồi nghỉ trưa. Có
khi đức Phật ngồi ở một gốc cây, và các ngài Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên, cũng ngồi ở một gốc cây gần đó. Cho đến xế chiều,
các tỳ-kheo ngồi gần đó liền đi tới ngài Xá-lợi-phất, tới đức Phật
để đảnh lễ, hoặc thưa hỏi giáo lý.
Trong kinh Kim-cang cũng thế; các tỳ-kheo tụ tập quanh đức Phật để
chờ nghe Phật giảng Pháp. Trong truyền thống Ấn Độ, các buổi
giảng hay các lớp học của những người Bà-la-môn thường diễn ra
giữa khu rừng, giữa cảnh thiên nhiên. Một lớp các đạo sĩ sống trong
rừng, giảng giải ý nghĩa cũng như nghi thức Vệ-đà; tư tưởng triết
học tôn giáo của họ được soạn tập thành bộ Sâm lâm thư. Đó là bộ
Thánh điển về sau phát triển thành các Upanishad, tức Áo nghĩa thư.
Chúng ta nên hiểu tổng quát về Upanishad hay Áo nghĩa thư vì nó liên
hệ tới kinh Kim-cang rất nhiều, là điểm để chúng ta có thể tin là
kinh Kim-cang thật sự do Phật nói hay không.
Một số vị nhận định kinh điển Bát-nhã từ hình thức kết cấu văn học
đến nội dung tư tưởng, so sánh với các tập Upanishad, rồi kết luận
Kim-cang cũng như toàn hệ Bát-nhã chỉ là một bộ phận của Upanishad,
hay phỏng theo Upanishad; nghĩa là, không phải Phật thuyết.
Upanishad là giai đoạn phát triển cao của tư duy Ấn Độ, bắt đầu
từ Vệ-đà. Có tất cả bốn bộ Vệ-đà, nhưng trong thời Phật chỉ mới xuất
hiện có ba, mà kinh Phật gọi là Tam minh. Bà-la-môn tam minh là
người thông thạo ba bộ Vệ-đà. “Minh” là từ Hán dịch của Vệ-đà. Thời
Phật, chưa xuất hiện Upanishad.
Trên kia, chúng ta đã nói đến Sâm lâm thư. Đây là từ dịch tiếng Phạn
Aranyaka. Ở nơi khác, chúng ta có nói các tỳ-kheo a-lan-nhã sống
trong rừng thời đức Phật. A-lan-nhã là từ phiên âm của aranyaka.
Luật tạng có kể, một thời, đức Phật nhập thất, không một tỳ-kheo nào
được phép đến gần hương thất của Phật, trừ vị thị giả. Bấy giờ có
một nhóm ba chục vị là những tỳ kheo a-lan-nhã đến thăm Phật. Vì
Phật đang nhập thất, nên các vị tỳ-kheo tại trú xứ này ngăn cản.
Nhưng các tỳ-kheo a-lan-nhã nói, họ được Phật cho phép đến gặp Ngài
bất cứ lúc nào. Vì các vị này chỉ sống trong rừng nên ít có cơ hội
gặp Phật. Rồi họ vẫn tới gõ cửa hương thất. Thật đáng kinh ngạc, từ
trong thất đức Phật liền mở cửa.
Đức Phật truyền dạy những pháp gì cho các tỳ-kheo A-lan-nhã? Không
có kinh điển nào tường thuật. Đức Phật đã có biệt thị đối với họ,
tất cũng có giáo pháp biệt truyền cho họ. Pháp ấy là pháp gì? Kinh
điển Nguyên thủy không đề cập.
Ngài Tu-bồ-đề cũng là một tỳ-kheo a-lan-nhã, như được xác định chính
trong kinh Kim-cang. Truyền thống Pāli cũng xác nhận điều này.
Các tỳ-kheo a-lan-nhã thường tu tập Không tam muội, như được Phật
nói trong kinh Đại không, Trung A-hàm. Sau thời Phật, các Trưởng lão
chủ trì cuộc kết tập thứ hai cũng phần lớn tu tập Không tam muội,
như được ghi chép trong Luật tạng. Các vị này cũng sống trong rừng.
Không tam muội là thiền định y trên hành tướng vô ngã. Không và vô
ngã là giáo nghĩa căn bản trong kinh Kim-cang.
Kinh nói: Hết thảy pháp hữu vi đều là như chiêm bao, như huyễn
thuật, v.v...; đó là nói về giáo nghĩa Tánh không và Vô ngã bằng
kinh nghiệm trực giác hay thực chứng. Giáo nghĩa này về sau được các
Bà-la-môn học Vệ-đà thay thế bằng học thuyết như huyễn tức māyā và
hữu ngã tức ātman. Những điểm tư tưởng này là tinh yếu của các tập
Upanishad. Nói một cách đại cương, thế giới này chỉ là huyễn hóa,
vậy ta là ai, hay ta là cái gì, trong tấn tuồng huyễn hóa này?
Như vậy có thể thấy ảnh hưởng của các tỳ-kheo a-lan-nhã đối với các
đạo sĩ soạn tập Sâm lâm thư để rồi phát triển thành tư tưởng triết
học Upanishad. Thế nhưng, về sau do sự phục hồi địa vị của giai cấp
Bà-la-môn, những người Ấn Độ giáo thâu thái rất nhiều giáo nghĩa của
Phật trong đó có giáo nghĩa Tánh không diễn thành như huyễn, rồi cho
rằng tư tưởng Không trong các bộ Bát-nhã là do ảnh hưởng của
Upanishad. Cũng có nhiều Phật tử tin điều này nên cho rằng kinh điển
Bát-nhã cũng như của cả Đại thừa chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo,
thay vì ngược lại.
Vậy, Upanishad là phản ứng của các Bà-la-môn, họ vay mượn giáo nghĩa
Tánh không tức Vô ngã trong các kinh Bát-nhã. Vì phủ nhận sự tồn tại
của tự ngã thường hằng là phủ nhận luôn cả sự tồn tại của Brahman,
là Thượng đế Sáng tạo.
Ngay cả trong Phật giáo, sau khi Phật nhập niết-bàn, trong nội bộ
Phật giáo đã xuất hiện một số bộ phái chấp nhận có tự ngã hay ātman,
như Độc tử bộ hay Hóa địa bộ. Những bộ phái này lý luận rằng, nếu
không tồn tại một tự ngã, không có một cái tôi thường hằng bất biến,
vậy ai hay cái gì luân hồi, lang thang chìm nổi trong biển sinh tử?
Cũng nên biết rằng tự ngã hay ātman trong tư tưởng tôn giáo Ấn Độ là
cái mà trong các tôn giáo, Đông cũng như Tây, hiểu là linh hồn. Cho
nên, có linh hồn mới có đầu thai, mới có việc sinh lên Thiên đường
hay đọa địa ngục như là hậu quả của hành vi tội hay phước.
Giáo nghĩa Phật dạy, có tác nghiệp thiện ác, có quả báo lành dữ,
nhưng không có người hành động, không có người thọ quả. Đây là điều
rất khó hiểu.
Chúng ta nên đi từ cái dễ, rồi đến cái khó. Cái dễ hiểu là tất cả
đều có một cái tôi: tôi đi, tôi đứng, tôi ăn, tôi ngủ, v.v... Nhưng
khi người ta ngủ, mà ngủ như không chiêm bao, thì hình như cái tôi
này biến mất. Hoặc như người bị tai nạn mà mất trí nhớ, không còn
nhớ ra mình là ai. Nếu được chữa trị, trí nhớ phục hồi, bấy giờ vẫn
là cái tôi như khi trước. Rồi khi người ta chết, cái tôi ấy còn hay
không? Thừa nhận còn, tức là thừa nhận có linh hồn tồn tại bất biến,
khi thức cũng như khi ngủ, lúc còn sống cũng như sau khi chết.
Đấy là kinh nghiệm thường nhật về một cái tôi. Kinh nghiệm ấy là sự
tích lũy trong một đời người những hoài niệm, những đau khổ, hạnh
phúc, những danh vọng, khốn cùng. Từ những kinh nghiệm tích lũy ấy
mà hình thành ý tưởng về một cái tôi thường hằng. Trong trình độ
thấp nhất, cái tôi ấy được đồng hóa với thân xác và những sở hữu cho
thân xác. Vị đại hoàng đế có cả một đế quốc: ta và đế quốc của ta.
Nhưng một khi thân xác này tan rã, mà chắc chắn là như vậy, thì ta
là ai, mà đế quốc này là gì? Những hoàng đế ấy, như Tần Thủy Hoàng,
Hán Vũ Đế, Thành Cát Tư Hãn, tin vào một cái ta và thân xác ta có
thể tồn tại lâu dài, vì không muốn cái danh vọng, quyền lực đang có
mất đi; họ đi tìm đạo sỹ, cầu thuốc trường sinh. Những người đi tìm
trường sinh ấy, bây giờ ở đâu?
Lại còn những người khác, giàu sang có cả một cơ đồ, nhưng khi thị
trường chứng khoán sụp đổ, nhảy lầu tự tử. Ta và tài sản của ta; cái
này mất thì cái kia cũng không còn lý do tồn tại. Thật sự thì ở đây
ta là ai, trong cái cơ đồ phú quý ấy?
Với một hạng người khác, ta là danh, đã sinh ra trong trời đất, thì
phải có danh gì với núi sông. Một mai vật đổi sao dời, để bảo tồn
danh tiết, họ đâm cổ tự sát. Vậy, ta là gì trong cái danh này?
Với những tín đồ tôn giáo tin vào một linh hồn bất tử, một cái ta
tồn tại trên thiên đường, hưởng những lạc thú mà Thượng đế ban cho
vì đã biết phục tùng Thiên ý. Vì thế họ sẵn sàng giết đồng loại để
chinh phục nước Chúa dưới trần gian.
Ta là ai, ta là cái gì, để vì phục vụ nó, bảo tồn nó, mà tự gây khổ
cho mình, và cũng gây khổ cho người? Có chăng một cái ta thường
hằng, siêu việt thân xác này, và tâm trí này, để cho mọi hành vi
trong một đời người, dù thiện hay ác, ngu hay trí, chỉ nhằm mục đích
là phục vụ nó, vì ích lợi của nó, vì hạnh phúc của nó, vì danh dự
của nó, vì quyền lực của nó?
Trước khi muốn hỏi ta là ai, trước hết nên hỏi, từ đâu có ý tưởng về
cái ta ấy?
Có một người mới mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu,
gọi Lucky, nó dửng dưng, vô cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó
mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đã hiểu Lucky là cái gì, và như vậy nó cũng
hiểu nó là cái gì. Nó hình thành một cái vỏ tự ngã mới qua một cái
tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự bảo vệ
sự tồn tại ấy. Nó tìm thức ăn, tìm chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần
như muốn đe dọa, uy hiếp nó. Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại
ấy bây giờ tồn tại dưới một cái tên gọi Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc
phạm đến cái tên Lucky, nó không có phản ứng gì. Nhưng với một con
người, khi cái tên gọi, một cái danh gì đó, mà bị xúc phạm, thì hãy
coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi nào đó mới biết nó
tên gì, cũng như con Lucky vậy. Rõ ràng, cái danh mang nội hàm tự
ngã ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh
phúc bởi chính cái hư danh đó.
Một ông thầy giáo có cái ngã là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ
thầy giáo, chức nghiệp nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách.
Nó là ông vua, nhưng ban đêm lẻn ra ngoài thành chơi. Dân nào không
biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hãy coi chừng.
Tự ngã chỉ là một cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do
chỗ ngồi, chỗ đứng giữa mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới
hình thành trong một đời người thôi, mà đã khó quên, khó trừ như
vậy; nếu là cái ngã được tích lũy trong nhiều đời, tất không dễ gì
trừ bỏ.
Cái ngã của ông xã trưởng chỉ to bằng cái xã của ông. Cái ngã của
một quốc vương to bằng cái vương quốc của ông. Cái ngã của một nhà
thông kim bác cổ thì dài bằng thời gian kim cổ, rộng bằng không gian
đông tây. Cái ngã của một chúng sinh luân hồi trong tam giới, tất
cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngã ấy không phải dễ nhận ra. Không
nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, thì cũng không thể tận cùng
biên giới đau khổ.
Trong kinh Phật có một câu chuyện: Một thiên thần kia, hiện đến
Phật, nói rằng trong quá khứ, ông là một tiên nhân, có tên là Ngựa
Đỏ, có phép thần thông quảng đại. Ông muốn thấy được biên tế vũ trụ,
để thấy được biên tế khổ, và chấm dứt khổ. Thế là ông bắt đầu đi
tìm biên tế của vũ trụ. Tuổi thơ của ông bấy giờ dài đến một
đại kiếp, đại khái là tỷ tỷ năm, nhưng không bao giờ thấy được cái
biên tế của vũ trụ. Rồi ông hỏi Phật: “Có cần đi suốt cái biên tế vũ
trụ này mới chấm dứt khổ không?” Phật xác nhận rằng, “Nếu không thấy
được cái biên tế của vũ trụ thì không chấm dứt được khổ”. Đức Phật
lại nói thêm: “Nhưng không cần. Chỉ trên cái thân cao một tầm này,
với năm uẩn nầy, ta có thể biết được thế gian sinh, thế gian
diệt”.
Điều đó có nghĩa rằng, thân thể này, với xúc cảm này, với tư duy
này, với nhận thức này, là tập hợp tích lũy cả một khối kinh nghiệm
lớn bằng biên tế vũ trụ. Cái khối ấy đông kết thành cái vỏ cứng dày.
Nó chỉ có thể bị đập vỡ bằng chày Kim-cang mà thôi.
Nói tóm lại, giáo nghĩa trong kinh Kim-cang bắt đầu bằng sự đối trị
tự ngã: vô ngã tưởng, vô nhân tưởng… Trong các tôn giáo, trong mỗi
hệ thống tư tưởng triết học, đều có riêng một quan niệm về tự ngã.
Trong nhiều tôn giáo, tự ngã là linh hồn do Thượng đế ban cho. Giữ
cho linh hồn đừng bị mất, để sau này được hưởng ân phước của Thượng
đế, đó là mục đích đời người.
Trong Nho giáo, người quân tử phải biết lập thân và lập danh. Lập
thân cho hiện tại, lập danh cho hậu thế. Đó là xác lập tự ngã trong
xã hội.
Lão Tử nói: ta có đại hoạn vì ta có thân. Nếu ta không có thân, nào
đâu có đại hoạn? Đó là hãy sống trọn tuổi trời chớ đuổi theo hư
danh, hãy để cho thân và danh cùng mục nát với cỏ cây.
Các đạo sĩ Upanishad đi tìm cái tự ngã chân thật là gì. Vượt ra
ngoài cái tôi trong đời sống thường nhật, và cái tôi lang thang
trong luân hồi để chịu đau khổ, có hay không có một cái tôi thường
hằng, chân thật? Cái tôi như giọt nước biển bị cô lập trong một cái
vỏ cứng nhỏ mọn, vô nghĩa, trôi nổi bồng bềnh trong đại dương; để
rồi khi cái võ cứng ấy đạp vỡ, giọt nước ấy sẽ hòa tan vào nước biển
trong đại dương. Khi ấy, Tiểu ngã hòa tan vào Đại ngã.
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả
danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng
điên đảo. Cái ngã được hình thành trong đời này, do ảnh hưởng truyền
thống, tôn giáo, tư tưởng, xã hội, để từ đó hình thành một nhân
cách, một linh hồn, và rồi chấp chặt vào đó để mà tồn tại. Cái đó
được gọi là phân biệt ngã chấp.
Cái ngã do tích lũy từ điên đảo vọng tưởng nhiều đời, hình thành bản
năng khát vọng sinh tồn nơi cả những sinh vật li ti nhất; đó là câu
sinh ngã chấp.
Vì vậy, không cần đi tìm ở đâu Tiểu ngã và Đại ngã, mà cần diệt trừ
khái niệm giả danh bởi vọng tưởng điên đảo.
Thích Tuệ Sỹ
Nguồn: TS. Pháp Luân số 60:
http://hoangphap.info/newstextdisplaydetails.aspx?CONTENTID=1154&ID=11
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|