Phạm vi của triết học ngày nay
I. Tái thông giải chức năng
II. Trợ thủ thời đại
III. Phân tích một bản thống kê
IV. Cánh cửa rộng mở
Bước sang
thiên niên kỷ thứ ba, với sự phát triển của công nghệ thông tin,
tiến bộ về kỹ nghệ và tính chất toàn cầu của sinh hoạt thời đại,
triết học đứng trước những thách đố mới về phạm vi, chức năng
lẫn cứu cánh. Có người còn đặt vấn đề, phải chăng đây là thời
điểm khởi sự cho một diễn tiến cáo chung của triết học.
I. Tái thông giải chức năng
Ngay trong thế kỷ 20 vừa qua, đã có một số phong trào nỗ lực
giảm thiểu triết học thành một môn học nào đó.
Người thực chứng chủ nghĩa (positivism) muốn triết học đi theo
khoa học, vứt bỏ những gì không làm toại nguyện các tiêu chuẩn
thực nghiệm đối với ý nghĩa. Kế đó, các nhà phân tích ngôn ngữ
(linguistic analysts) quả quyết rằng toàn bộ công tác của triết
học chỉ là “lột trần” những phát biểu để xác minh ý nghĩa của
chúng chứ tự thân triết học không có nội dung nào.
Người theo chủ nghĩa Marx muốn mọi sự giảm thiểu thành ma trận
(matrix) chính trị và xã hội của họ. Và người chủ nghĩa hậu hiện
đại nhìn mọi sự trong tương quan tới các ẩn dụ hoặc các ký hiệu
có tính văn học hay văn chương, được kết liền nhau để tạo thành
những phát biểu có ý nghĩa.
Trước những vận động ấy, người ta có cảm tưởng rằng triết học bị
“rúng động tận tâm can” bởi những lời phê phán rất gay cấn và
những đòi hỏi tái thông giải công tác cho nó. Nhưng, như chúng
ta sẽ thấy, cảm tưởng ấy không chính xác.
II. Trợ thủ thời đại
Ðối với những người tới với triết học vào cuối thập niên 1950,
ít ra trong các phân khoa đại học tập trung trên truyền thống
phân tích mang bản sắc Anh - Mỹ, công tác và phạm vi của triết
học tuy hạn hẹp nhưng chính xác. Vẫn bị khống chế bởi trường
phái phân tích ngôn ngữ học, triết học nhắm tới việc khảo sát
những câu “có vấn đề”, và bằng cách giải thích chúng, nó làm
sáng tỏ ý nghĩa của chúng.
Triết học lúc ấy không khao khát cống hiến thông tin mới mẻ cho
mọi chủ đề. Nó tự thấy mình là một trợ thủ thiết yếu cho mọi đề
tài khác thay vì chỉ có nội dung mang tính chủ đề của chính nó.
Ðây là sự mở rộng nhất các giới hạn bị áp đặt trên lãnh vực đảm
trách của triết học. Kể từ lúc đó, triết học tăng trưởng cả
trong tính đại chúng cùng phạm vi lẫn sự thích đáng của các đề
tài được nó bao gồm.
Ðạo đức học ứng dụng
Phần lớn sự biến đổi ấy đến trước tiên trong phạm vi đạo đức học
ứng dụng. Trong thời phân tích ngôn ngữ học, mọi sự đặt trọng
tâm lên tính cách ý nghĩa hay vô nghĩa của các mệnh đề đạo đức,
nhưng giờ đây, từ khu vực chức nghiệp và doanh nghiệp nảy sinh
một chuỗi các vấn nạn rất thực tiễn. Và chúng đòi hỏi triết học
phải đáp ứng bằng những hướng dẫn đạo đức.
Vấn nạn về bản tính của tâm trí giờ đây trở thành thích đáng,
đòi hỏi phải gấp rút giải quyết vì công nghệ thông tin và sự
phát triển trí tuệ nhân tạo cùng tiến trình thiết kế điện não
thay cho nhân não.
Trên không gian rộng lớn và thường nhật, sinh hoạt chính trị
quốc tế vật lộn với các khái niệm như thể chế dân chủ, dân chủ
xã hội, quyền con người, quyền tự quyết, đặc thù văn hóa bản
địa, chủ quyền quốc gia, v.v. nhằm định hướng và biện minh cho
hành động hay không hành động trong các cuộc khủng hoảng đa dạng
trong mỗi quốc gia, khu vực hay toàn cầu.
Khía cạnh triết lý của mỗi vấn đề
Triết học chính trị do đó ngày càng thích đáng hơn cho nghị
trình nhân văn. Các chủ đề liên quan tới triết học nghệ thuật
như kiểm duyệt, bản quyền, làm sao phân biệt giữa nghệ thuật có
tính nhục cảm và sản phẩm khiêu dâm, cái gì lập thành “khiếu
thẩm mỹ tinh tế” hoặc “lăng nhục nghệ thuật”.
Thêm nữa là bản tính của sự phô diễn nghệ thuật, các tiêu chuẩn
và tính chất thích đáng của đủ thứ giải thưởng nghệ thuật như
Nobel, Oscar, Emmy, v.v. Bên cạnh đó còn có các định chuẩn cho
cuộc tranh luận bùng lên khi một số nghệ sĩ tạo ra những hình
ảnh một đằng gây hứng khởi cho những người khác, còn một đằng
lại bị một số người muốn nghiêm cấm.
Cũng không kém phần thích đáng cho những tranh cãi pháp lý về
chủ quyền đối với tài sản trí tuệ, về người nào trả tiền nhuận
bút và bản quyền, hoặc về việc nên đòi hỏi bản quyền trên ý
tưởng hay trên chữ viết. Nhận thức xã hội mang theo với nó các
chủ đề nữ quyền và chủng tộc, sự bất bình đẳng và tính năng động
của thị trường tự do. Và căn bản lập luận cũng như đằng sau câu
trả lời cho những vấn đề ấy luôn luôn tiềm ẩn một quan điểm về
khía cạnh triết học của nó.
Sự xuất hiện internet với mạng lưới toàn cầu cùng các trang web,
các trang nhật ký blog, điện thoại di động đa chức năng, kéo
theo một loạt vấn đề về tự phô diễn, quyền của cá nhân và các
giới hạn can thiệp của xã hội hay quốc gia, kiểm soát quốc tế,
sự lạm dụng, bóc lột hay bản tính của truyền thông đại chúng.
Vai trò và ảnh hưởng của các cá nhân blogger bên cạnh các hệ
thống truyền thông đại chúng bị khống chế bởi guồng máy cai trị
hay các tập đoàn kinh doanh. Và còn nữa.
Trong một thế giới có vẻ ngày càng thu hẹp với vận tốc chuyển
động mỗi lúc một nhanh thì sự thể hình như hóa ra phức tạp hơn,
và có điều gì đó rất cấp bách, cần tới sự đóng góp của triết
học. Do đó, triết học bị buộc phải bước ra ngoài tầm công tác
đơn thuần xác minh ý nghĩa từng có thời bị giới hạn theo truyền
thống phân tích. Nhu cầu ấy mỗi lúc một gia tăng, thậm chí vượt
quá phạm vi hiển nhiên của đạo đức học, khiến cho triết học ngày
càng trở nên “ứng dụng”.
III. Phân tích một bản thống kê
Vào tháng Tư năm 1999, tạp chí American Philosophical
Quaterly (Quí san Triết học Hoa Kỳ) cho in một bài có nhan
đề “The State of Philosophy today” (Tình trạng triết học
ngày nay), duyệt lại danh mục trong The Philosopher’s Index
(Bản mục lục triết gia). Ðó là một điều nghiên về các đề tài và
các mối quan tâm của khoảng 12.000 triết gia chuyên nghiệp đang
hoạt động tại Bắc Mỹ.
Phân tích bản mục lục ấy, người ta thấy rằng số lượng các đề tài
quan tâm trong khoa học và tôn giáo hầu như ngang nhau, và rằng
siêu hình học, từng có thời bị người duy khoa học chủ nghĩa hăm
dọa xua đuổi, nay vẫn thịnh đạt.
Các ý tưởng thực chứng chủ nghĩa hoàn toàn thất bại, không có
bất cứ tác động nào lên các mối quan tâm vẫn sống dai dẳng trong
các chủ đề về giá trị và đạo đức. Thật thế, đạo đức học, theo
bản mục lục ấy, là phạm trù đơn lẻ và lớn rộng nhất trong quan
tâm triết học. Chủ nghĩa hậu hiện đại cũng hoàn toàn thất bại,
không gây được ảnh hưởng nào lên triết học truyền thống mà trong
đó dường như đang có sự cân bằng ngang ngửa giữa các lối tiếp
cận thuần lý thuyết và ứng dụng.
Liên quan tới sự phân chia truyền thống giữa hai trường phái Anh
- Mỹ và lục địa, dường như có sự quan tâm nhiều hơn tới các
triết gia châu Âu, đặc biệt Hegel, Husserl, Heidegger và
Nietzsche thay vì lối tiếp cận mang tính phân tích như của
Russell hoặc Quine. Tuy thế, phương cách làm triết học càng ngày
càng dùng tới lối tiếp cận có tính phân tích, nghĩa là nhìn vấn
đề với tính cách luận lý học và ngữ học, thậm chí khi ứng xử với
các nhà tư tưởng lục địa.
Những phân tích trên dựa vào việc phân loại theo chủ đề các bài
viết triết học trong bản mục lục ấy: đạo đức học ở trên đỉnh
(32), tiếp đến là siêu hình học (24), triết học khoa học (16),
triết học chính trị (15), triết học tôn giáo (14), luận lý học
(14), triết học xã hội (12) và ngôn ngữ (10).
Dĩ nhiên danh mục ấy chỉ cung cấp một chỉ dẫn rất sơ sài về tính
đại chúng, và một số đề tài có thể được xếp loại theo các cách
thức khác nhau, nhưng nó cũng cho thấy rõ rệt hai lãnh vực có
tầm quan trọng rộng lớn: một là triết học ứng dụng trong phạm vi
đạo đức học, xã hội và chính trị; hai là những vấn nạn về bản
tính của thực tại, của các niềm tin và của ngôn ngữ.
Xét theo tổng thể, bản nghiên cứu ấy cho ta ấn tượng rằng tuy
triết học đã thừa nhận nhiều phong trào tư tưởng của thế kỷ 20,
nhưng khu trung tâm của nó trong các vấn đề lớn lao và truyền
thống vẫn còn nguyên vẹn và vẫn được nhiều người ưa chuộng.
IV. Cánh cửa rộng mở!
Có một khuynh hướng thời thượng thường cho rằng đây là thời buổi
hậu hiện đại. Thật ra, lối nói ấy mang tính cảm khái, vì cho tới
nay, hậu hiện đại chủ nghĩa là một phong trào hơn là một triết
thuyết có hệ thống. Như đã trình bày ở một phần trên, hậu hiện
đại chủ nghĩa tạo được ảnh hưởng rộng rãi trong kiến trúc, hội
họa, một số ngành mỹ thuật khác hơn trong văn học và đặc biệt
trong triết học. Hơn nữa, lối nói thời hiện đại và thời hậu hiện
đại chỉ có tính khuynh hướng, không liên quan tới thời tính và
không hàm ý đã qua rồi thời hiện đại, nay đang bắt đầu thời hậu
hiện đại. Bên cạnh đó, không thiếu ý kiến cho rằng thời hiện đại
chưa chấm dứt vì nó chưa đạt mục tiêu và hoàn thành kỳ vọng được
ấp ủ từ Thời Khai sáng.
Tháng 12 năm 1999, từ New York, Hoa Kỳ, triết gia Paul Kurzt,
Giáo sư danh dự Ðại học Buffallo, chủ tịch Hiệp hội Nhân bản
Quốc tế, cho lưu hành Humanist Manifesto 2000: A Call for a
New Planetary Humnaism, với chữ ký tán trợ của hàng trăm trí
thức hàng đầu trong nhiều ngành khoa học, văn học và triết học
trên khắp thế giới (bản dịch của Nguyễn Ước, Hiến chương nhân
bản 2000: Lời kêu gọi một chủ nghĩa nhân bản toàn cầu mới,
website talawas, 29.03.2003).
Ðây là Bản Hiến chương thứ 3, tiếp theo tinh thần của hai bản
trước được công bố năm 1933 và năm 1972. Trong bản năm 2000 này,
Kurzt đề cập tới thực tại của thế giới ngày nay và đáp ứng của
chủ nghĩa nhân bản – cũng được hiểu là đáp ứng của triết học –
như sau:
“Tuy thế, khi thế giới thành một gia đình toàn cầu thì những đối
thủ mang tính tôn giáo và sắc tộc đã và đang tìm cách phân chia
lãnh thổ thành những phe phái tranh đoạt. Các tôn giáo bảo căn
đang nhen nhúm, phản bác những nguyên tắc của chủ nghĩa nhân bản
cùng chủ nghĩa thế tục và đòi hỏi trở về lòng sùng đạo của kỷ
nguyên tiền hiện đại.
“Cũng thế, cái gọi là niềm tin huyền bí Thời đại Mới đang xuất
hiện, được khuyến khích bởi truyền thông đại chúng và dai dẳng
khuyến mãi một cái nhìn tâm linh/siêu linh về thực tại.
“Truyền thông được toàn cầu hóa. Vô tuyến truyền hình, vô tuyến
truyền thanh, điện ảnh và các nhà xuất bản sách báo, đều đang bị
khống chế bởi các đại tổ hợp công ty truyền thống vốn hầu như
chỉ quan tâm tới việc quảng cáo và bán hàng cho thị trường thế
giới.
“Thêm vào đó, trong nhiều trường đại học đã và đang xuất hiện
chủ nghĩa hậu hiện đại, thắc mắc những tiền đề căn bản của phẩm
chất hiện đại và của chủ nghĩa nhân bản, tấn công khoa học và kỹ
thuật, chất vấn các lý tưởng và các giá trị nhân bản.
“Nhiều kiến thị hiện nay về tương lai mang tính bi quan, thậm
chí, tận thế. Nhưng chúng tôi phản đối vì chúng tôi tin rằng có
khả năng tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Các thực tại toàn cầu
là như thế nên phải có Chủ nghĩa Nhân bản Toàn cầu mới có thể
cung cấp những định hướng có ý nghĩa cho tương lai.” (Bản của
NXB Tạp chí Người Việt Hải Ngoại, Vancouver, Canada,
2002, tt 10-11)
Không nghi ngờ gì nữa, sau khi bước qua ngưỡng cửa của thế kỷ
21, triết học như một môn học vẫn sống, sống sung sức và rõ ràng
nó càng ngày càng thích đáng hơn. Có lẽ câu nói cuối cùng nên để
dành cho nhà toán học và là triết gia duy tâm chủ nghĩa người
Anh vào đầu thế kỷ 20. Trong cuốn Modes of Thoughts (Các
kiểu mẫu tư tưởng, 1930), Alfred Whitehead (1861-1947) đề ra rất
rõ ràng giá trị toàn bộ sự nghiệp triết học của loài người:
“Loại ý tưởng mà chúng ta tham dự, loại ý tưởng mà chúng ta đẩy
cho thâm nhập vào một bối cảnh không đáng kể, tác động và chi
phối các niềm hy vọng của chúng ta, các nỗi sợ hãi của chúng ta,
sự kiểm soát động thái của chúng ta. Khi chúng ta suy tư, chúng
ta sống. Ðó là lý do một loạt các ý tưởng triết học thì hơn
nghiên cứu của một nhà chuyên môn. Nó đúc thành kiểu văn minh
của chúng ta”.
Nếu đúng như lời nói của Kurzt và Whitehead, dù chúng xuất hiện
cách nhau 70 năm trong thời đại có những đổi thay chóng mặt, thì
không có gì quan trọng hơn việc triển khai và duy trì mối quan
tâm vào triết học.n
Nguyễn Ước
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|