Bàn về phẩm tính
I. Giác quan và thông tin
II. Nhận thức và tưởng tượng
III. Truyền thống duy nghiệm
IV. Ý nghĩa của phẩm tính
V. Tóm lược
1. Nếu không có giác quan
Kinh nghiệm người lành mạnh
Thật không dễ tưởng tượng rằng đối với người mù bẩm sinh, thế
giới này giống như cái gì. Nếu bỗng dưng bị lâm cảnh tối mịt
mùng, chúng ta chỉ có thể dò dẫm từng chút một cho tới khi mắt
kịp thời điều chỉnh, quen dần với bóng tối. Nhưng đó chỉ là kinh
nghiệm rất hữu hạn của một người sáng về cơ quan thị giác. Một
số người quả quyết rằng cùng ở trong hoàn cảnh đen như mực ấy,
người mù bẩm sinh, thông qua các giác quan khác, hình thành được
những hình ảnh về thế giới thích đáng hơn người sáng.
Tuy thế, cũng phải công nhận rằng người mù bẩm sinh không thể
nào có cảm giác về cái đẹp giống như người sáng đang chiêm
ngưỡng quang cảnh mặt trời mọc trên mặt biển, ráng chiều “không
thắm không vàng vọt”, say sưa ngắm màu sắc xanh tươi mơn mởn của
mùa xuân hoặc “rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” hay mơ màng
nhìn theo “áo lụa Hà Ðông”.
Ðể hiểu thế giới
Tiếp đến, một người bẩm sinh thiếu cả năm giác quan vẫn có khả
năng sống nhưng có lẽ chẳng chút am hiểu nào về thế giới. Giống
như Robinson Crusoe, nhân vật của nhà văn Anh *Daniel Defoe
(1660-1731) trong cuốn tiểu thuyết cùng tên, người ấy có thể
sống trên một hoang đảo, cô lập với mọi sự.
Nhưng khác với Robinson, người ấy không sở hữu ký ức cùng khả
năng cảm nhận ngoại tại, còn gọi là cảm quan (sensation). Ngoại
trừ những cảm giác bên trong con người mình, người ấy có thể
không có thế giới và có thể không biết chút nào về thế giới đang
được chúng ta đang ra sức am hiểu. Ðối với người ấy, thế giới
ngoại tại (external world) không hiện hữu.
2. Nhận thức qua giác quan
Nguồn của tri thức
Hết thảy những điều vừa kể hẳn đủ để chứng minh rằng tri thức về
thế giới đến với chúng ta qua các giác quan, và nó bắt đầu với
sự trải nghiệm các phẩm tính (the experience of qualities).
Chúng ta biết thế giới qua năm giác quan: thấy, nghe, ngửi, nếm
và sờ. Mỗi giác quan được chuyên biệt hóa theo thông tin nó
chuyển tải. Tôi không thể nhận biết màu sắc bằng tai hoặc âm
thanh bằng mũi. Ðôi khi các giác quan khác nhau cùng nhau thao
tác, thí dụ thị giác và xúc giác kết hợp nhau để cho bạn ý tưởng
về khoảng cách; nhưng phần lớn, chúng thao tác riêng rẽ; người
thiếu một giác quan có thể thiếu loại thông tin mà giác quan ấy
có chức năng cung cấp.
Diễn dịch chuyên biệt
Mỗi giác quan có những giới hạn hợp với chất liệu và điều kiện
vật lý của nó. Mắt con người có thể diễn dịch các bước sóng
thành các màu sắc được biểu hiện trong quang phổ nhưng nó không
thể vượt quá những giới hạn đó. Khi mắt không bình thường, ta
không thể trải nghiệm một số màu sắc nhất định.
Cũng người cho rằng họ có thể nhờ xúc giác cảm nhận độ nóng của
màu sắc để phân biệt chúng; nếu quả có khả năng ấy thì có lẽ đó
cũng chỉ là năng khiếu rất đặc thù của một vài cá nhân, khó có
thể chứng minh bằng khoa học để rút ra nguyên lý phổ quát.
Có thể xảy ra hiện tượng người này người kia có những hình ảnh
rất khác nhau về thế giới ngoại tại, vì giác quan của mỗi người
là nguồn thông tin duy nhất và hiệu ứng của chúng biến thái tùy
theo người này người nọ. Tuy thế, cũng khá lạ lùng là dường như
hiện tượng ấy không xảy ra cho những người bình thường trong
những điều kiện bình thường.
II. Nhận thức và tưởng tượng
1. Một số đối chiếu
Ngó vậy không phải vậy
Kinh nghiệm giác quan và tưởng tượng có nội dung giống nhau, tuy
thế vẫn khác nhau. Chúng ta có thể tưởng tượng một bông hồng và
chúng ta có thể nhận thức một bông hồng, nhưng trong những hoàn
cảnh bình thường, chúng ta không lẫn lộn bông hồng tưởng tượng
với bông hồng nhận thức. Bông hồng trong trí tưởng thì khác với
bông hồng cầm trên tay trong ngày lễ tình nhân.
Ðối tượng của nhận thức (perception) có phẩm tính mang tính
cưỡng bách mà các đối tượng của tưởng tượng (imagination) không
thể có. Nếu chúng ta là người sáng mắt và có phản quang phù hợp
thì khi mở mắt chúng ta bị bắt buộc phải thấy các phẩm tính nhất
định. Bạn không thể không thấy trang giấy trắng hoặc hơi vàng có
các dòng chữ màu đen này trước mắt bạn.
Cưỡng bách và không cưỡng bách
Chiều nay, tôi có cuộc hẹn hò đi chơi vùng ngoại ô với người
yêu. Mở cửa bước ra đường, tôi ao ước thấy bầu trời cao xanh
thẳm thơ mộng nhưng chẳng may trước mắt tôi, trời sắp “sa mưa
giông” nên mây xám vần vũ như đè xuống thật thấp. Tôi không thể
không “nhận thức” các đám mây ấy.
Tuy thế, đối với tưởng tượng thì lại khác. Không có giới hạn nào
cho tưởng tượng vì đó là cõi mà cá nhân có thể mơ mộng, có thể
vẽ vời bất cứ cái gì nó ao ước. Không thú vị cái này nữa, tôi
mường tượng ra cái khác. Trong tưởng tượng, đối tượng thiếu tính
cưỡng bách như trong nhận thức. Tôi có thể tưởng tượng cây hoa
sứ nhà nàng thắm tươi mơn mởn, nhưng khi có dịp về Huế ghé thăm
nàng, chẳng may gặp lúc giữa trưa mùa hạ, tôi không thể không
thấy những bông hoa của nó đang se mình trong nắng.
Trở lại với buổi chiều hò hẹn. Vào lúc này, mặt trời đã biến
mất, bầu trời đen kịt và mưa bắt đầu rơi những giọt đầu tiên. Ðó
là cái tôi đang nhận thức. Tôi chẳng thích nó chút nào nhưng
chừng nào nó còn liên quan tới nhận thức của tôi thì tôi hoàn
toàn bất lực về nó, không cách gì tác động lên nó.
Tuy thế, cũng ngay lúc ấy tôi có thể nhắm mắt, tưởng tượng bầu
trời xanh lơ với ánh nắng vàng lung linh tỏa xuống với tiếng
chim hót líu lo. Tôi lại có thể mường tượng mình đang nắm tay
người yêu đi tung tăng trong nắng vàng, giữa tiếng chim ca, dưới
bầu trời xanh vời vợi ấy, ở Gia Lâm hay Thủ Ðức, tuy tôi không
thật sự tin rằng hai đứa đang ở trong khung cảnh đó. Và tôi chắc
chắn một trăm phần trăm rằng trời lúc này đang mưa.
Tương quan với ý chí Tôi
không lẫn lộn nhận thức của mình với tưởng tượng của mình, và
tôi hoàn toàn tin rằng nhận thức của tôi đang cho tôi một hình
ảnh đáng tin hơn về hoàn cảnh lúc này của mình.
Một số triết gia lập luận rằng vì đối tượng của tưởng tượng tùy
thuộc ý chí của chủ thể (subject) trong khi đó đối tượng của
nhận thức độc lập với ý chí của chủ thể; nó là khách thể
(object). Ðối tượng (khách thể) của nhận thức phải thuộc về thế
giới có thật, hoàn toàn độc lập với người nhận thức (perceiver).
Viện dẫn người khác
Việc qui phẩm tính cho các đối tượng ngoại tại và độc lập dường
như được chứng minh bằng tường trình của người khác. Chúng ta kỳ
vọng người khác, từ những tường trình giống nhau về màu sắc,
chứng thực cho ấn tượng của chúng ta về một đối vật có màu đỏ
trong thế giới ngoại tại. Khi tôi bảo với bạn rằng viên phấn này
màu đỏ có nghĩa tôi đang kỳ vọng bạn đồng ý với tôi vì bạn cũng
thấy nó có màu đỏ.
Nếu người khác không đồng ý như thế, chúng ta buộc lòng phải giả
định rằng mình đang sai lầm hoặc kẻ đó đang nhìn đối tượng khác
hoặc kẻ đó không có khả năng nhận thức màu đỏ. Sự chứng thực của
người khác rất phổ biến tới độ chúng ta cảm thấy không ngần ngại
xét lại hoặc điều chỉnh kinh nghiệm của mình.
Niềm tin cụ thể
Dĩ nhiên có yếu tố đức tin trong sự chứng thực hỗ tương ấy vì
bạn không thể nhìn vào ý thức của tôi để so sánh sự đúng sai của
các ý tưởng khác nhau được gọi là “đỏ”. Rất có thể cái người này
gọi là “đỏ” không giống với cái người kia gọi là “đỏ” tùy vào
vấn đề ý tưởng của mỗi bên liên quan tới vật đó ngang mức nào.
Tuy thế, sự kết hiệp liên tục và bất biến các ý tưởng về những
đối tượng giống nhau trong thế giới ngoại tại khiến cho vấn đề
đó có tính lý thuyết hơn thực tế.
Dù sao đi nữa, người ta hầu hết đều tin rằng các phẩm tính thì
hiện hữu trong thế giới ngoại tại và chúng có thể được chứng
nghiệm (experience) bởi những con người khác nhau bằng một cung
cách khiến ta tin rằng các tường trình của họ không hoàn toàn có
tính cá nhân hoặc chủ quan.
Chiêm bao và ảo giác
Ðôi khi chúng ta bối rối về phẩm tính mà mình trải nghiệm
(experience) vì dường như nó không chỉ rõ một đối vật đang hiện
hữu. Cảm giác mà chúng ta trải nghiệm khi nằm mơ thì có thật,
thật không kém những trải nghiệm ta từng có khi đang thức. Tuy
thế chúng ta không tin rằng người ta hành động hoặc các biến cố
hiện hữu đúng y như trong giấc mộng. Bạn có từng sợ toát mồ hôi
khi nằm thấy ác mộng rồi mừng hú hồn hú vía khi choàng tỉnh?
Thi sĩ Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939) đã phân biệt đời và
mộng bằng hai câu thơ trong bài Nhớ mộng: “Nghĩ
đời lắm nổi không bằng mộng, Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời”.
Bạn hãy nhìn dọc theo cây sào đang cắm thuyền đợi khách dưới mé
sông kia. Bạn thấy phần ở dưới nước có vẻ cong nhưng nếu rút cây
sào lên khỏi mặt nước, bạn lại thấy phần ấy thẳng băng. Vì chúng
ta không tin rằng có một cây sào vừa thẳng lại vừa cong nên
chúng ta khẳng định rằng cây sào ấy quả thật thẳng, đồng thời ta
tìm cách giải thích tại sao nó có vẻ cong khi bị cắm một phần
khá dài xuống nước.
Chúng ta từng đọc các phiêu lưu ký trong đó có chuyện kể rằng
người đi lạc trong sa mạc có thể bị khổ sở vì nhìn thấy các ốc
đảo không hiện hữu – dù các phẩm tính được nhận thức ấy xuất
hiện theo một thứ lớp đúng y như ta trải nghiệm trong trường hợp
có thật một ốc đảo xanh tốt.
Cũng thế, vào những ngày nắng gắt, khi đi xe máy hay ngồi ô tô
xuống Hải Phòng hay Vũng Tàu, bạn có thể thấy xa xa trước mặt có
những vũng nước giữa đường nhựa khiến bạn có thể tưởng trời vừa
mới mưa rào ở đó. Nhưng khi xe càng tới gần, bạn càng thấy chỉ
toàn là đường nhựa đang bốc hơi hừng hực.
2. Phẩm tính có thật hoặc ảo giác
Có đáng tin không
Phải chăng những điều vừa kể cho thấy rằng các phẩm tính được
trải nghiệm không là nguồn thông tin đáng tin về thế giới ngoại
tại? Nếu chúng không đáng tin, làm thế nào chúng ta phân biệt
phẩm tính thật sự thuộc về các đối tượng và phẩm tính chỉ có vẻ
như thuộc về chúng?
Thông thường, người ta đồng ý rằng có nhiều cách xác minh một ấn
tượng, hoặc bằng sự chứng thực của người khác hoặc bằng một số
phương cách xác minh liên quan tới các giác quan khác, hoặc cũng
bằng giác quan ấy nhưng vào thời điểm khác.
Thật thì cố kết
Có giả định rằng các phẩm tính thật thì cố kết (cohere) nhau –
nghĩa là kết lại thành một toàn bộ vững chắc – và có thể khảo
sát chúng vào những thời điểm khác, từ những điểm nhìn khác,
bởi cũng một chủ thể ấy hoặc bởi người khác. Ngược lại, các phẩm
tính ảo thì không thể kiểm tra như thế.
Giấc mộng được nhận ra “chỉ là mơ thôi” vì chúng không phù hợp
với khung khổ tổng quát của kinh nghiệm khi chúng ta ngủ; chúng
thiếu tính liên tục và thường bao gồm nhiều sự kiện, thí dụ trôi
nổi bềnh bồng trong không khí, và như thế, nó không phù hợp với
kinh nghiệm tổng quát của chúng ta.
Thật thì trải nghiệm được Có
thể dùng một số cách kiểm tra khác nhau để chứng minh cây sào ấy
quả thật thẳng, có thể kiểm tra ốc đảo hoặc vũng nước trên mặt
đường nhựa bằng việc đi tới nơi nó có vẻ như hiện hữu hoặc viện
dẫn chứng cớ xác nhận của các giác quan khác, thí dụ đưa tay sờ.
Như thế, cần ghi nhận rằng các kiểm tra ấy, nếu đúng, cũng như
bất cứ kiểm tra nào khác, cũng đều có thể được gợi ra từ các giả
định nhất định về bản tính của thực tại, thí dụ sự xác tín rằng
những kinh nghiệm có được từ một thế giới có thật thì cố kết
nhau.
3. Phẩm tính và tri thức
Biết nhờ phẩm tính
Tri thức (knowlegde) của chúng ta về thế giới bắt đầu bằng sự
nhận biết các phẩm tính. Ðiều ấy hẳn có ý nói rằng chúng ta chỉ
có thể biết một vật khi chúng ta nhận thức được hết thảy các
phẩm tính của nó.
Không đúng. Thật ra, hầu hết phán đoán của chúng ta về đối tượng
nhận thức đều dựa trên sự nhận biết một ít phẩm tính của nó mà
thôi.
Thí dụ minh họa
Vừa từ vĩa hè đặt chân xuống lòng đường, một bên mắt tôi bỗng
thấy loang loáng một màu cứt ngựa mà tôi thông giải đó là một
chiếc xe nhà binh đang phóng tới. Nếu ước đoán ấy chính xác,
được thực tế xác nhận, tôi sẽ chú ý tới thông tin đó và nhảy lùi
lại, đứng hẳn trên vĩa hè, vì nếu không làm như thế, có thể tôi
sẽ bị chiếc xe ấy đâm phải.
Một thiếu nữ đang ở trong phòng ngủ nhà mình, đã mặc sẵn quần
áo, ngồi chờ. Bỗng vang lên một chuỗi âm thanh “phi thường”.
Người khác có thể thông giải đó là những tiếng rú nghèn nghẹt
tức tưởi của ai đó hay tiếng nổ dòn như sấm báo hiệu trời sắp
mưa, nhưng đối với cô, cô thông giải đó là người bạn trai sinh
viên nghèo của cô đang tới gần, trên chiếc xe máy cà tàng bể ống
khói, để đón cô đi nghe nhạc thính phòng tối nay.
Không độc lập với tâm trí
Người duy tâm chủ nghĩa quả quyết nhu cầu thông giải gây nên giả
định sai lầm rằng phẩm tính hiện hữu độc lập với chủ thể nhận
thức và chúng được tiếp nhận một cách thụ động như thể tâm trí
là chiếc máy quay phim hoặc chụp hình. Lời phát biểu ấy về thế
giới bao hàm hoạt động của tâm trí trong việc thông giải và phán
đoán cái được ghi nhận.
Nếu tâm trí đóng vai trò thiết yếu trong việc quyết định bản
tính của vạn vật thì rất có thể sai khi nói – như chúng ta từng
nhắc tới ở một đoạn trên – rằng chúng ta chỉ nhận được tri thức
về thế giới thông qua các giác quan. Tại sao Huy Cận (1919-2007)
lại có thể nhận thức: “Thức dậy, nắng vàng ngang mái nhạt, Buồn
gieo theo bóng lá đong đưa” (Giấc ngủ chiều). Hay nàng
Kiều thấy như thật rằng “Vầng trăng ai xẻ làm đôi. Nửa in gối
chiếc, nửa soi dặm trường”.
Chắc chắn có trường hợp các phẩm tính nhận thức qua giác quan
chỉ được xem là những dấu hiệu; sự khác biệt giữa người này với
người nọ đưa tới những thông giải khác nhau về chúng.
Thời Pháp thuộc, cùng nhìn lá cờ tam tài ba màu xanh trắng và đỏ
bay phất phới, đám tây thuộc địa cảm thấy hãnh diện vì vinh
quang của mẫu quốc, còn người Việt yêu nước cảm thấy sục sôi căm
thù sức mạnh đô hộ của thực dân đế quốc. Cảm giác của người nhìn
cũng có thể thay đổi tùy theo sự sắp xếp vị trí của màu sắc, thí
dụ hai lá quốc kỳ của Nga và Pháp hiện nay đều cùng mang ba màu
ấy nhưng được bố trí theo thứ tự khác nhau.
Tùy thuộc thông giải
Các nốt nhạc nhất định được sáng tác theo những cách thức nhất
định khi tấu lên sẽ làm cho đám người này háo hức giật gân, chỉ
muốn dậm chân nhảy múa, trong khi đám người khác nghiến rằng tức
tối tưởng chừng điệu nhạc ấy đang trêu tức mình. Cũng có thể đan
cử tiếng nhạc quân hành trong một ngày đảo chánh tạo ra những
cảm xúc khác nhau trong hai phe đối nghịch. Cùng một quang cảnh
dập dìu yến oanh ấy mà sao với Thúy Kiều thì “Người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ!”
Trong những thí dụ vừa kể, thật khó nhận rõ cách mà tự thân phẩm
tính có thể giải thích các phản ứng khác nhau hoặc chỉ cho thấy
cái gì đó trong thế giới ngoại tại tương ứng với cảm xúc phát
sinh từ nó. Nếu các phẩm tính lệ thuộc vào thông giải theo cách
ấy, làm thế nào chúng ta có thể bảo rằng chúng chẳng bao giờ lệ
thuộc vào thông giải. Liệu chúng ta có thể đoan chắc rằng bất cứ
cái nào hiện hữu cũng đều quả thật tương ứng với các phẩm tính
mà chúng ta qui cho trải nghiệm?
4. Các phẩm tính cấp ba
Nếu bạn yêu cầu người ta cho biết họ ngụ ý gì khi dùng từ ngữ
“phẩm tính”, rất có khả năng họ hầu hết sẽ chỉ tới các vật thí
dụ có màu đỏ, vị ngọt, cứng, v.v. Nếu hỏi thêm nữa, hẳn họ sẽ
thừa nhận rằng mọi phẩm tính đều riêng biệt mặc dù ta thấy chúng
đang kết hợp nhau. Họ hẳn cũng sẽ đồng ý rằng mỗi phẩm tính được
trải nghiệm bằng một giác quan riêng biệt. Tuy thế, không phải
mọi phẩm tính đều được xử lý như thế.
Không xác định được cách biết
Người ta thường nói tới các phẩm tính tổng quát, thí dụ phiền
muộn và hạnh phúc khi đề cập tới một kẻ đang sung sướng hoặc
buồn bã. Người khác có thể làm chứng cho sự đánh giá ấy giống
như có thể chứng thực ấn tượng của chúng ta rằng kẻ đó da đen
hoặc da vàng. Nhưng bằng giác quan nào chúng ta trải nghiệm các
phẩm tính ấy?
Nếu tôi nói rằng bông hồng này đẹp hoặc hành động ấy tốt lành,
tức là tôi đang phát biểu về phẩm tính, nhưng tôi không thể xác
định bằng cách nào tôi tiếp nhận thông tin ấy. Thông thường,
người ta gọi các phẩm tính tổng quát ấy là phẩm tính cấp ba, để
phân biệt chúng với phẩm tính cấp một và phẩm tính cấp hai mà
chúng ta sẽ thảo luận sơ qua ở phần dưới.
5. Các giới hạn của giác quan
Dù đồng ý phẩm tính là thành tố quyết định trong tri thức của
chúng ta về thế giới ngoại tại, chúng ta cũng phải chấp nhận
rằng những thông tin được tiếp nhận như thế có khả năng sai. Các
giác quan của chúng ta dứt khoát là bị giới hạn và cho dẫu chúng
có phối hợp với nhau tốt tới mấy đi nữa, chúng ta cũng không thể
tuyên bố rằng mình đang có đầy đủ thông tin về thế giới.
Có những âm thanh chó và chim có thể nghe nhưng con người không
thể nghe. Một số loài vật hình như có thể phân biệt nhiệt độ cao
thấp tinh tế hơn chúng ta. Báo cáo về các trận động đất cho thấy
thú vật có khả năng cảm nhận trước, sớm hơn con người. Chúng ta
biết rằng quang phổ – thể hiện những bước sóng mà chúng ta có
thể trải nghiệm thành màu sắc – là sự chọn lựa rất hạn chế trong
tổng số sóng dàn trải ra bên ngoài các cạnh của nó.
Bằng mắt thường, chúng ta không thể thấy tia X hoặc tia vũ trụ
vì chúng ta không có khả năng chuyển chúng thành màu sắc. Có thể
loại hữu thể khác, với con mắt thích đáng hơn, thấy những cái mà
đối với chúng ta là vô hình. Các chuyên gia trang trí nội thất
đều biết rằng màu sắc có thể biến đổi nếu chúng ta bố trí chung
quanh nó một số màu sắc khác. Giả dụ mắt của chúng ta có khả
năng thấy quá bên kia độ sáng của quang phổ, liệu các màu sắc có
còn mang vẻ bên ngoài đúng như chúng đang mang hiện nay? Không
một ai biết chắc.
6. Các phẩm tính cấp một và cấp hai
Ngang đây, chúng ta cứ coi như phẩm tính lệ thuộc vào thế giới
ngoại tại và chúng cho ta thông tin về thế giới đó. Quan điểm ấy
thường được xem là hiển nhiên vì đó là ý kiến chung, nó giúp
chúng ta dễ dàng hiểu thế giới ngoại tại hơn và nó đã trở thành
truyền thống.
Quan điểm cổ đại
Thế nhưng, trong lịch sử triết học, có một chủ trương cũng lâu
đời không kém, cho rằng không phải cứ xem như hiển nhiên tức là
đã giải quyết xong vấn đề nhưng cần phải xem xét các chứng cớ
hậu thuẫn cho truyền thống đó. Triết gia cổ đại Hi Lạp
Democritus và các môn đệ của ông vạch ra sự phân biệt rõ ràng
giữa các nguyên tử làm thành vạn vật và các phẩm tính thâm nhập
chúng mà chúng ta có thể nhận thức.
Họ lập luận rằng các phẩm tính gắn liền với năm giác quan hoàn
toàn không thuộc về đối tượng (khách thể); chúng hoàn toàn thuộc
về chủ thể nhận thức. Những kết hợp nhất định của và do bởi tự
thân các nguyên tử không có bất cứ phẩm tính nào ngoại trừ kích
cỡ, hình dáng và trọng lượng; chúng khiến cho tâm trí của người
nhận thức phát sinh ý tưởng có vẻ như thể đối tượng sở hữu phẩm
tính, trong khi thực tế thì không như thế.
Quan điểm hiện đại
Gần 2.000 năm sau, Galileo chấp nhận lý thuyết ấy về phẩm tính
vì ông cho rằng trong thực tế, khoa học chỉ quan tâm tới tương
quan của các đối tượng trong không gian và thời gian trong chừng
mực có thể đo lường chúng, và rằng hầu hết các phẩm tính đều
không là đối tượng và không liên quan tới các thẩm tra khoa học.
Ảnh hưởng của Galileo trong khoa học khiến cho lập trường ấy có
ảnh hưởng lâu dài, tới tận kỷ nguyên Newton. Ðối với những người
theo thuyết Newton, ta chỉ có thể thật sự qui cho đối tượng các
phẩm tính đo lường được, thí dụ kích cỡ và hình dạng; mọi phẩm
tính khác không thuộc về đối tượng mà thuộc về người tri giác.
Triết gia và nhà hóa học Ái Nhĩ Lan *Robert Boyle (1627-1691)
đánh dấu sự tách biệt ấy bằng việc phân loại các phẩm tính thành
hai nhóm tổng quát, còn gọi là hai cấp. Nhóm thứ nhất tức cấp
một, được định nghĩa gồm những phẩm tính thật sự thuộc về khách
thể và là đối tượng của đo lường; nhóm thứ hai tức cấp hai bao
hàm hết thảy các phẩm tính khác.
III. Truyền thống duy nghiệm
1. John Locke
Ðề tài không tương hợp
Trong khi hội họp thảo luận với một nhóm bạn hữu, triết gia Anh
John Locke nhận thấy rằng đối với một số chủ đề, người ta quả
thật khó có thể đạt tới bất cứ sự đồng thuận nào. Lý do không
phải vì thành kiến hoặc sự ngoan cố của người tham gia thảo luận
nhưng đúng hơn, nó dường như phản ánh những nan giải của tự thân
vấn đề.
Sự kiện ấy gợi cho Locke ý nghĩ rằng có những đề tài không thể
đưa tới kết luận thỏa đáng vì tâm trí của chúng ta không thích
hợp để xử lý chúng. Trong cuốn An Essay Concerning Human
Understanding (Một tiểu luận về tri thức con người, 1690),
Locke viết rằng:
“Sau một lúc, mọi người đều cảm thấy bối rối vì không với tới
gần hơn một giải pháp cho những hoài nghi đang làm chúng tôi khó
xử, tôi chợt có ý nghĩ rằng mình đã tiến hành một cách sai lầm
và rằng trước khi lao mình vào các cuộc thẩm tra về bản tính đó,
việc thiết yếu đầu tiên phải làm là thẩm định khả năng của chúng
tôi và xem coi các đối tượng ấy có vừa vặn hay không với các
kiến thức mà chúng tôi đang có trong liên quan tới việc xử lý
chúng”.
Nói cách khác, không phải tầm quan trọng của chủ đề cũng không
phải nội dung của nó có khả năng chứng minh sự chắc chắn của các
lời quả quyết nếu sự chắc chắn ấy vượt quá tầm với của lý trí
con người.
Bằng cách đặt sự xem xét nguồn gốc, mức độ và giá trị hiệu năng
của tri thức con người vào vị trí tiền thẩm tra trong triết học,
Locke đã thay đổi kiểu mẫu của tư duy triết học. Kể từ thời của
Locke, hầu hết các triết gia quan tâm trước tiên tới các câu hỏi
mang tính *tri thức luận (epistemology). Lúc này chúng ta không
quan tâm tới việc đi theo Locke trong cuộc tra vấn cá biệt ấy mà
là tới những kết luận ông đã đạt được về sự dị biệt của các phẩm
tính thứ nhất và thứ nhì như một phần trong cuộc tra vấn của ông
về bản tính của tri thức và tính khả thi của nó.
Tâm trí thụ động
Locke thuộc trường phái các triết
gia được gọi là người theo *duy nghiệm chủ nghĩa (empiricism),
có nghĩa ông quả quyết rằng tri thức bắt đầu với và dựa vào
thông tin do giác quan cung cấp. Không thể có bất cứ cái gì
trong tâm trí mà trước hết nó không có trong giác quan. Có thể
giải thích kinh nghiệm giác quan bằng giả định rằng sự hiện hữu
của đối tượng bên ngoài (khách thể), thông qua giác quan, truyền
đạt tới một tâm trí (chủ thể) có khả năng tiếp nhận.
Giả định ấy có xuất xứ từ tính cưỡng bách của nhận thức. Tâm trí
phải bị động, bằng không, nó có thể làm méo mó, thương tổn thông
tin nhận được ấy, đưa tới kết quả chúng ta không bao giờ có thể
chắc chắn rằng các ý tưởng của mình quả thật tiêu biểu cho các
thực thể ngoại tại. Nói như Cao Bá Quát (1808-1855) “Ba vạn sáu
ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười!”. Hoặc
“Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!” Hoặc trong cuốn Cổ học
tinh hoa, Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942) kể chuyện có người mất
búa vì nghi ngờ anh hàng xóm ăn cắp chiếc búa của mình nên thấy
anh ta lúc nào cũng có động thái của kẻ cắp; tới khi tìm ra
chiếc búa mình để lẫn trong nhà, lại thấy anh hàng xóm mặt mũi
xưa nay hiền lành!
Vậy làm sao tương tác
Nếu chúng ta đồng ý với Locke rằng Descartes có lý khi phân biệt
rạch ròi tâm trí và thể xác thì thật khó chứng minh làm thế nào
đối tượng vật chất có thể sản sinh ý tưởng trong tâm trí. Locke
xem đó là điều phải xảy tới, một cách hiển nhiên, và ông ít để ý
tới vấn đề đó. Locke chú mục vào các điều kiện của tri thức đặt
trên cơ sở kinh nghiệm.
Do đó, ông giả định rằng có những đối tượng vật chất đang hiện
hữu bên ngoài cá nhân cũng như không thể nào lệ thuộc vào cá
nhân để hiện hữu, và rằng qua giác quan, các đối tượng ấy gởi
các tường trình về chúng tới tâm trí bị động của người nhận
thức. Các tường trình ấy được chúng ta mô tả là các ý tưởng
trong tâm trí.
Hai loại ý tưởng
Locke phân biệt ý tưởng thành hai loại: đơn giản và phức tạp. Ý
tưởng phức tạp được làm thành bởi các ý tưởng đơn giản và có thể
phân tích thành các ý tưởng đơn giản. Thí dụ ý tưởng phức tạp
“trái ổi” có thể phân tích thành các ý tưởng “vàng”, “ngọt”,
“thơm” và “tròn”.
Các ý tưởng đơn giản “vàng”, “ngọt”, “thơm” và “tròn” không thể
phân tích thành bất cứ thành phần nào tối hậu hơn, và do đó
chúng là những ý tưởng được truyền đạt trực tiếp qua các giác
quan.
Không một giác quan đơn độc nào có thể truyền đạt một ý tưởng
phức tạp, thí dụ “trái ổi”. Ý tưởng phức tạp được hình thành do
bởi tâm trí kết hợp các ý tưởng đơn giản. Không một đối tượng
ngoại tại nào có thể chỉ thẳng tới ý tưởng phức tạp; thay vào
đó, nó phải bị chiết thành các ý tưởng đơn giản để cho thấy nó
thật sự có nguồn gốc trong kinh nghiệm. Chỉ các ý tưởng đơn giản
mới chỉ thẳng tới đối tượng bên ngoài và chắc chắn chúng là các
thành tố căn bản của tri thức.
2. Kinh nghiệm có tính tương đối
Ðơn giản thì độc lập?
Vì các ý tưởng “vàng”, “thơm” và “ngọt” đến với chúng ta một
cách độc lập với ý chí của chúng ta và có khả năng chúng liên
quan tới các giác quan nhất định, nên chúng ta có thể giả định
rằng chúng có nguồn gốc ở bên ngoài chúng ta, trong một đối
tượng ngoại tại nào đó. Quan điểm ấy được chứng thực bởi sự đồng
thuận tổng quát của người khác về các ý tưởng đơn giản của họ.
Và dường như hệ luận của nó là có những đối tượng ngoại tại sở
hữu những phẩm tính “vàng” và “ngọt”.
Nếu các đối tượng ấy sở hữu những phẩm tính đó, nếu các đối
tượng ấy truyền đạt trực tiếp tới tâm trí qua các giác quan và
nếu tâm trí hoàn toàn thụ động trong việc tiếp nhận cảm giác,
hẳn các thông tin chúng ta tiếp nhận về đối tượng đều không bị
biến thể. Chỉ nhìn thoáng kinh nghiệm của mình mà thôi, chúng ta
đã thấy nó không đúng như thế.
Phẩm tính cũng này nọ
Các nhận thức của tôi về phẩm tính của đối tượng đều bị biến thể
theo điều kiện thể lý của tôi. Nếu tôi bị cảm lạnh, mùi vị điếu
thuốc lá của tôi hẳn khác khi tôi mạnh khỏe. Nếu tôi mắc bệnh
vàng da, mọi sự dường như mang một vẻ “vàng” gớm ghiếc. Và nếu
tôi bị sốt, tôi không thể thưởng thức hương vị của chai bia ướp
lạnh.
Khi nói rằng mỗi đối tượng có liên quan tới màu sắc nhất định và
hoặc có vị nhất định, tức là ta có ý ám chỉ kinh nghiệm trong
điều kiện bình thường. Trong khi không nêu vấn nạn làm thế nào
khẳng định bình thường là gì, Locke tin, do bởi tính tương đối
của kinh nghiệm của con người, rằng một số phẩm tính không thật
sự hiện hữu trong đối tượng.
Có phẩm tính nằm ngoài đối tượng Có
những phẩm tính chúng ta tin rằng chúng không hiện hữu trong đối
tượng ngoại tại. Nếu tôi nhột vì một chiếc ráy tai, tôi hiểu
rằng nhột là cái gì đó tùy thuộc vào tôi và sẽ không bao giờ
nghĩ tới việc nói rằng nhột là đặc tính của chiếc ráy tai, giống
như nói tới màu sắc của nó.
Tôi đang ở Canada. Vào mùa đông, cái thường làm cho tôi thú vị
nhất là được ngồi gần lò sưỡi, cách một khoảng nhất định với
ngọn lửa, vừa đủ để cảm thấy ấm. Nhiều người giả định rằng ấm là
phẩm tính của lửa; họ không ngần ngại phát biểu rằng “lửa ấm”.
Khi tôi ngồi sát ngọn lửa hơn, ấm biến thành nóng và tôi không
ngần ngại nói rằng “lửa nóng”, qui cho “nóng” là một phẩm tính
của lửa.
Kế đến, nếu tôi ngồi sát ngọn lửa hơn, cái nóng biến thành cái
rát, nhưng lúc đó tôi không nghĩ rằng “rát” là phẩm tính của
lửa. Việc tôi “không nghĩ” như thế có vẻ lạ lùng vì quả thật
cũng chỉ một đối tượng (khách thể) nhưng cái khác biệt là khoảng
cách giữa tôi (chủ thể) với nó. Thế thì tại sao nói rằng “lửa
rát” thì không chính xác cho bằng “lửa ấm” và “lửa nóng”, và
rằng nói “ấm” hay “nóng” cũng là xuyên tạc bản tính thật sự của
lửa, đó chẳng qua là vì tôi kéo ghế ngồi gần hay ngồi sát lửa?
Không ai dám trả lời một cách khẳng định vì dường như rõ ràng
rằng “rát” thuộc về người nhận thức chứ không thuộc về đối
tượng. Vì rát, và có thể kể cả nhột, là kinh nghiệm tương đối
chung của mọi người nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng có những
phẩm tính không thật sự thuộc về đối tượng dù chúng có vẻ do đối
tượng gây ra. Ðiều ấy làm nảy sinh mối nghi ngờ đầu tiên về nơi
tọa lạc của phẩm tính.
3. Phân loại phẩm tính theo Locke
Phẩm tính thuộc chủ thể
Nếu giờ đây chúng ta hướng tới bản thân đối tượng và giả định
rằng quả thật các phẩm tính lệ thuộc vào nó, ta sẽ kỳ vọng rằng
các phẩm tính không bị biến đổi bởi bất cứ cái gì tác động lên
đối tượng. Nếu bạn cầm lên một trái chuối, bẻ nó ra làm đôi, mỗi
nửa vẫn còn kích cỡ nào đó, hình dạng nào đó, màu sắc nào đó và
mùi vị nào đó.
Kế đó, nếu bạn lại chia mỗi nửa ra làm đôi và tiếp tục tục chia
đôi các phần đó, cuối cùng bạn có các phần rất nhỏ mà vẫn có
kích cỡ và hình dạng nào đó, nhưng không còn vẻ màu sắc bên
ngoài và không còn mùi vị. Sự kiện ấy gợi ra rằng trong khi kích
cỡ và hình dạng là các phẩm tính thường trực của vật và không
thể tách khỏi nó, thì các phẩm tính khác không thật sự thuộc về
vật nhưng chúng tùy thuộc vào người nhận thức.
Phẩm tính thuộc về khách thể Khi
Locke xem xét tính chất tương đối của phẩm tính và thực tế rằng
chúng ta thậm chí có các ý tưởng về các phẩm tính không thể hiện
hữu, thí dụ bóng tối, ông quả quyết rằng sự phân biệt phải dựa
trên các phẩm tính thật sự thuộc về đối tượng và các phẩm tính
mà sự hiện hữu của chúng tùy thuộc vào hữu thể nhận thức.
Ông gọi cái thứ nhất là các phẩm tính cấp một
(primary qualities) và liệt kê chúng là kích cỡ, hình dạng, rắn
đặc, đếm được, di động được. Dù ta có tác động thế nào đi nữa
lên các thành phần của đối tượng – ngoại trừ triệt tiêu nó – nó
vẫn còn giữ kích cỡ nào đó, hình dạng nào đó, chiếm lĩnh một
phần không gian nào đó trong loại trừ các đối tượng khác, là đối
tượng của hành động đếm và có khả năng bị đưa vào chuyển động.
Phẩm tính tùy thuộc vào chủ thể
Hết thảy các phẩm tính khác đều bị Locke xếp vào phẩm tính
cấp hai (secondary quality) vì sự hiện hữu của chúng tùy
thuộc vào hữu thể nhận thức. Các phẩm tính cấp hai không hiện
hữu trong đối tượng ngoại tại (external object), nghĩa là vật ở
bên ngoài chủ thể (người nhận thức). Theo diễn tả của Locke
trong sách đã dẫn, thì “Các phẩm tính ấy, thật sự không là gì cả
trong bản thân đối tượng, mà là những sức mạnh sản sinh (powers
to produce) các cảm giác đa dạng trong chúng ta, do bởi các phẩm
tính cấp một”.
Do đó đối tượng ngoại tại ấy được cho là sở hữu các phẩm tính
cấp một cùng với sức mạnh sản sinh các phẩm tính cấp hai, cái
vốn không thật sự hiện hữu trong đối tượng.
4. Hàm ý
Cảm quan chung có thể sai
Cần ghi nhận rằng các phẩm tính cấp một là những phẩm tính hoàn
toàn có thể đo lường và rằng chúng chỉ là những phẩm tính được
các ngành khoa học tự nhiên (natural sciences) quan tâm. Ðiều
này hoàn toàn giống với với lập trường của Galileo.
Cũng cần ghi nhận rằng nếu đó chỉ là những phẩm tính quả thật
thuộc về đối tượng ngoại tại thì cảm quan chung, hoặc nhận thức
theo lẽ thường về thế giới ngoại tại có thể sai lầm. Như thế,
thế giới ngoại tại chẳng sở hữu phẩm tính cấp hai nào và phải
quan niệm thế giới ấy như không có màu sắc, âm thanh, mùi và vị.
Ðó là một thế giới có thể làm vừa lòng các nhà vật lý hoặc các
nhà toán học nhưng nó chẳng làm người bình thường vui bụng chút
nào.
Như Whitehead đã diễn tả trong cuốn Science and the Modern
World (Khoa học và thế giới hiện đại, 1925, t.80) rằng: “Các
vật thể được nhận thức cùng với các phẩm tính trong thực tế
không thuộc về chúng, các phẩm tính quả thật thuần túy là con đẻ
của tâm trí. Do đó, thiên nhiên nhận được lời tán tụng vì đã
thật sự dự phòng cho chính chúng ta; hoa hồng vì hương thơm của
nó; chim họa mi vì bài ca của nó; và mặt trời vì ánh rực rỡ của
nó. Các thi sĩ hoàn toàn sai lầm. Họ nên đọc những vần thơ cho
chính họ nghe và nên biến chúng thành những bài tụng ca để tự
chúc mừng sự toàn hảo của tâm trí loài người. Thiên nhiên là một
thứ tẻ nhạt, không âm thanh, không hương thơm, không màu sắc;
hoàn toàn chỉ là sự hối hả của vật chất, không ngừng và vô
nghĩa”.
Lập trường Locke vẫn lợi thế
Bạn có thể đồng ý với lời phản đối ấy của Whitehead, tuy thế
dường như chừng nào bạn còn giả định rằng phẩm tính thuộc về đối
tượng và đến với chúng ta qua cảm giác, chừng đó vẫn không thoát
nổi các luận cứ của Locke. Nếu cứ cố chấp chống lại các luận cứ
ấy thì chúng ta nên hiểu thêm rằng lập trường của Locke không
chỉ là một thao tác có tính hàn lâm sách vở mà còn là một diễn
tả hệ trọng, có tính triết học, các nguyên tắc gắn liền với khoa
học mang bản sắc Newton.
Chừng nào thế giới này vẫn được xem là một hệ thống vật chất
được lập thành bởi các phân tử vật chất, kết hợp nhau theo lý
thuyết tổng quát về sức hấp dẫn, chừng đó khái niệm nào khác về
nơi tọa lạc và ý nghĩa của phẩm tính vẫn không đứng vững. Ức
đoán của Democritus đã được chứng minh bởi Newton, thiên tài của
khoa học hiện đại.
Ngoài những nan giải có tính cảm xúc của nó, khái niệm này có
lợi thế riêng biệt nhờ biện hộ cho sự buông bỏ phẩm tính và thay
vào đó bằng khoa học lượng tính, vì các phẩm tính cấp một có thể
đo lường được, và toán học là công cụ quan trọng để thẩm tra bản
tính của thế giới. Dù sự phân tích kinh nghiệm thành các phẩm
tính cấp một và cấp hai đúng hay sai, không ai có thể hoài nghi
ý nghĩa mang tính *phương pháp luận (methodology) của nó đối với
khoa học mang bản sắc Newton.
5. Vấn đề vật chất
Phối hợp của phẩm tính
Theo Locke, khi nói tới bản thể của cá nhân hay của vật, tức là
chúng ta đang quả thật nói tới sự phối hợp liên tục các ý tưởng
đang diễn ra một cách rất ngăn nắp khiến chúng ta hữu lý khi kêu
đích danh nó bằng một cái tên chung, thí dụ “con trâu”, “trái
ổi” hoặc “Lê Văn Tám”. Chúng ta biết rằng các ý tưởng đều do bởi
các phẩm tính cấp một hoặc các sức mạnh sản sinh trong vật, vì
thế chúng ta phải giả định rằng trong thế giới ngoại tại cũng có
sự phối hợp tương tự của các phẩm tính cấp một và các sức mạnh
ấy.
Ðiều ấy gợi lên câu hỏi tại sao chúng chỉ được tìm thấy trong
những phối hợp cá biệt. Nếu các phẩm tính có sức hấp dẫn nhau
một cách tự nhiên thì nơi tìm thấy cái này cũng là nơi chắc chắn
tìm thấy cái kia, và giải pháp cho vấn đề sẽ rất dễ dàng. Thế
nhưng không có bằng cớ nào cho thấy có sự hấp dẫn nhau ấy.
Tròn có thể kết hiệp với các kích cỡ khác nhau hoặc các màu sắc
khác nhau chứ không phải chỉ với một kích cỡ nhất định hoặc một
màu sắc nhất định. Do đó, sự phối hợp các phẩm tính phải có một
lý do nào khác. Có thể tìm thấy lý do đó trong lớp tiềm ẩn nằm
bên dưới nào đó hoặc trong nguyên lý phối hợp.
Chính tâm trí phối hợp
Theo Locke, chẳng khó khăn chút nào trong việc giải thích những
phối hợp khác nhau của ý tưởng, vì chúng ta có thể qui những
phối hợp ấy cho tâm trí, cái sở hữu chúng và đang nằm bên dưới
chúng. Từ Descartes và cảm quan chung, chúng ta biết rằng có cái
bản thể được gọi là “vật chất” (matter) ngoài cái được gọi là
“tâm trí” (mind), và chúng ta biết người ta thường gọi các đối
tượng ngoại tại là có “tính vật lý” (physical) hoặc “tính vật
chất” (material).
Như thế theo Locke, đó là chìa khóa cho giải pháp. Ta chỉ cần
đặt một lớp vật chất tiềm ẩn nằm bên dưới (substratum) các phẩm
tính, để giữ chúng với nhau. Hành động ấy lập chúng thành các
đối tượng vật chất và giải thích sự hiện hữu độc lập của
chúng.
Vật chất không là phẩm tính
Nếu vật chất là lớp tiềm ẩn nằm bên dưới các phẩm tính thì như
thế tự thân vật chất không là phẩm tính. Nếu là phẩm tính, vật
chất hẳn phải được giải thích theo cách giống y như hết thảy các
phẩm tính khác. Và lúc đó, ta lại phải giả dụ có thêm một lớp
tiềm ẩn nằm bên dưới nữa. Vì vật chất không là phẩm tính và vì
không thể nào nhận thức hết mọi phẩm tính nên rõ ràng rằng không
thể nhận thức lớp tiềm đang ẩn nằm bên dưới ấy. Do đó, Locke đặt
cho nó cái tên là cái “x vô danh” (unknown x).
Mâu thuẫn của Locke
Ðây dường như là một việc làm thích đáng dưới ánh sáng thẩm tra,
nhưng nó đưa dẫn vào triết học của Locke một sự không nhất quán
chết người.
Locke là người *duy nghiệm chủ nghĩa. Nếu có ý tưởng có giá trị
nào hiện hữu trong tâm trí mà không thông qua các giác quan thì
nó bị Locke phủ định ngay lập tức. Thế mà giờ đây ông lại chấp
nhận, như một ý tưởng nền tảng trong hệ thống của mình, cái ý
tưởng vật chất không thể nhận thức và không thể tiếp nhận bằng
bất cứ giác quan nào. Nhằm duy trì sự phân biệt giữa các phẩm
tính cấp một và cấp hai, Locke đã buộc lòng phải vi phạm một
trong các nguyên tắc chủ yếu của mình. Do đó, có vẻ như chúng ta
phải hoặc từ khước ý tưởng tính vật chất hoặc từ khước lập
trường duy nghiệm chủ nghĩa.
6. George Berkeley
Vật chất không hiện hữu
Triết gia và giám mục Anh giáo George Berkeley, người đặt cơ sở
cho một hệ thống được gọi là thuyết duy tâm chủ quan (subjective
idealism), nhấn mạnh nhu cầu nhất quán trong triết học và tầm
quan trọng mang tính nền tảng của kinh nghiệm, do đó ông từ
khước ý tưởng vật chất.
Theo Berkeley, vì vật chất không là phẩm tính để được nhận thức
nên không thể nói rằng nó hiện hữu. Nó không là thực tế mà chỉ
là thông giải của trải nghiệm và quả thật nó không có quyền đòi
hỏi được chấp nhận. Khi khái niệm vật chất bị khước từ thì sự
phân biệt các phẩm tính cấp một và cấp hai rơi vỡ tan tành.
Phẩm tính hiện hữu nhờ nhận thức
Trong khi Locke vạch ra rằng không phải tất cả mà chỉ một ít
phẩm tính trong kinh nghiệm của chúng ta tùy thuộc vào hữu thể
nhận thức để hiện hữu, Bekeley quả quyết tất cả các phẩm tính
đều lệ thuộc như thế. Theo ông, kích cỡ và hình dạng phải được
nhận thức cùng với với màu sắc, cái bị Locke xếp loại là phẩm
tính cấp hai. Người ta không thể nhận thức sự chuyển động mà
không nhận thức đối tượng có màu sắc đang chuyển động. Người ta
cũng nhận thức các phẩm tính cấp một khác theo cách thức giống y
như thế, và có thể lấy sự tương tự ấy làm bằng cớ.
Do đó, đối với Berkeley, hệ luận là khi theo một cách nhất quán
nguyên tắc mang tính duy nghiệm chủ nghĩa, ta phải chấp nhận
rằng mọi ý tưởng hoặc mọi phẩm tính chỉ hiện hữu khi chúng
được nhận thức. Vì đối tượng chỉ là sự phối hợp liên tục các
phẩm tính hoặc các ý tưởng, sự hiện hữu của nó lệ thuộc vào nhận
thức, nghĩa là vào tâm trí. Vật chất bị xua đuổi vì không thiết
yếu và bất khả thi. Vạn vật chỉ hiện hữu khi chúng được nhận
thức.
Thượng đế nguồn của ý tưởng
Ðiều này dường như giảm thiểu thế giới thành các giới hạn của ý
thức cá nhân vì nó giảm thiểu thế giới của tôi thành cảnh giới
của các ý tưởng của tôi. Berkeley tìm cách tránh né kết luận đó
bằng việc thừa nhận Hữu thể siêu nhiên (supernatural Being) là
cội nguồn các ý tưởng của tôi. Khi xem xét nội tâm (nội quan,
introspection), tôi thấy rõ ràng rằng các ý tưởng đơn giản và
căn bản đang lập thành kinh nghiệm của tôi đều đến với tôi một
cách độc lập với các ý nguyện hoặc các ý thích bất chợt của tôi.
Ngang đây, thêm lần nữa ta bắt gặp khái niệm về tính cưỡng bách
của nhận thức. Ðối với Berkeley, tính thụ động ở phía chủ thể
nhận thức là chỉ dấu cho thấy rằng y không thể là tác giả của ý
tưởng. Vì ý tưởng phải có nguồn cội nào đó, và nguồn cội này
phải có tính tinh thần – vì tính vật chất đã bị phủ định – nên
phải hiện hữu Thượng đế, đấng duy trì toàn thể vạn vật hiện hữu
bằng sự nhận thức liên tục của ngài và chịu trách nhiệm về việc
gây ra ý tưởng trong tâm trí của tôi.
Nếu bạn hỏi Berkeley rằng cây đa đầu làng của bạn có hiện hữu
hay không nếu giữa đêm hôm khuya khoắt không có người nào nhận
thức nó? Vị triết gia giám mục người Anh ấy sẽ trả lời rằng nó
vẫn hiện hữu vì nó luôn luôn được nhận thức bởi ít nhất một hữu
thể, đó là Thiên Chúa.
7. David Hume
Chưa ai từng tri giác Thượng đế
Rủi thay, tính nhất quán hoặc tính duy nghiệm chủ nghĩa trong
quan điểm của Berkeley không được như ông hy vọng. Ý tưởng chỉ
có thể có cơ sở khi nó được nhận thức nhưng không có người nào
từng nhận thức tâm trí của mình như một bản thể riêng biệt với
các ý tưởng, cũng không có người nào từng nhận thức (tri giác)
đấng Thần linh tối cao ấy (Hữu thể siêu nhiên).
Nếu chúng ta muốn nhất quán trong thuyết duy nghiệm của mình thì
phải từ khước các ý tưởng ấy, với kết quả là thế giới này sẽ bị
giảm thiểu thành một hệ thống các ý tưởng không được tạo ra cũng
như không được duy trì bởi bất cứ bản thể tinh thần nào. Ðó là
kết luận được đạt tới bởi triết gia và sử gia người Anh David
Hume.
Ðịnh luật kết hiệp
Kết luận ấy dường như trái ngược với kinh nghiệm của chúng ta vì
chúng ta cho rằng không thể tưởng tượng nổi một ý tưởng có thể
hiện hữu mà không có cái gì đó chứa đựng nó hoặc nâng đỡ nó.
Hume bác bỏ nhu cầu nâng đỡ; ông xem đó là di tích của thời
Trung cổ, thuở con người không thể quan niệm các ngôi sao và các
hành tinh hiện hữu lơ lửng giữa bầu trời mà không có các thiên
thể nâng đỡ chúng.
Newton đã làm cho khái niệm về thiên thể ấy trở nên không cần
thiết bằng thuyết vạn vật hấp dẫn trong đó ông giải thích mối
liên hệ giữa các thiên thể bằng định luật tự nhiên. Hume lập
luận rằng có thể giải thích sự tổ chức của các ý tưởng bằng định
luật về sự kết hiệp được đề ra trong tâm lý học (psychology). Và
đó là giải thích duy nhất mà ta cần tới.
Phẩm tính do chủ quan
Hume cho rằng hết thảy các phẩm tính đều tùy thuộc vào chủ thể
(subjective), cũng có thể nói là đều có tính chủ quan. Lập
trường ấy dường như rất lạ lùng vì chúng ta thường xác tín một
cách kiên định rằng không cái gì có thể xảy ra mà không có
nguyên nhân. Hết thảy chúng ta đều đồng ý rằng chúng ta có ý
tưởng. Hume yêu cầu chúng ta hãy hài lòng với thực tế đó nhưng
chúng ta cứ nhất quyết rằng mình không thể có tư tưởng nếu không
có cái gì đó sản sinh ra chúng.
Locke đề quyết rằng chúng được sản sinh bởi các đối tượng vật
chất. Berkeley cãi lại rằng chúng được sản sinh bởi bản thể tinh
thần. Hume bác bỏ rằng cả hai cái đó đều không thể chứng minh
cho lập trường của ông vì cả đối tượng vật chất lẫn bản thể tinh
thần đều không thể nhận thức được. Sai lầm của Locke và Berkeley
phát sinh từ giả định rằng tính cưỡng bách của kinh nghiệm nhận
thức (perceptual experience) cho thấy có một nguyên nhân độc lập
và rằng thực tế của tư tưởng cho thấy có nguyên nhân của tư
tưởng.
Có lẽ ta có thể trình bày rõ ràng hơn quan điểm của Hume bằng
cách gọi ý tưởng là một hiệu ứng (effect), hay kết quả, và lập
luận rằng mọi kết quả đều phải có nguyên nhân (cause).
Khi tôi nói rằng tôi đang nhận thức sự phối hợp của cái vàng,
cái tròn và cái ngọt thì thật dễ dàng lập luận rằng phải có một
trái ổi ngoại tại và độc lập để sản sinh các ý tưởng ấy trong
tâm trí của tôi.
Trải nghiệm do bởi ý tưởng
Trong chương bàn về định luật nhân quả, chúng ta sẽ thấy cách
thức Hume bác bỏ lời khẳng định “kết quả phải có nguyên nhân”.
Ngang đây hẳn tạm đủ để nói rằng đối với Hume, hoàn toàn không
thể chứng minh việc đi từ thực tế tôi có một ý tưởng tới một đối
tượng ngoại tại hoặc có tính vật chất hoặc tính tinh thần, được
tôi khẳng định là phải sản sinh ý tưởng. Chính các ý tưởng của
tôi làm thành các kinh nghiệm của tôi, đó là tất cả những gì tôi
có thể thật sự nói.
Do đó, chừng nào còn liên quan tới kinh nghiệm của tôi, chừng đó
mọi phẩm tính đều có tính chủ quan; kinh nghiệm của tôi không
chỉ tới cái gì khác hơn kinh nghiệm của tôi. Cũng có thể thích
hợp khi giả định thế giới ngoại tại là nguồn gốc của các ý tưởng
của tôi nhưng không thể nào chứng minh điều đó, và người duy
nghiệm chủ nghĩa chỉ còn cách ở lại trong các giới hạn của bằng
cớ kinh nghiệm.
Hume, Berkeley và Newton
Sự phân biệt giữa các phẩm tính cấp một và cấp hai dường như
thiết yếu để giải thích tính chất tương đối của nhận thức và đều
chứng minh cho trình tự của ngành khoa học tự nhiên nhưng nó
thực hiện hai việc đó bằng cách làm cho khái niệm có tính cảm
quan chung về thế giới trở thành không thỏa đáng.
Berkeley tìm cách tránh sự phân đôi các phẩm tính bằng cách làm
cho chúng hoàn toàn tùy thuộc vào nhận thức. Bằng cách đó, vị
giám mục triết gia ấy gia tăng cường độ cảm xúc của vấn đề đối
với người bình thường nhưng ông đã giải cứu triết học thoát khỏi
chủ nghĩa duy vật ấu trỉ (naive materialism) mà không tác động
lên bản tính tổng quát của nghiên cứu khoa học.
Thuyết *duy hiện tượng (phenomenalism) của Hume, trong khi mang
nguyên tắc duy nghiệm tới giới hạn đó, ngụ ý một sự biến cải
trong khái niệm khoa học về quan hệ nhân quả (causality), như
chúng ta sẽ thấy về sau, và sự tái phát biểu ý nghĩa của định
luật ấy.
Nhưng xét về mặt khoa học, trong hệ thống của Hume không có gì
mâu thuẫn một cách căn bản với các giả định của khoa học mang
bản sắc Newton. Cảm quan chung bị tổn thương nhưng nó chỉ mất
mát cái ngụ ý luận lý bằng niềm tin của nó rằng chỉ có nhận thức
mà chúng ta sở hữu về thế giới là lệ thuộc vào các phẩm tính
được truyền đạt tới kẻ nhận thức qua các giác quan của y.
IV. Ý nghĩa của phẩm tính
1. Ðặt vấn đề
Có lẽ giải pháp cho vấn đề ấy lệ thuộc vào sự khảo sát ý nghĩa
của từ ngữ “phẩm tính”. Có thể đúng khi nói rằng phẩm tính là
các đặc tính đang có của vật, độc lập với mối tương quan với các
vật khác, hoặc có thể không đúng khi giả định rằng
dữ-liệu-giác-quan (sense-data) thật sự là chính các phẩm tính
hoặc là những biểu hiện trực tiếp cái đã định của tâm trí thụ
động.
Trong khi xúc tiến việc chọn lựa giữa những định nghĩa vừa kể
nhằm góp phần giải quyết các vấn đề do Locke, Berkeley và Hume
đã đặt, ta có thể gây ra những vấn đề khác, thậm chí nan giải
hơn. Và chúng ta chẳng cần phải lo lắng chuyện đó. Vì giống như
khoa học, triết học tăng tiến bằng cách mỗi câu trả lời cho một
câu hỏi sẽ gợi ra thêm các câu hỏi khác cần phải được trả lời.
Ngoài niềm hy vọng giải quyết các vấn đề ấy, các phẩm tính, dù
trạng thái tối hậu của chúng là gì đi nữa, cũng đều là những yếu
tố cấu thành kinh nghiệm, và nếu muốn am hiểu thế giới này,
chúng ta không thể trì hoãn việc khảo sát chúng. Các triết gia
hiện đại chấp nhận những câu trả lời khác nhau cho các câu hỏi
ấy, và chúng ta có thể nắm bắt một cách tốt nhất vai trò của các
phẩm tính trong tư tưởng hiện đại bằng việc khảo sát những thông
giải này nọ đang xung khắc nhau.
2. Phái Aristotle: không thể định nghĩa phẩm
tính:
Chỉ có thể quan sát
Ðối với câu hỏi về bản tính của phẩm tính, ta có câu trả lời đầu
tiên, khẳng định rằng phẩm tính có thật và có tính khách quan
nhưng vì chính bản tính của nó nên ta không thể nào định nghĩa
nó.
Chúng ta có thể đưa ra một thí dụ về phẩm tính nhưng không bao
giờ có thể nêu được ý nghĩa của nó, theo kiểu ta có thể đưa tay
chỉ tới cái chúng ta có ý nói bằng từ ngữ “tam giác”. Vì chúng
ta có thể định nghĩa từ ngữ “tam giác” nên nó có ý nghĩa cho dù
trong thiên nhiên không có tam giác nào hiện hữu hoặc có thể
hiện hữu. Một phẩm tính không thể có bất cứ ý nghĩa nào nếu
không thật sự đang có những phẩm tính có thể được quan sát.
Hạng mục tối hậu
Người theo phái Aristotle quả quyết rằng “phẩm tính” là một hạng
mục tối hậu (ultimate category) của tư tưởng, một trong những
cách thức chúng ta phải dùng tới để mô tả vật đang hiện hữu vì
chúng ta không thể nào trải nghiệm một bản thể tách biệt với các
phẩm tính của nó. Và vì các phẩm tính có tính tối hậu theo ý
nghĩa ấy, nên không thể nào định nghĩa chúng.
Theo Aristotle, mọi định nghĩa đều đòi hỏi một chủng loại và một
dấu hiệu đặc trưng riêng biệt (a genus and a specific
differentia). Ðể định nghĩa một thuật ngữ, chúng ta phải biết
cấp cao hơn mà nó thuộc về, như con người thuộc về cấp của những
vật được gọi là “động vật”. Chúng ta cũng phải biết những phẩm
tính cốt yếu phân biệt vật này với với các phần tử khác của cấp
ấy, thí dụ sự sở hữu lý trí phân biệt con người với con trâu và
con bò là hai vật cũng thuộc về chủng loại “động vật”.
Vì biết chủng loại ấy (động vật) và dấu hiệu đặc trưng (lý trí)
nên chúng ta mới có thể định nghĩa con người là một động vật có
lý trí. Vì là hạng mục tối hậu, phẩm tính không thể thuộc về bất
cứ cấp rộng lớn hơn nào, như con người thuộc về cấp các động
vật; do đó, để định nghĩa, một trong những đòi hỏi căn bản là
không có mặt. Vì thế, không thể định nghĩa phẩm tính.
Gắn liền với bản thể
Ðiều đó không hàm ý rằng chúng ta không thể hiểu từ ngữ “phẩm
tính” có ý nói gì. Nhưng am hiểu ấy phải phát sinh từ bản tính
của thế giới và từ sự suy ngẫm của chúng ta về nó. Chúng ta biết
rằng vạn vật được gọi một cách thích đáng là các bản thể và rằng
mọi bản thể đều sở hữu phẩm tính. Bản thể được biểu hiện như cái
luôn luôn là chủ từ chứ không bao giờ là thuộc từ, nghĩa là nó
hiện hữu độc lập với các vật khác. Nói cách khác, vì là cái bị
bản thể sở hữu nên phẩm tính không có tính độc lập.
Phẩm tính chỉ có thể hiện hữu khi có một bản thể mà nó thuộc về,
nghĩa là nó hoàn toàn lệ thuộc. Các phẩm tính là những phương
tiện qua đó chúng ta nhận thức vật đang hiện hữu. Các phẩm tính
hiện hữu trong vật cho dù chúng ta đang hay không đang quan sát
nó. Sự phân biệt giữa các phẩm tính cấp một và cấp hai là vô giá
trị vì hết thảy các phẩm tính đều thuộc về vạn vật.
3. Phái thực chứng: không thể định nghĩa phẩm
tính
“Ðưa tay” chỉ tới đối tượng
Trong triết học hiện đại, có một trường phái đôi khi được gọi là
*duy thực chứng luận lý (logical positivism). Các triết gia
thuộc phái này đi theo truyền thống tổng quát của chủ nghĩa duy
nghiệm và mắc David Hume một món nợ lớn. Họ cũng nhấn mạnh rằng
không thể định nghĩa phẩm tính.
Ðể có thể hiểu một cách tương đối dễ dàng các lý do khiến họ quả
quyết như thế, chúng ta ngừng lại một chút, xem xét các tiêu
chuẩn được họ dùng để kiểm tra tính chính xác ý tưởng hoặc giá
trị của nó. Theo họ, cách kiểm tra thích đáng giá trị của một ý
tưởng thì liên quan tới khả năng chỉ tới vật được ý tưởng ấy thể
hiện. Khi tuyên bố rằng trái khế màu xanh, tôi có thể chứng minh
giá trị của lời tuyên bố ấy bằng cách chỉ tới một trái khế đang
có màu xanh.
Phải viện dẫn kinh nghiệm
Không có ý tưởng nào ở trong tâm trí mà trước hết không ở trong
giác quan, và bất cứ ý tưởng nào không thể xác nhận bằng cách
viện dẫn kinh nghiệm đều vô giá trị. Nếu tôi thốt lên câu
“Thượng đế có mặt khắp mọi nơi”, thì theo người thực chứng chủ
nghĩa, tôi không thật sự đưa ra một lời phát biểu mà chỉ là đang
kết hợp những âm thanh vô nghĩa vào với nhau.
Tôi không thể chỉ tới bất cái nào trong kinh nghiệm của mình có
liên quan tới ý tưởng “Thượng đế” hoặc ý tưởng “có mặt khắp mọi
nơi”, và tôi không thể nhận thức hoàn cảnh khả thi nào trong đó
thực tại của hai ý tưởng ấy được thiết lập, bằng cách viện dẫn
kinh nghiệm của mình.
Nếu ý tưởng tôi đang có là ý tưởng phức tạp tới độ tôi không thể
viện dẫn kinh nghiệm, tôi vẫn có thể khẳng định giá trị của nó
bằng cách phân tích nó thành các thành tố đơn giản. Nếu có thể
viện dẫn kinh nghiệm để chứng minh cho từng thành tố đơn giản ấy
lúc đó tôi mới có thể nói rằng ý tưởng ấy có giá trị, bởi lẽ
những thành tố đơn giản này kết hợp thành ý tưởng phức tạp kia.
Chiết các ý tưởng phức tạp
Chúng ta có thể tiến hành theo một tiến trình thông thường: phân
tích các ý tưởng phức tạp thành những thành tố đơn giản; đó là
tất cả những gì chúng ta quả thật có ý nói khi định nghĩa chúng.
Do đó, hết thảy những từ ngữ có thể định nghĩa đều có khả năng
phân tích thành những thành phần đơn giản cấu thành chúng.
Nhưng chẳng chóng thì chầy, tiến trình phân tích ấy sẽ mang
chúng ta tới các từ ngữ không thể nào phân tích thêm nữa, thí dụ
“xanh” hoặc “đỏ”, v.v. Khi đó, cách kiểm tra duy nhất các ý
tưởng ấy là viện dẫn trực tiếp kinh nghiệm, hoặc nói theo từ ngữ
thông dụng hiện nay là trải nghiệm (experience).
Chỉ có thể ngụ ý theo vẻ ngoài
Ðối với các thành tố đơn giản có thể khẳng định bằng cách viện
dẫn trực tiếp kinh nghiệm, chúng ta không thể định nghĩa chúng
vì không thể nào phân tích chúng. Nếu cứ nhất định phải định
nghĩa chúng, chúng ta chỉ có thể nói lên ngụ ý của mình qua từ
ngữ ấy bằng cách định nghĩa vẻ bên ngoài của chúng.
Nói cách khác, từ ngữ “xanh” được định nghĩa khi ta đưa tay chỉ
tới hay kể ra một vật có màu xanh. Tôi không cách gì truyền đạt
cho người mù bẩm sinh ý nghĩa của từ ngữ “xanh” dù tôi có thể
làm cho người ấy hiểu tôi có ý nói gì qua từ ngữ “trái khế”.
Do đó, theo quan điểm phân tích ấy hoặc theo thuyết duy thực
chứng luận lý, ta không thể nào định nghĩa phẩm tính mà chỉ có
thể nói tới vẻ bên ngoài của chúng, tuy chúng có tính khách quan
theo ý nghĩa chúng thuộc về đối tượng và chúng là các thành phần
tối hậu cấu thành kinh nghiệm của chúng ta.
Một hàm ý quan trọng
Nhân đây cũng có thể ghi nhận rằng lập trường nói trên ẩn chứa
một hàm ý quan trọng trong phạm vi lý thuyết đạo đức, vì
“tốt/thiện” (good) được xem là một phẩm tính của hành động, do
đó nó thật sự thuộc về hành động nhưng tuyệt đối không thể định
nghĩa nó.
Theo lập trường mang tính thực chứng chủ nghĩa, cách duy nhất
cho thấy ý nghĩa của tốt/thiện, là “đưa tay” chỉ tới các hành
động tốt/thiện.
4. Ðịnh nghĩa theo thao tác
Phẩm tính hiện hữu từ trước
Chừng nào các phẩm tính còn có tính khách quan và còn thuộc về
đối tượng, chừng đó tri thức của chúng ta về chúng không tác
động lên bản tính của chúng. Chúng hiện hữu trong thế giới ngoại
tại, và khi nói chúng ta biết các phẩm tính thì chỉ có nghĩa
chúng ta ngụ ý rằng mình biết cái gì đó hiện hữu từ trước, trước
khi xảy ra hành động biết của mình.
Nói như thế tức là liên quan tới sự xác định rằng tri thức có
thể không có giá trị, và tới giả định rằng tri thức chỉ có chức
năng làm thỏa mãn sở thích muốn biết, một cách thuần lý thuyết,
bản tính của vạn vật chứ không dính dáng gì tới hệ quả thực tiễn
của hành động biết.
Quan điểm của Dewey
Khái niệm nói trên về các phẩm tính sẽ bị hoàn toàn bác bỏ nếu
ta xác định theo cách khác, cho rằng tri thức không thể cách ly
với hành động. John Dewey, khuôn mặt hàng đầu của thuyết *duy
công cụ (instrumentalism) và *thực dụng chủ nghĩa (pragmatism),
cho rằng tri thức không thể cách ly với hành động và rằng thật
vô nghĩa khi cho là đối tượng hiện hữu trước khi có hành động
biết cũng như nó không bị tác động bởi tương quan biết ấy.
Dù không quan tâm tới *siêu hình học (metaphysics), dù cho rằng
mọi phát biểu về bản tính tối hậu của thực tại đều không cần
thiết và bất khả thi, Dewey chấp nhận lý thuyết tổng quát về
thực tại của biến đổi (vô thường, reality of change). Lý thuyết
ấy không đặt căn bản trên lập luận tinh tế có tính siêu hình nào
mà là trên chứng cớ trực tiếp của kinh nghiệm.
Nếu mọi sự đang biến đổi, ta phải hoài nghi sự hiện hữu của các
phẩm tính thường trực và đang thuộc về các đối tượng thường
trực. Nếu mọi sự đang biến đổi, tri thức về cái đã vượt ra ngoài
sự hiện hữu đều không có giá trị. Vì tri thức về các phẩm tính
được xem là hiện hữu từ trước khi xảy ra việc thẩm tra, và vì
thế giới – hiểu theo nghĩa vạn vật – đang biến đổi trong từng
khoảnh khắc, nên tri thức ấy đương nhiên hoàn toàn vô giá trị.
Toàn bộ tri thức, nếu muốn có ý nghĩa, phải được phát biểu cho
tương lai. Thông thường, các điều kiện của cuộc sinh tồn làm
chứng cho khái niệm ấy.
Xét theo thuyết tiến hóa
Thuyết tiến hóa nhấn mạnh thực tế rằng con người là một đối
tượng tự nhiên, tương tác với môi trường tự nhiên; nếu muốn sống
sót, con người phải duy trì tính thích nghi với tự nhiên. Chúng
ta hãy tạm gọi mối quan hệ hữu cơ với môi trường đó bằng từ ngữ
“hoàn cảnh”. Thật rõ ràng rằng từ khoảnh khắc chào đời cho tới
phút giây lìa đời, cuộc sống của chúng ta loanh quanh bên trong
các hoàn cảnh.
May mắn thay, các hoàn cảnh thường ổn định một cách hợp lý và
các cách thức mà thói quen đáp ứng với môi trường thường làm ta
vừa ý. Cuộc sống hẳn không thể nào chịu đựng nổi nếu chúng ta cứ
phải ra lệnh cho bao tử phải tiêu hóa thức ăn vừa nuốt vào, hoặc
cứ phải để mắt dò chừng từng bước đi của mình. Các hoạt động ấy
được tiến hành hoàn toàn tốt đẹp mà không có bất cứ sự giám thị
hoặc kiểm tra nào có tính trí tuệ. Và cứ thế, trong nhiều lãnh
vực rộng lớn của cuộc sống, chúng ta không cần phải đắn đo suy
nghĩ.
Chúng ta chỉ bắt đầu suy nghĩ khi có một hoàn cảnh bị trục trặc
hoặc sụp đổ, phát sinh vấn đề và đòi hỏi chúng ta phải điều
chỉnh một cách thích đáng để giải quyết. Nếu bạn đang ngồi xem
cải lương và rạp hát bốc cháy, hoàn cảnh ấy rất khác các hoàn
cảnh thông thường tới độ bạn không có thói quen thích hợp để sẵn
sàng đáp ứng. Nếu lúc đó, cứ theo những thôi thúc tự nhiên, nhắm
mắt nhắm mũi đâm đầu chạy, bạn có thể sẽ không thoát ra khỏi đám
cháy hoặc bị kẻ khác dẫm chết.
Suy tưởng là để hành động
Trong những hoàn cảnh (phát sinh vấn đề) như thế, chúng ta bị
buộc phải suy nghĩ, và suy nghĩ chỉ có nghĩa là hành động sửa
chữa thật sự hoàn cảnh ấy dưới sự hướng dẫn của ý tưởng hay kế
hoạch hành động, đưa tới kết quả là chúng ta có giải pháp cho
vấn đề.
Nếu cho rằng ý tưởng là một giả thuyết, một kế hoạch hành động,
một gợi ý về phương cách xử lý, chúng ta sẽ thấy rằng nó bao hàm
tính khả thi của việc thao tác vận dụng vật, hướng tới các cùng
đích nhất định. Trong rạp hát đang bốc cháy, không có chuyện
trầm ngâm nghĩ ngợi tới việc làm thế nào cho da đừng bị phỏng,
vì suy tưởng kiểu đó tức là không có khả năng giải quyết ngay
tức khắc vấn đề, và thật chẳng có chút ý nghĩa nào khi đề nghị
các kế hoạch hành động này nọ vì nó không thích đáng với hoàn
cảnh trước mắt.
Ngay lúc đó, các ý tưởng của chúng ta phải liên quan tới hoàn
cảnh thực tiễn, phải thích đáng để có ngay giải pháp, bởi thế ta
nên nhìn các lối đi khác nhau giữa các dãy ghế, tìm lối nào
không có đông người đang chen lấn nhau, để chạy ra xa chỗ đang
cháy, dẫn thẳng tới cánh cửa có ghi chữ “lối ra”. Các ý tưởng
như thế phản ánh những phẩm tính của hoàn cảnh theo nghĩa chúng
chỉ tới những cách thế hành động thật sự, hoặc cách vận dụng
hoàn cảnh.
Phẩm tính và hành động khả thi
Minh họa ấy có thể góp phần cho thấy rằng có thể định nghĩa phẩm
tính là dấu hiệu của một hành động khả thi. Cách định nghĩa từ
ngữ này được gọi là định nghĩa thao tác (operational
definition). Một từ ngữ chỉ được định nghĩa, tức là chỉ mang ý
nghĩa, khi nó có thể cho thấy nó có dính dáng tới thao tác hoặc
làm cho thao tác ấy thành khả thi.
Nhà hóa học hiện đại không bận tâm tới bản tính của các hóa chất
y đang sử dụng như cái gì đó tách biệt với các quan hệ của chúng
hoặc với các hành động khả thi. Y chỉ quan tâm tới việc khám phá
tương quan giữa các hóa chất, những đặc tính đang chỉ rõ các
thao tác có thể thực hiện trên chúng và qua chúng.
Nếu tôi nói rằng đường có thể hòa tan, tôi không có ý khẳng định
rằng có một phẩm tính khách quan thuộc về một bản thể được gọi
là đường, cái góp phần vạch rõ cho tôi thấy bản tính của nó. Tôi
quả thật chỉ có ý nói rằng nếu tôi cho đường vào một dung dịch
nóng, nó sẽ phân hủy. Khi tôi nói rằng đường ngọt, tôi có ý
khẳng định rằng trong một hoàn cảnh nhất định, thao tác được gọi
là hòa tan sẽ được tiếp theo bởi sự biến đổi trong vị của dung
dịch.
Tri thức là để có giải pháp
Dewey quả quyết rằng đó là cách thích đáng để định nghĩa phẩm
tính, và đó là cách duy nhất có ý nghĩa. Tri thức không là một
nắm bắt có tính trí tuệ về bản tính tiền-hiện-hữu (pre-existing
nature) nhưng nó tương đương với những khẳng định đã được chứng
thực về những phương cách hành động thích đáng trong những hoàn
cảnh riêng biệt.
Do đó, tri thức không liên quan tới bản tính của các thực thể
độc lập và hiện hữu trước khi có hành động biết (tiền hiện hữu)
được gọi là các phẩm tính, nhưng liên quan tới sự đánh giá chính
xác các thao tác có thể thực hiện, và phẩm tính là dấu hiệu của
thao tác đó.
Phẩm tính không cấp bậc
Theo định nghĩa ấy, rõ ràng rằng sự phân biệt giữa các phẩm tính
cấp một và cấp hai là vô giá trị. Phẩm tính không tương đương
với dữ liệu giác quan trong ý thức, và không thể có sự phân biệt
giữa các phẩm tính được nhận thức và phẩm tính không được nhận
thức.
Vì phẩm tính không hiện hữu độc lập mà chỉ là những dấu hiệu của
các thao tác khả thi nên vấn đề ấy chỉ là kết quả của sự phân
tích không thích đáng về tri thức và về bản tính.
5. Phẩm tính là thông giải
Tâm trí chủ động
Chủ nghĩa duy tâm chống cả lý thuyết giả định rằng tâm trí thụ
động lẫn lý thuyết cho rằng phẩm tính chỉ là dấu hiệu của thao
tác khả thi.
Thuyết thứ nhất hàm ý rằng phẩm tính thuộc về thế giới ngoại tại
và độc lập, thông qua giác quan truyền đạt tới tâm trí thụ động.
Triết gia Ðức *Immanuel Kant (1724-1804) nhấn mạnh rằng không
thể nào cắt nghĩa tri thức nếu chúng ta không giả định rằng tâm
trí chủ động, vì thế bất cứ lý thuyết nào về bản tính của phẩm
tính có hàm ý tính thụ động của tâm trí đều chắc chắn không
chính xác.
Ý thức hiện hữu vì xác thực
Mặt khác, lý thuyết của Dewey giới hạn ý nghĩa của tri thức
trong các hoàn cảnh thực tiễn. Nói rằng tri thức phải gắn bó
chặt chẽ với hành động thì chẳng khác gì cho rằng tri thức không
là gì cả mà chỉ là bản tường trình về cái đã được thể hiện trong
hoàn cảnh hiện hành. Và như thế, thuyết thứ hai này tạo khó khăn
cho việc biện minh cho khoa học thuần túy hoặc triết học suy
tưởng.
Khẳng định rằng ý tưởng chỉ là kế hoạch hành động thì rất gần
với lời khẳng định rằng ý tưởng chỉ xác thực vì nó hữu hiệu,
trong khi đó, có lẽ chính xác hơn nếu nói ngược lại rằng ý tưởng
chỉ hữu hiệu vì nó xác thực.
Tâm trí thông giải vật
Hoạt động của tâm trí được vén lộ trong những thông giải qua đó
cái được cung cấp (vật hay sự kiện hay hoàn cảnh, v.v.) được
triển khai và được thấu hiểu. Cần vạch rõ rằng chúng ta không
bao giờ trải nghiệm hết thảy các phẩm tính cấu thành một đối
tượng và rằng chúng ta cũng chẳng cần phải trải nghiệm mức như
thế.
Nếu màu trắng ấy có nghĩa là “canô”, thì nó thiết yếu đối với
chủ thể để sở hữu từ ngữ tổng quát “canô” và để hiểu nó trước
khi có khả năng thông giải như thế. Một người sinh ra và lớn lên
trong một buôn làng heo hút ở vùng cao, chưa bao giờ đặt chân ra
khỏi vùng rừng núi của mình, chưa hề nghe nói tới và chưa hề
thấy canô, và giả dụ người ấy biết nói tiếng Kinh, sẽ hoàn toàn
không có khả năng thông giải màu trắng ấy thành canô.
Từ ngữ canô có tính phổ quát theo ý nghĩa rằng nó không ngụ ý
tới chiếc canô A hoặc chiếc canô B nhưng bao hàm hết thảy các
loại xuồng máy có thể được gọi một cách thích đáng là canô. Tiến
trình của hành động biết này là sự triển khai các thành tố được
cung cấp thành ý nghĩa đầy đủ của nó nhờ công dụng của những cái
phổ quát ấy.
Phẩm tính không độc lập
Tiếp đến, phẩm tính, như thế, không hiện hữu trong một bản thể
vật chất nào đó độc lập với tâm trí; đúng ra, nó tùy thuộc vào
tương quan giữa cái được cung cấp và hoạt động của tâm trí. Vật
chất trở thành có ý nghĩa khi nó được giảm thiểu thành ý thức và
được thông giải bằng những cái phổ quát.
Khởi điểm của trình tự này được đồng hóa với các cấp bậc đơn
giản hơn, đánh dấu bởi những thông giải như “cái này trắng”
trong đó “cái này” thay thế cho cái được cung cấp, và “trắng”
thay thế cho cái phổ quát qua đó cái được cung cấp được thông
giải hoặc được làm cho có ý nghĩa.
Ý tưởng là ý nghĩa của vật
Tới đây, có lẽ bạn phải thận trọng, đừng nghĩ rằng người duy tâm
chủ nghĩa có vẻ như đang có một số cái phổ quát bí nhiệm nào đó
để theo đó, họ sắp xếp các vật được cung cấp. Người duy tâm chủ
nghĩa quả quyết rằng sự thông giải tiềm ẩn trong kinh nghiệm
giác quan và rằng tâm trí chỉ làm công việc triển khai ý nghĩa
của cái được cung cấp.
Lập trường này phủ định sự tách đôi thành các phẩm tính cấp một
và cấp hai, vì mọi phẩm tính chỉ là sự thông giải cái được cung
cấp, nói cách khác, cái được cung cấp chỉ có thể có ý nghĩa một
khi nó được thông giải.
Ý tưởng là ý nghĩa – không phải là hình ảnh – của vạn vật. Nếu
thuyết duy nghiệm về nhận thức là có giá trị, người ta có thể
tưởng tượng rằng nhà phẫu thuật não có khả năng nhận thức các ý
tưởng trong não của tôi. Như thế, về mặt lý thuyết, y có thể
biết những gì tôi biết.
Người duy tâm chủ nghĩa quả quyết rằng cho dẫu có những hình ảnh
trong não làm đối tượng thẩm tra đi nữa, cũng không nhà phẫu
thuật não nào biết hình ảnh, thí dụ “màu đỏ”, có ý nghĩa gì đối
với tôi. Chỉ riêng ý nghĩa và một mình ý nghĩa mới là vấn đề. Do
đó, người duy tâm chủ nghĩa nhấn mạnh tính chất phổ quát của
phẩm tính như là những thành tố gốc (original elements) của ý
thức.
6. Tương tác theo quan điểm hiện đại
Chưa ổn thỏa
Như đã nêu ý kiến ở một đoạn trên, mô tả tổng quát vừa rồi về
lối tiếp cận có tính triết học và đa dạng vào ý nghĩa của phẩm
tính có lẽ gây thêm nhiều vấn đề hơn là giải quyết vấn đề.
Ðây là một lãnh vực tra vấn cực kỳ quan trọng cho việc am hiểu
bản tính của thế giới nhưng lại không đạt tới các kết luận ổn
thỏa. Do đó, nó làm thành một thách đố cho những ai khắc khoải
muốn phanh phui bí mật của thiên nhiên.
Phẩm tính và toàn bộ hoàn cảnh
Mặt khác, người ta có thể đồng ý một cách khái quát rằng vấn đề
được khoa học mang bản sắc Galileo và khoa học mang bản sắc
Newton nêu lên về sự khác biệt giữa thế giới vật chất và thế
giới tinh thần có thể nói là đã biến mất. Sự tách đôi bản tính
vốn biểu hiện một sự trừu tượng hóa và một khái niệm về bản tính
đặt cơ sở trên định nghĩa hẹp hòi về vật chất, nay không còn
được xem là thích đáng.
Vì hầu hết các học thuyết hiện đại đều bao hàm một lý thuyết
tổng quát nào đó về sự tương tác (interaction) giữa vật và môi
trường, nên có thể đưa tới ý tưởng rằng tất cả các lý thuyết ấy
đều đồng thuận, trong chừng mực nào đó, phẩm tính là chức năng
của toàn bộ hoàn cảnh trong đó bao gồm đối tượng (khách thể),
trung gian truyền đạt, và người nhận thức (chủ thể). Trong các
thành tố làm nên toàn bộ hoàn cảnh ấy, nếu mất đi một thành tố
thì mất luôn ý nghĩa bản tính có phẩm tính của hiện hữu
(qualitative nature of existence).
Nếu lý thuyết tương tác này đúng thì hoàn toàn sai khi nói rằng
đối tượng có phẩm tính độc lập trong quan hệ với các vật khác,
hoặc rằng sự hiện hữu của phẩm tính chỉ lệ thuộc vào hoạt động
của người nhận thức.
V. Tóm lược
Thế giới của phẩm tính Không
thành vấn đề việc chúng ta chấp nhận cái nào trong những thông
giải vừa kể, vì một khi đã chấp nhận một cái có nghĩa chúng ta
đã quyết định chiều hướng thông giải mang tính triết học của
mình về thế giới.
Ðối với kinh nghiệm bình thường, thế giới là thế giới của phẩm
tính. Nếu phẩm tính hiện hữu trong các đối tượng ngoại tại của
thế giới ngoại tại và độc lập với người nhận thức, lúc đó chúng
ta phải thông giải bản thể theo truyền thống *duy thực chủ nghĩa
(realism).
Vật là dấu hiệu của thao tác
Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm cho rằng phẩm tính chỉ là dấu
hiệu của thao tác khả thi thì vấn nạn về tính cố hữu của chúng
trong bản thể là một vấn nạn vô nghĩa. Lúc đó, các đối tượng của
kinh nghiệm không là cái gì đó được cung cấp cho chúng ta; đúng
hơn, ta sẽ xem chúng như được lập thành bởi sự quan sát các thao
tác khả thi, và ta sẽ định nghĩa vật như một hội tụ các tiềm
năng hoạt động.
Trong khi định nghĩa một đối tượng, các nhà khoa học đều có
trong tâm trí mình những thao tác khả thi trong các hoàn cảnh
khác nhau. Ðiều này đặc biệt đúng trong hóa học. Như thế, “vật”
là dấu hiệu của thao tác thực hiện được hoặc có thể thực hiện.
Vật là thông giải
Nếu đồng ý với người duy tâm chủ nghĩa, chúng ta phải cho rằng
đối với mỗi người, thế giới là cái gì đó không độc lập với người
nhận thức nhưng đúng hơn, là cái gì đó được lập nên qua sự thông
giải cái được cung cấp tức thời trong kinh nghiệm.
Lúc đó, đối với mỗi người chúng ta, thế giới sẽ tương đương với
một hệ thống các ý nghĩa. Hiểu theo lối này, nó có phần nào
giống với khoa học được quan niệm như một hệ thống các ý nghĩa
với tính nhất quán trọn vẹn và toàn diện đạt tới mức lý tưởng.
Khi phát hiện các sự kiện mới mẻ, chúng được đưa vào một hệ
thống khoa học cho dẫu việc tiếp nhận cái mới đó có thể tạo nên
tình trạng không nhất quán hoặc mâu thuẫn.
Thật sự sở hữu tri thức
Nhưng khoa học không thể tiếp tục an tâm với tình trạng mâu
thuẫn. Và ta có thể đi tìm giải pháp bằng cách xét lại để đề ra
một lý thuyết khoa học nhất quán và toàn diện hơn hầu loại bỏ
mâu thuẫn, và qua đó, tiến lên vị trí cao hơn. Ðối với người duy
tâm chủ nghĩa, đó là cách mà toàn bộ kinh nghiệm, toàn bộ tri
thức của chúng ta tăng trưởng.
Cũng một kiểu mẫu giống y như thế được minh họa trong quá trình
phát triển cá nhân khi chúng ta tăng trưởng trong tri thức và
trở thành người có giáo dục. Nhiều người trong chúng ta không
đạt tới lý tưởng khoa học vì cứ mãi bảo lưu các ý tưởng xung
khắc nhau và không cảm thấy cơn thôi thúc không cưỡng nổi, đòi
hỏi phải nhất quán trọn vẹn.
Tuy thế chỉ khi nào chúng ta nỗ lực khắc phục các lập trường mâu
thuẫn nhau bằng những thông giải thích đáng hơn và bằng các
nguyên tắc nhất quán hơn, lúc đó chúng ta mới thật sự cho rằng
mình đang sở hữu tri thức.
Vấn đề là thông giải
Toàn bộ việc biết chỉ là vấn đề thông giải. Khái niệm đó về tri
thức có nghĩa rằng các phẩm tính đơn giản như “vàng” và “ngọt”
không được cung cấp mà chỉ là những cái tương đương của toàn bộ
tiến trình thông giải. Hoặc nói một cách độc đáo hơn, như triết
gia xã hội và phê bình văn hóa *hậu hiện đại chủ nghĩa người
Pháp *Jean Baudrillard (1929-2004) rằng chúng ta đang sống trong
thế giới của các hình ảnh nhưng chúng chỉ là những bản-thế-vì
(simulations) cho các hình ảnh ấy.
Các phẩm tính đơn giản biểu hiện cấp độ thấp nhất hoặc những
khởi đầu. Hết thảy những phẩm tính đều là những thông giải về
cái được cung cấp. Các phẩm tính đơn giản có tính khách quan
không kém bất cứ thành tố nào của khác kinh nghiệm trong ý nghĩa
rằng nếu chúng ta đáp ứng đầy đủ hoặc muốn hiểu rõ thế giới,
chúng ta phải đưa ra những thông giải nhất định. Những kẻ có khả
năng ấy và được đào tạo đều có thể đưa ra những thông giải ấy.
Và cái đúng ở cấp độ này cũng đúng trong toàn bộ phạm vi kinh
nghiệm.
Trải nghiệm và thế giới
Ðể khép lại chương này, có lẽ cách tốt là nên thêm lần nữa đề
cập tới các giới hạn do những đường biên của kinh nghiệm phẩm
tính đặt ra cho chúng ta. Dù chúng ta thông giải phẩm tính ra
sao đi nữa, chúng vẫn là những thành phần căn bản cấu thành thế
giới. Và đối với chúng ta, thế giới không thể nào lớn hơn những
giới hạn của kinh nghiệm phẩm tính của chúng ta.
Có một thực tế được nhiều người biết rõ, đó là có nhiều phẩm
tính nằm ngay trong phạm vi các khả năng của chúng ta mà chúng
ta không biết tới. Ðó là những phẩm tính mà bằng bước nhảy khiêm
tốn nhất, chúng ta thoát ra khỏi tình trạng quan sát hời hợt.
Cũng đúng như thế trong âm nhạc, lỗ tai không thành thạo thì để
vuột mất hầu hết những gì kỳ diệu vì nó không thể nào phân biệt
và phân tích các âm thanh phức hợp.
Ðánh thức các giác quan
Cái đúng trong thiên nhiên và nghệ thuật thì cũng đúng trong
toàn bộ kinh nghiệm của chúng ta. Nếu muốn đánh giá thế giới
đúng như nó thật sự đang là và trong những giới hạn năng lực của
mình, chúng ta phải đánh thức tính hiếu kỳ và niềm mong muốn
được thao luyện các giác quan hiện chưa rành phân biệt của mình.
Chỉ mới với hai giác quan thôi mà chúng ta đã biết tới cái đẹp
của màu sắc và của âm thanh. Còn nữa, bằng sự tập trung vào
chúng và qua chúng, chúng ta biến hóa thế giới và thưởng thức
nó. Thế giới chỉ được vén lộ bằng trải nghiệm phẩm tính của nó,
và sự tinh tế trong cách kết cấu của thế giới chỉ được nhìn rõ
và tiếp nhận bởi những ai có nhận thức nhạy bén.
Nguyễn Ước
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|