Bàn về Lượng tính
I. Phẩm tính và lượng tính
II. Những tiêu chuẩn và áp dụng của toán học
III. Tóm lược
IV. Kết
luận
I.
Phẩm tính và lượng tính
1. Ðặt vấn đề
Tầm quan trọng của lượng tính
Nhà thiên văn học người Anh Arthur Eddington nghĩ rằng trong vật
lý học, các nhà khảo sát thường đối xử không công bằng với sinh
viên của họ. Trong cuốn The Nature of Physical World (Bản
tính của thế giới vật lý, 1918, t.224), ông viết:
“Nếu chúng ta lục lọi các hồ sơ khảo cứu trong vật
lý học (physics) và trong triết học tự nhiên (natural
philosophy) để tìm những vấn nạn có thể dễ hiểu hơn, chúng ta sẽ
tình cờ bắt gặp một nhập đề nào đó theo kiểu thế này: ‘Con voi
lướt đi êm ái trên triền đồi mượt cỏ...’ Ðối với các cứu cánh
của vật lý học, con voi ấy không thích đáng, và triền đồi mượt
cỏ cũng không thích đáng. Những cái duy nhất làm thành vấn đề là
chúng ta có ‘một khối lượng nặng hai tấn’ và một độ dốc, hãy cứ
cho là 60 độ. Nói cách khác, càng sớm buông bỏ những đánh giá về
phẩm tính (quality) mà đi vào những sự kiện hoàn toàn lượng tính
(quantity), chúng ta sẽ càng đi nhanh vào vấn đề. Ðiều ấy cho
thấy rằng ít nhất đối với vật lý học, lượng tính hoàn toàn quan
trọng còn phẩm tính chỉ làm cho lầm đường lạc nẻo”.
Khoa học tiến nhờ toán học
Những lời ấy nghe quá lạ lùng vì trong chương 3 vừa rồi, tuy chỉ
mới định nghĩa các phẩm tính, chúng ta đã kết thúc với những
dòng chữ nhấn mạnh rằng chúng là cơ sở để qua đó chúng ta có
được tri thức về thế giới. Tuy thế, đối với người sống trong thế
giới khoa học, những lời của Eddington chẳng chút nào lạ lùng.
Từng có thời các nhà khoa học dùng toán học như một
công cụ để khám phá, và không có cái gì có thể ngăn cản đà tiến
bộ nhanh chóng của khoa học. Trong suốt khoảng bốn trăm năm tính
từ thời Galileo vào đầu thế kỷ 17 cho tới nay, bằng cách dùng
toán học, các nhà khoa học đã biết nhiều hơn về thiên nhiên và
vũ trụ hơn hết thảy các tiền bối của họ suốt mấy ngàn năm trước.
Ngày nay, với sự hỗ trợ của năng lực toán học, con
người có những máy móc kỹ nghệ và công nghệ tin học, khám phá
những nơi chốn sâu hơn, xa hơn và cao hơn của thế gian. Hai
khuôn mặt tiêu biểu cho năng lực diệu kỳ của toán học là Albert
Einstein với cây bút chì và Stephen Hawking với bàn phím máy vi
tính. Cũng nhờ toán học, con người giữ đúng giờ hẹn trên không
gian bao la, đặt chân xuống mặt trăng, thả người máy xuống sao
Hỏa, chụp hình sao Thủy, v.v. Nếu không có toán học, chắc chắn
không có máy vi tính, điện thoại di động, các vệ tinh viễn
thông, v.v. Và giờ đây, không hoang tưởng chút nào về giấc mơ
một ngày nào đó không xa, con người sẽ đến định cư tại một hành
tinh nào đó, như trong các bộ phim khoa học giả tưởng hiện nay.
2. Cần nguyên lý trật tự
Hệ thống và nguyên tắc
Lúc này, chúng ta đã thấy rằng vạn vật (things) và
các biến cố (events) là những hệ thống các phẩm tính (systems of
qualities) và rằng thiên nhiên (nature) là một hệ thống các biến
cố (systems of events). Dù định nghĩa phẩm tính là gì đi nữa,
điều rõ ràng là chúng không có xu hướng phối hợp nhau một cách
tự nhiên.
Không có lý do rõ rệt nào cho thấy tại sao cái vàng,
cái ngọt và cái tròn phải cùng nhau xuất hiện trong trái ổi. Thế
nhưng, nếu không có nguyên lý tổ chức nào đó hoặc nguyên lý trật
tự nào đó thì không thể có các đối vật và thiên nhiên. Do đó,
chúng ta buộc lòng phải chú ý nhiều hơn đến những gì liên quan
tới “hệ thống”
Ðộc lập và đo lường được
Chừng nào còn có thể rút tỉa từ vạn vật và thiên nhiên ra các
nguyên lý trật tự, chừng đó sự đánh giá có tính toán học về
chúng còn khả thi. Ðó là điều đã và đang xảy ra. Galileo phát
hiện rằng cuộc thẩm tra của mình về gia tốc hoàn toàn độc lập
với các vật thể được quan sát. Ông chỉ cần đánh dấu thời gian
cần thiết cho một đối tượng đi qua các chiều dài không gian khác
nhau là đủ.
Trước thời Galileo, các nhà khoa học đặt trọng tâm
trên phẩm tính của đối tượng, cách riêng những phẩm tính cốt
lõi, hoặc yếu tính, hoặc bản tính của vật. Việc ấy dẫn tới sự
phân loại các đối tượng theo từng chủng loại riêng biệt. Phần
lớn khoa học vẫn còn mang tính phẩm tính theo ý nghĩa công tác
chủ yếu của nó là phân loại, thí dụ thực vật học (botany), nhưng
lý tưởng của toàn bộ khoa học hiện đại là thay thế sự phân loại
bằng đo lường, càng nhiều càng tốt.
3. Nguồn gốc của khoa học thực nghiệm
Thí nghiệm và toán học
Chẳng quá đáng chút nào khi nói rằng Galileo đã đề ra các yêu
cầu căn bản cho khoa học hiện đại khi ông thay thế sự quan sát
đơn giản bằng thí nghiệm hoặc quan sát có kiểm soát và nhấn mạnh
tầm quan trọng của toán học.
Ðối với Galileo, toán học có thể khiến cho ta có
được lời phát biểu chính xác về tương quan giữa các biến cố được
khám phá bằng thí nghiệm, và đồng thời, dẫn tới những khám phá
mới bằng các khí cụ toán học để suy ra những kết luận mới từ tri
thức và lập thành công thức toán học.
Từ cổ đại Hy Lạp
Về mặt lịch sử, hẳn không hoàn toàn đúng khi nói rằng Galileo đã
vì các lý do đó mà chấp nhận những phương pháp ấy. Thật ra, ông
là kẻ phục hồi một truyền thống từng thịnh hành trong một số
triết gia Hi Lạp trước thời Aristotle.
Bị đánh động bởi tương quan giữa chiều dài khác nhau
của dây và các nốt nhạc được đánh lên, Pythagoras, thế kỷ 6
trước C.N. nêu ý tưởng rằng toán học là cơ sở thật sự của vũ
trụ: “Vạn vật được làm thành bởi những con số”. Với lời tuyên bố
rằng người không có kiến thức về hình học thì không thể tiến xa
trong triết học, *Plato (k.428-347 tr.C.N.) tỏ ra chịu ảnh hưởng
rất lớn của Pythagoras.
Galileo và cấu trúc toán học
Galileo là người mang bản sắc Plato hơn bản sắc
Aristotle, môn sinh của Plato. Sự nhấn mạnh của ông lên cấu trúc
có tính toán học của thiên nhiên hoàn toàn nhất quán với triết
học của ông. Sở thích ấy của ông cực kỳ may mắn: nó không những
cho phép ông đặt chân lên các lối đi rất bảo đảm trong ngành
khoa học của chính ông mà còn khiến cho ông có khả năng đặt nền
tảng cho một phong trào từ ông, đi qua Newton sang Einstein tới
Hawking cùng tri thức khoa học tiên tiến của thế kỷ 20 vừa qua
và sẽ còn nữa.
Một số câu chuyện kể về Galileo và các cộng sự viên
của ông rõ ràng là ngụy tạo nhưng kinh nghiệm của ông về *Tòa án
Dị giáo (Inquisition) là chỉ dấu trung thực lối tiếp cận mới mẻ
của họ, khác một cách rõ rệt với những lối tiếp cận trước đó.
Ảnh hưởng cùa Aristotle
Khoa học thời Trung cổ ít để ý tới thí nghiệm; nó đặt cơ sở trên
*luận lý học hình thức (formal logic) như một công cụ dùng để
khám phá và chủ yếu dựa trên việc thông giải văn bản của các tác
giả khác. Công trình toán học bị cản trở bởi lý thuyết về các
nguyên nhân cứu cánh (hoặc tối hậu, final causes) và những quả
quyết triết lý về bản tính của vũ trụ.
Aristotle cung cấp sức đẩy tiên khởi cho phương pháp
đó. Ông từng nêu ý kiến rằng khi hòn đá rơi xuống và ngọn lửa
bốc lên, chúng ứng xử đúng như chúng phải làm vì chúng đang tìm
kiếm vị trí tự nhiên của chúng. Các ngôi sao trên trời hoàn hảo
trong bản tính của chúng và chúng được kỳ vọng di chuyển theo
những đường đi hoàn hảo. Bởi vì vòng tròn là cái không bắt đầu
cũng chẳng kết thúc nên nó là dạng hoàn hảo nhất, do đó tinh tú
trên trời di chuyển theo đường tròn.
Xuất từ đó ta có quan điểm của Claudius Ptolemaneus,
thường gọi là *Ptolemy. Ông là nhà thiên văn, địa lý và toán học
Hi Lạp làm việc tại thư viện vĩ đại
Alexandria
(Ai Cập). Ông cho rằng trái đất được bao quanh bởi các hành tinh
chuyển động theo hình rất tròn. Chủ trương ấy thịnh hành kể từ
năm 127 tới năm 141 hoặc 151 sau C.N., và khống chế cho tới thế
kỷ 16, bất chấp sự xuất hiện quan điểm thiên văn học của Nicolas
Copernicus.
Dấu ấn Galileo
Các minh họa vừa kể cho thấy nguy cơ của một nền khoa học hoàn
toàn mang bản sắc *duy lý chủ nghĩa (rationalism) mà không được
sửa chữa bằng sự quan sát liên tục và thí nghiệm; Galileo bác bỏ
lối tiếp cận đó. Và kể từ thời của ông, dấu hiệu của một nhà
khoa học chân chính là sự tùy thuộc vào thí nghiệm và toán học.
4. Lợi thế của toán học
Ba lợi thế
Như một công cụ của khoa học, toán học có tới ba lợi
thế:
1. Các kết quả của thí nghiệm một khi được diễn tả
bằng thuật ngữ toán học, chúng có khả năng cho ta kiến thức
chính xác. Hết thảy những thành tố phức tạp có thể bị loại trừ
hoặc gạt sang một bên, và bất cứ cái nào không thể rút gọn thành
ký hiệu toán học đều có thể bị xem là còn phức tạp. Do đó, trong
truyền thống
Newton,
chỉ những phẩm tính cấp một đo lường được mới có khả năng đứng
vững. Chúng ta thấy khái niệm này được phản ánh trong sự phân
biệt các phẩm tính cấp một và cấp hai.
2. Một khi được sử dụng, toán học có khả năng đưa ra
lời tiên đoán bằng cách tính toán những nội hàm toán học
(mathemathical implications) của các kết quả đạt được. Toán học
tiến hành bằng những cái thay thế, dẫn tới cái nhìn xuyên suốt
mới và gợi ra các thí nghiệm mới. Trong vật lý học cao cấp,
những cuộc mạo hiểm mới đây gần như hoàn toàn có tính toán học,
tuy thế, chúng đưa ra những dự báo khả thi về hoạt động của các
hiện tượng có thể kiểm tra và xác nhận một khi các nhà khoa học
biết cái mình đang tìm kiếm.
3. Từ nửa cuối thế kỷ 20 tới nay, toán học chiếm
lĩnh chiến trường, đặc biệt trong các ngành cao kỹ, công nghệ
thông tin, khoa học không gian, vật lý và kỹ thuật vi hạt nhân,
v.v. Nhà khoa học càng ngày càng chính xác hơn và tinh tiến hơn,
ngược lại, quan sát trực tiếp hoặc thí nghiệm càng ngày càng góp
phần ít hơn vào quá trình tiến bộ ấy. Nhà khoa học càng ngày
càng tùy thuộc nhiều hơn vào các ký hiệu toán học và tùy thuộc
ít hơn vào công tác quan sát, ngoại trừ để xác minh. Arthur
Eddington lập luận rằng vật lý học hiện đại chỉ ứng xử với các
ký hiệu và rằng cái vẻ bên ngoài của cách xử lý các vật có thật
chỉ là ảo giác. Những tiến bộ trong các phạm vi như cơ học lượng
tử (quantum mechanics) gần như hoàn toàn mang tính toán học. Và
những kẻ không quen thuộc với toán học đều gặp trở ngại, không
thể thâm nhập những bí mật sâu xa nhất của thiên nhiên.
Diệu dụng của toán học
Bằng cách làm cho con người có khả năng chuyển tải
các suy tưởng của nó đi xa hơn bao giờ hết, bằng việc có khả
năng gợi mở những con đường mới cho cuộc tìm kiếm, và bằng cách
cung ứng công thức cho các kết quả thẩm tra, toán học đã và đang
gia tăng quyền làm chủ của con người trên thiên nhiên đồng thời
mở ra cho con người kho tàng tri thức bao la hơn bất cứ những gì
mà các nhà tư tưởng thuở trước mơ tưởng.
Toán học là công cụ chính của Einstein. Nhà vật lý
lý thuyết Stephen Hawking, bằng các công trình toán học, thông
qua bàn phím máy điện toán, đã đưa ra những lý thuyết nổi tiếng
về hố đen vũ trụ, tác động của vụ nổ Big Bang, v.v. Ðối với một
số giáo sư và sinh viên khoa toán, không có bức tranh nào “đẹp
tuyệt vời và tao nhã” cho bằng hình ảnh của một chuỗi cả chục
hàng phương trình toán học trên tấm bảng màu xanh lục trong
giảng đường!
Công cụ toán học dường như là chìa khóa phép lạ mở
cánh cửa bước vào miền đất phì nhiêu, phong phú những bí mật của
thế giới. Chính toán học, hơn bất cứ môn học nào khác, biến thời
đại này thành thời đại khoa học công nghiệp, không gian, hạt
nhân, điện tử, vi tính, v.v. và củng cố lòng tự tin của con
người, cái vẫn chưa có thể cắt nghĩa. Và cuối cùng, toán học sẽ
mang niềm tự tin ấy vào trong phạm vi tri thức của chúng ta vì ở
đó dường như không có giới hạn nào cho những kỳ công mà khoa học
mang tính toán học có thể thực hiện.
5. Toán học và lượng tính
Phải cần tới phẩm tính
Có lẽ trước hết, phải nói rõ là các xem xét về lượng
tính không thể không cần tới ít nhiều thông tin về phẩm tính.
Không thể đếm hoặc cân đo chính xác một vật nếu vật ấy không có
một phẩm tính nào đó hoặc có chung với nhau các phẩm tính nhất
định.
Chúng ta không thể nói trong rỗ này có 12 trái ổi
nếu đối tượng chúng ta đếm không phải là 12 trái ổi, cho dù nói
theo kiểu “lục tỉnh miền tây” đôi khi đó là một “chục mười hai”
hoặc mười ba mười bốn! Nếu có ai đó chọc quê chúng ta, cho vào
rỗ ấy 12 trái cóc hoặc một số trái cóc thay cho ổi, chúng ta sẽ
phải đổi từ ngữ và gọi chúng là 12 trái cóc hoặc 12 trái cây.
Từ ngữ “trái cây” dù không chính xác như “trái ổi”,
“trái cóc” nhưng cứu được chúng ta ra khỏi hoạt cảnh bẽ bàng tại
chỗ. Dù với bất cứ từ ngữ nào, nếu được dùng một cách thích
đáng, vẫn chỉ tới sự có mặt của một số phẩm tính trong các đối
tượng được đo lường.
Người đầu óc bình thường không đưa ngón tay chỉ lên
ngọn Tháp Bút hay chỉ xuống mặt nước Hồ Gươm rồi đếm một, hai,
ba... mà trước mắt không có đối tượng nhất định. Hành động đếm
chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết rõ mình đang đếm cái gì, nghĩa
là hành động ấy phải đặt căn bản trên sự phân biệt nào đó về
phẩm tính.
Ðơn vị chung phẩm tính
Không cần phải xem xét hết tất cả các phẩm tính có
sẵn. Trong khi đếm, số lượng các phẩm tính mà chúng ta cần có
thường được quyết định bởi lợi ích của chúng. Nếu chúng ta bán
rau muống cho người mua về nuôi heo, chúng ta sẽ chọn xem loại
rau muống nào có chung một số đặc điểm nhất định, không cần phải
xem chúng dài hay ngắn bằng nhau, còn tươi hay đã héo, già hay
non một chút, v.v.
Những phân biệt ấy chỉ thành vấn đề khi chúng ta đem
rau muống ra chợ bán cho người ta mua về ăn: xào, luộc hay làm
rau sống, ăn bún riêu, v.v. Tuy nhiên, sự sở hữu đơn thuần một
phẩm tính chung chỉ mới là cơ sở ắt có chứ chưa đủ cho mọi hành
động đếm. Vì như đã nói ở trên, điều quan trọng cần nhớ là không
thể có hành động đếm nếu không có các đối tượng gồm những đơn
vị riêng biệt đang sở hữu một hay một số phẩm tính chung.
Ðơn giản hóa phẩm tính
Chính sự rút bớt các phẩm tính, càng nhiều càng tốt,
mới gia tăng tính chính xác cho các kỹ thuật toán học. Trong
cuộc kiểm tra dân số, mọi cá nhân đều được đối xử như những đơn
vị riêng biệt và rất dễ đếm. Công việc bắt đầu phức tạp khi bản
kê khai phải ghi thêm niềm tin chính trị, thí dụ dân chủ hay
quân chủ hay đảng phái nào, niềm tin tôn giáo, thí dụ theo đạo
nào, và lý tưởng đạo đức, thí dụ trả lời một số câu hỏi về luân
lý.
Các ngành khoa học xã hội không có khả năng đạt tới
sự chắc chắn trong các khám phá của mình giống như khoa học tự
nhiên, vì khoa học xã hội không thể ứng xử với con người như
những ký hiệu thuần túy toán học. Có vẻ con thuyền khoa học xã
hội sẽ mãi mãi lơ lửng giữa dòng sông phẩm tính và không bao giờ
“đáo bỉ ngạn”, vượt thoát lên hai bên bờ bất định được lập thành
bởi những phức tạp ấy.
6. Việc đếm
Từ thượng cổ đã đếm
Ðếm là một thành tựu mà loài người đạt được từ thời
thượng cổ. Thuở con người còn sống đời du mục, chăn cừu hoặc
chăn các súc vật khác, mục tử phải đếm bầy súc vật từng con một
đang đi trong bầy đàn, và các loại đối tượng khác. Có lẽ thuở
ấy, tổ tiên của chúng ta dùng các viên sỏi.
Hoàng hôn xuống, lùa đàn súc vật trở về, cứ mỗi con
vô chuồng hoặc vô bãi đất trống có rào bằng đá hay gỗ bọc quanh,
mục tử lấy một hòn sỏi từ trong tổng số các hòn sỏi tương ứng
với tổng số các con vật, rồi thả từng hòn xuống đất. Nếu hết con
này tới con khác lần lượt vô chuồng cho tới khi trong bọc không
còn hòn sỏi nào, người chăn bầy mới yên chí đi về nhà mình. Nếu
đàn súc vật đã vào hết mà trong bọc hoặc trên tay còn, thí dụ
một hòn sỏi, tức là đang thiếu một con. Mục tử phải lập tức đi
tìm con vật thất lạc ấy.
Ðó là ở phương Tây, còn ở Viễn Ðông, người Trung Hoa
tin rằng tổ tiên của họ thắt dây thừng làm gút mà đếm khi giao
dịch. Có bao nhiêu vật thì có bấy nhiêu gút. Dần dà từ các gút
ấy tiến lên các bàn toán phức tạp hơn làm thành hình dạng và
thành cách sử dụng bàn toán của người Trung Hoa. Ngày nay, nhìn
các hạt trong bàn toán, ta không khỏi liên tưởng tới hình dạng
các gút dây thừng!
Khi nhiều quá và phức tạp
Chừng nào các số đếm không lớn quá cũng như chừng
nào không có quá nhiều loại đối tượng được đếm khác nhau, chừng
đó các hệ thống ấy còn thao tác mà không gặp quá đổi khó khăn.
Khi các đối tượng tăng thêm hoặc trở nên đa tạp hơn, phát sinh
vấn đề và đòi hỏi phải phát triển thiết bị mới.
Tới lúc người ta khám phá ra các con số thì có thể
buông bỏ hệ thống đếm cồng kềnh ấy bằng cách viện dẫn các đối
tượng khác. Và đồng thời để đạt được cũng một cứu cánh ấy bằng
sự tương ứng với các ký hiệu có thể mang theo trong đầu để áp
dụng cho nhiều loại đối tượng khác nhau mà không bị lẫn lộn.
Dưới bầu trời Tây, chừng nào các viên sỏi còn quan
hệ hỗ tương với các con cừu, chừng đó người ta còn không thể
dùng chúng để kiểm tra các vật khác mà không có nguy cơ lẫn lộn
thật sự. Ngược lại, đối với các con số, chúng ta có thể áp dụng
chúng cho bất cứ đối tượng nào đáp ứng được yêu cầu của kỹ thuật
toán học mà không gặp nguy cơ nào giống như thế.
Lịch sử con số
Không cách gì biết rõ ai là người đầu tiên rút tỉa
các con số từ các đối tượng cụ thể, nhưng bằng việc tách hành
động đếm ra khỏi các khí cụ cồng kềnh như sỏi hoặc dây thừng,
người ấy đã phát triển một khí cụ tổng quát, hữu dụng và đặt nền
tảng cho toán học.
Không biết tổ tiên loài người phải mất bao nhiêu
thời gian để đi từ việc phát minh con số tới việc thiết lập các
hệ thống chữ số có khả năng khảo sát tương quan giữa bản thân
các con số. Với các phương tiện cồng kềnh trước đó như viên sỏi
hoặc gút dây thừng, hẳn họ cảm thấy cực kỳ khó khăn khi phải
khám phá tương quan giữa các con số.
Thế rồi có sự xuất hiện ký hiệu A Rập, và đó là tiến
bộ quan trọng nhất. Lợi thế độc đáo của ký hiệu A Rập chính là
ký hiệu của vị trí. Như thế, 5 trong con số 51 không còn tiêu
biểu cho 5 mà là 50, và cứ thế đối với các vị trí khác. Sự kiện
ấy khiến cho việc phát minh con số không (dê-rô) trở thành thiết
yếu. Chừng nào con người còn cân đo đong đếm các đối tượng cụ
thể bằng các vật cụ thể thì không thể có khái niệm về con số
dê-rô. Các nhà toán học thuở ấy nghĩ tới con số như được phát
sinh từ một đơn vị.
Số dê-rô vĩ đại
Rõ ràng ký hiệu A Rập đòi hỏi phải có con số dê-rô,
bằng không hẳn có một lỗ trống bất khả thi giữa 49 và 51. Hoàn
toàn có khả năng con số dê-rô được phát minh cho mục đích đó. Nó
là một trong những phát minh sinh lợi nhiều nhất của một nhà
thiên tài toán học Ấn Ðộ. Cũng có khả năng số dê-rô ban đầu chỉ
là “khoanh một cái” vào giữa các dãy số để nhớ ở đây “có một
cái”. Lâu dần, hình ảnh “cái khoanh tròn” ấy dùng làm con số
dê-rô, rồi được kết hợp quá đổi tài tình thành con số chục.
Số dê-rô mở ra những khả thi mới cho các thao tác
trên những con số và nó cho nhà toán học quyền năng mới. Tầm
quan trọng của con số dê-rô mới mẻ ấy đã được chứng minh phần
nào trong các phương trình toán học hay vị trí của nó như một
điểm gốc cho các trục tung và hoành trong một hệ thống các tọa
độ.
7. Số thứ tự
Có thể dùng các con số để chỉ thứ tự hoặc vị trí
trong một chuỗi. Ðược dùng theo lối ấy, người ta gọi chúng là số
thứ tự (ordinal numbers). Giám khảo một cuộc thi luận văn sẽ đặt
các bài luận theo cái mà ông xem là thứ tự tưởng thưởng chúng.
Ông có thể đặt cho bài hay nhất là số 1 (đệ nhất), kế bài hay
nhất là số 2 (đệ nhị), và cứ thế. Trong trường hợp nay, con số
nhỏ nhất là bài hay nhất. Thứ tự của các con số (đệ) chỉ cho
thấy thứ tự tưởng thưởng của bài được đánh số.
Chúng ta sẽ vô lý nếu từ việc đánh số ấy của giám
khảo mà suy diễn rằng bài luận được đánh số 1 thì dài gấp đôi
hoặc hay gấp đôi bài được đánh số 2, cũng như dài hoặc hay gấp
ba bài được đánh số 3 (đệ tam). Thậm chí vô lý hơn nữa nếu giả
dụ có hai bài luận có chất lượng, được đánh số 2, ta đem cộng
chúng lại rồi bảo chúng ngang với bài luận có chất lượng được
đánh số 4 (đệ tứ).
Ở đây, các con số được dùng để chỉ thứ tự hay để
tưởng thưởng; chúng cũng hoàn toàn không có ngụ ý về việc được
thưởng bao nhiêu so với các bài luận khác nhau. Hệ quả là, khi
các con số được dùng theo số thứ tự, người ta không thể cộng,
trừ, nhân hoặc chia chúng. Tất cả chỉ là vấn đề thứ tự của các
con số phải chỉ thứ tự của các vật được đánh số theo một nguyên
tắc thiết lập trật tự nào đó.
8. Số bản số
Chúng ta cũng có thể sử dụng các con số làm các số
bản số (cardinals). Chúng được dùng để tiêu biểu cho tương quan
xác định, cùng một kiểu và có thể đo lường lượng tính. Nếu chúng
ta ấn định cho Sài Gòn con số 1, Ðà Nẵng con số 2 và Hà Nội con
số 3, thì cả ba con số ấy chỉ thứ tự theo đó chúng ta sẽ lần
lượt gặp ba thành phố ấy trong cuộc hành trình xuyên Việt đi từ
nam ra bắc.
Tuy thế, nếu chúng ta đánh số Sài Gòn là con số 0,
Vĩnh Long (thí dụ) là con số 100, Cần Thơ (thí dụ) là con số 200
(với ý định để giản dị hóa, các con số này tiêu biểu cho số đoạn
đường tính bằng cây số giữa các thành phố ấy). Lúc đó chúng ta
nên dùng các con số để chỉ điều ấy nếu chúng ta dùng cây số
(kilô mét) làm đơn vị bằng 1 rồi 100 của đơn vị ấy nằm giữa Sài
Gòn và Vĩnh Long, và 200 giữa Sài Gòn và Cần Thơ. Chúng ta có
thể cộng các con số ấy với nhau hoặc chúng ta có thể trừ chúng.
Thí dụ 200 trừ 100 thì khoảng cách giữa Vĩnh Long cà
Cần Thơ là 100 cây số, hoặc chúng ta có thể chia chúng và nói
rằng khoảng cách từ Sài Gòn với Vĩnh Long bằng một nửa khoảng
cách từ Sài Gòn với Cần Thơ. Lúc đó, các số bản số chỉ cho chúng
ta thấy không những thứ tự của các vật chúng áp dụng mà còn con
số của các đơn vị đồng nhất và xác định giữa các vật mà chúng áp
dụng.
9. Ðại lượng bao quát và đại lượng cường độ
Ðại lượng bao quát
Về mặt bản số, không phải hết thảy các loại của vật
đều có thể được đánh số. Các đại lượng (magnitudes) có thể đo
lường bằng số bản số được gọi là những đại lượng bao quát
(extensive magnitudes). Khoảng cách không gian, kích cỡ và vị
trí là những thí dụ rõ ràng nhất của đại lượng bao quát. Ðó là
những đại lượng mà ngành khoa học vật lý (physical sciences)
nhận thấy dễ ứng xử với chúng nhất. Chúng cũng là những thí dụ
tốt nhất cho các phẩm tính cấp một.
Ðại lượng cường độ
Các đại lượng có thể đo lường bằng số thứ tự được
gọi là những đại lượng cường độ (intensive magnitudes). Các phẩm
tính cấp hai và cấp ba là những đại lượng cường độ. Chúng ta có
thể sắp xếp một chuỗi màu sắc theo thứ tự độ sáng của chúng hoặc
cường độ của chúng. Chúng ta cũng có thể sắp xếp một nhóm các
nhạc cụ theo thứ tự vẻ đẹp của chúng hoặc theo sở thích của
chúng ta.
Chúng ta không thể nói màu đỏ có cường độ gấp ba lần
màu khác hoặc bản nhạc này, một cách chính xác, hay gấp hai lần
bản nhạc kia. Những cái đó là đại lượng cường độ và không có đơn
vị tiêu chuẩn đo lường màu sắc hoặc thẩm mỹ để căn cứ theo đó
chúng ta có thể ấn định các lượng tính riêng biệt cho từng phẩm
tính.
Cho dẫu như thế, chúng ta vẫn dùng số bản số và các
biện pháp đo lường chính xác lượng tính khi ứng xử với các đại
lượng cường độ. Ngành khoa học vật lý đã khiến cho có thể đo
lường màu sắc và độ sáng bằng chiều dài sóng và cường độ sáng,
âm thanh bằng deciben, nhiệt bằng các đơn vị nhiệt, nồng độ của
dung dịch, và vân vân.
Trong hết thảy các trường hợp ấy, chúng ta cần nhớ
rằng đại lượng cường độ không thể đo lường trực tiếp mà chỉ gián
tiếp qua những tương quan của nó với đại lượng bao quát. Hệ quả
là có những nguy cơ nhất định trong việc thông giải các đo lường
đó nên chúng ta cần phải cảnh giác.
Thí dụ minh họa
Có thể minh họa phương pháp đo lường các đại lượng
cường độ qua tương quan với lượng tính bao quát bằng sự đo lường
nhiệt. Ấm, như chúng ta cảm giác chúng bằng các giác quan trong
da, là một đại lượng cường độ. Chúng ta có thể nói bên trong nhà
ấm hơn bên ngoài, nhưng thật phi lý khi nói rằng bên trong nhà
ấm gấp năm lần bên ngoài.
Cho dù mùa đông tại thành phố Toronto, Canada, nơi
tôi đang sinh sống, nhiệt độ trong nhà tôi nhờ có máy sưỡi nên
thường +23 độ C trong khi nhiệt độ tự nhiên bên ngoài có ngày
xuống tới –35 độ C, nhất là những lúc trời có gió buốt.
Thanh đo và thủy ngân
Ðể đưa tới sự đo lường chính xác bằng các con số,
thông thường chúng ta phải sử dụng que đo – hay thanh đo – nào
đó, thí dụ ống rỗng và một cột thủy ngân. Thủy ngân có đặc tính
dâng lên hay hạ xuống trong ống rỗng theo tỉ lệ giản nở cố định
với thứ tự cường độ ấm. Lúc đó, chúng ta có thể đánh dấu trên
ống rỗng các đơn vị khoảng cách. Do đó, cách đo lường này tùy
thuộc:
a. Trên các đặc tính của thủy ngân, và
b. Trên các con số và các đơn vị được chúng ta ấn
định cho những độ cao khác nhau của thủy ngân trong ống.
Trong những điều kiện nhất định, thủy ngân không đáp
ứng được mục đích đó, ta phải dùng các chất liệu khác. Vì thế,
để đo lường chính xác, chúng ta phải biết thanh đo của mình có
những đặc tính nào; trong trường hợp này là thủy ngân. Về các
đơn vị được dùng trong việc đo lường nhiệt độ, người ta thường
sử dụng hai hệ thống đo lường nó: độ C (Censius hoặc
Centigrade), và độ F (Farenheit). Tại Việt
Nam,
cũng như tại Canada,
dùng độ C; tại Hoa Kỳ dùng độ F.
Nếu nói rằng căn phòng A 66 độï F ấm gấp hai lần căn
phòng B chỉ 33 độ F; câu nói ấy vô nghĩa, vì tương quan giữa hai
con số đó hoàn toàn tùy thuộc vào hệ thống chia độ mà ta sử dụng
lúc đó. Sáu mươi sáu độ F tương đương khoảng 20 độ C, còn 33 độ
F thì tương đương khoảng 1 độ C. Như thế, chúng ta có nên nói
căn phòng A ấm gấp hai lần căn phòng B hay ấm gấp hai chục lần?
Các khó khăn
Ngày nay, với sự phát triển của ngành điện tử, ta có
những dụng cụ cảm ứng đo bằng điện tử và cực kỳ nhạy bén. Tuy
thế, nhiều trường hợp vẫn dùng các dụng cụ cũ, nhất là trong
sinh hoạt đời thường.
Bạn không nên quên những nguy cơ phát sinh từ hai
nguồn ấy – thanh đo và hệ thống chia độ đo – khi chúng ta chạm
trán với những toan tính đo lường chính xác các đại lượng cường
độ.
Chúng ta cũng chạm trán các khó khăn giống như thế
trong những loại đo lường khác nhau, thí dụ đo lường trí thông
minh hoặc đo lường nhân cách trong tâm lý học, hoặc đo lường tài
sản hay khả năng sản xuất trong kinh tế học (economics) và các
giá trị dinh dưỡng trong khoa học về chế độ ăn uống và dinh
dưỡng (dieterics) và còn rất nhiều đối tượng đo lường trong các
bộ môn khác.
10. Ðo lường
Ðơn vị đo lường
Ở dạng đơn giản nhất, đo lường khác với đếm trong
cách xử lý tương quan giữa đối tượng nào đó và dụng cụ đo lường.
Các dụng cụ đo lường có thể có hình thức quen thuộc như thước đo
theo mét hoặc theo yard (centimét hay inch) và nhiệt kế cho tới
các dụng cụ điện tử phức tạp nhất trong khoa học hiện đại.
Ðặc biệt từ năm 1960, có một độ lớn được công nhận là nano, theo
tiếng Hi Lạp có nghĩa là chú lùn. Nano (viết tắt n) là
một tiền tố được viết liền trước một đơn vị đo lường quốc tế để
chỉ đơn vị nhỏ gấp 109 hay 1.000.000.000 lần. Một
nanomét bằng 1 mét chia cho một tỉ hoặc viết là 10-9
mét.
Ðếm và đo lường
Sự phân biệt giữa đếm và đo lường cũng giống với sự
phân biệt đã được chúng ta trình bày, giữa các số thứ tự và số
bản số. Số bản số được dùng trong việc đếm vì chúng có quan hệ
tương ứng một-trên-một giữa các đối tượng và các con số, ngược
lại trong đo lường, chúng ta quan tâm tới con số thứ tự vì đo
lường chủ yếu là vấn đề vị trí trong một chuỗi. Do đó, mỗi dụng
cụ đo lường đều được, bằng một cách nào đó, chia thành từng vạch
– hay từng lằn mức, ngấn hay khấc – tăng dần để có một chuỗi các
vị trí đo lường khả thi.
Vì mục đích của đo lường nên phải cô lập đối tượng
với phần còn lại của thiên nhiên, thí dụ cân tiểu ly để cân vàng
thường được đặt trong lồng kính. Nhưng cũng loại cân ấy, khi
dùng để cân thuốc bắc, người ta thường cầm trên tay. Hoặc giả
trong khi đo cạnh của chiếc bàn, chúng ta xử lý như thể nó hoàn
toàn cô lập, và ta không quan tâm tới nhiệt độ của các cạnh bàn.
Khi cân một bao thóc, chúng ta chỉ quan tâm tới mối liên hệ của
bao thóc và kim chỉ trên bàn cân chứ không để ý đến ảnh hưởng
của các tinh tú hay bất cứ sức mạnh nào khác.
Cô lập, giả định và gia giảm
Trong một số trường hợp, như đối với nhà hóa học,
gần như đạt được sự cô lập hoàn toàn. Nhưng đối với nhiều trường
hợp, sự cô lập chỉ là giả định. Những tính toán sau khi đo lường
sẽ cho phép chúng ta gia giảm ít nhiều. Nhưng nếu không giả định
có sự cô lập, chúng ta không thể nào đo lường.
Tại Viễn Ðông, đo lường trong một số lãnh vực, thí
dụ bổ một toa thuốc đông y hay nấu nướng thức ăn, người ta
thường kết hợp đo lường với sự thêm bớt sau đó, phỏng chừng theo
kinh nghiệm. Thế nên nhiều người quả quyết rằng, hoặc ngộ nhận
rằng giá trị đo lường của người á đông chủ yếu dựa trên khả năng
gia giảm, và vì thế khoa học của người á đông không chính xác!
Trung lập và không tuyệt đối
Trong đo lường, dụng cụ đo lường phải tương đối
không bị tác động bởi vật đo lường và vật đo lường cũng không bị
tác động bởi dụng cụ đo lường. Nếu sử dụng để đo lường, dụng cụ
đo lường phải hoàn toàn trung lập. Thật vô ích khi cân một cục
nước đá trên chiếc cân đang nóng đỏ hừng hực.
Ðôi khi rất khó có thể đạt tới sự trung lập ấy, thí
dụ vít vi kế (micrometer screw) sử dụng áp suất phút nào đó trên
đối tượng đo lường. Tầm quan trọng của tính chất trung lập thì
tương đối so với lợi ích của chúng ta vì có thể trong đời
thường, chúng ta không quan tâm lắm tới sự hoàn toàn chính xác.
Dù đo lường không bao giờ có thể tuyệt đối, nhưng về
mặt lý thuyết, nó luôn luôn có khả năng càng ngày càng trở nên
tinh tế hơn, nhất là từ khi có phát minh các dụng cụ đo lường
cảm ứng bằng điện tử, tuy vẫn có độ dung sai cực nhỏ. Bình
thường, chúng ta có thể phát biểu rằng cái bàn này dài 1.2 mét
nhưng chúng ta không có ý nói chiều dài ấy đúng tuyệt đối. Một
dụng cụ đo lường bén nhạy hơn có thể cho thấy nó dài 1.2011 mét
hay 1.2012 mét, và vân vân. Nếu có hai chục người đo cạnh bàn ấy
với sự hoàn toàn chính xác có thể được thì có khả năng tất cả
những người ấy đưa ra hai chục kết quả khác nhau cực nhỏ.
Tính chủ quan của đo lường
Người ta đo lường để thỏa mãn lợi ích riêng biệt. Và
như đã nói rõ, có thể lợi ích ấy không đòi hỏi độ chính xác cao.
Nếu chúng ta quan tâm tới chiều cao của một người, chúng ta có
thể nói cho hợp với mục đích của mình rằng người ấy cao 1.6 mét,
cho dù tại văn phòng tuyển mộ cảnh sát, người ấy bị từ chối vì
chỉ cao 1.59 mét. Có thể văn phòng tuyển mộ cảnh sát chính xác
hơn nhưng chúng ta không thể nói rằng họ hoàn toàn chính xác vì
rất có thể việc đo lường người ấy có sự sai chạy một centimét.
Lại còn có loại đo lường theo “thốn” trong khoa châm
cứu của người á đông. Ðể đo khoảng cách giữa các huyệt đạo của
một người, người ta dùng thốn. Thốn thường có độ dài ngắn khác
nhau tùy theo mỗi người, vì nó được tính bằng chiều dài của đốt
giữa của ngón giữa trên bàn tay của người ấy!
Cách tính đơn vị trọng lượng cũng khác, một “kilô
tây” (cân tây) thì bằng “10 lạng tây” (100 gram), trong khi “một
cân ta” thì bằng “16 lạng ta” (37.5 gram). Như thế, 1 lạng tây
bằng 2.666... lạng ta, và 1 cân ta bằng 6 lạng tây. Hơn hai mươi
hai thế kỷ trước, ở sân miếu Vũ vương bên Tàu, Hạng Võ cử chiếc
đỉnh nặng khoảng 5.000 cân tức 3.000 kilô tây; sách Hán Sở
tranh hùng kể lại theo lời dân gian truyền tụng là Hạng Võ
“cầm lấy chân đỉnh đưa cao lên trời, đi quanh miếu ba vòng mà
sắc mặt vẫn không thay đổi” (bản dịch của Mộng Bình Sơn). Quả là
sức mạnh xưa nay cực hiếm!
Ðo lường bằng điện tử
Nếu cứ đi theo lối ấy, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ
vượt quá nơi mà các dụng cụ của mình có thể đo lường với sự
chính xác thỏa đáng, và vượt quá nơi mà bất cứ sự bén nhạy hơn
nào cũng có ý nghĩa thực tiễn. Khoa học đã và đang phát triển
những dụng cụ đo lường gần như không thể tin được, thí dụ các
dụng cụ đo lường điện tử. Ðôi khi được gọi là hệ thống đo lường
điện tử.
Chúng là các dụng cụ đo lường các đại lượng vật lý
hoặc phi vật lý với sự trợ giúp của các thiết bị điện tử. Chúng
thường cho thấy kết quả đo lường thông qua các phương tiện khác
nhau. Tuy thế, dù gì đi nữa, khoa học cho tới nay và có lẽ sẽ
không bao giờ cung cấp được một dụng cụ toàn hảo tới độ không để
lại bất cứ giới hạn sai số nào. Trong các cuộc thi thể thao, thí
dụ bơi lội hoặc chạy đua, tuy đã có dụng cụ đo tới một phần trăm
của giây, đôi khi người ta còn phải cần tới sự ghi nhận của phim
ảnh để xác định thứ tự của hai kẻ có vẻ như về tới đích cùng một
thời điểm.
Khi đã hội đủ mọi điều kiện đo lường, chúng ta có
thể kết hợp những đặc điểm được đo lường với các vạch chia mức
độ trên dụng cụ đo lường. Các dụng cụ đo lường được thiết kế chu
đáo để có thể đọc rõ kết quả đo lường bằng những đơn vị định
chuẩn hoặc phân số. Dĩ nhiên các định chuẩn ấy được quyết định
một cách độc đoán với sự gia giảm nhẹ nhàng có thể được, vì
trong thiên nhiên không có thanh cân đo. Với các dụng cụ điện
tử, thay vì vạch, trên mặt của dụng cụ hiện lên con số.
Như đã nói ở trên, chúng ta không thể nào nghĩ ra
được những dụng cụ cân đo tuyệt đối chính xác để ứng xử hoàn
toàn thỏa đáng với những cực kỳ tinh tế trong việc đo lường.
Nan
giải và nhược điểm
Những nan giải của các thanh đo cho thấy không thể
không có nhược điểm trong các phương pháp đo lường vừa kể, dù
chúng ta không xem chúng quá nghiệm trọng đối với hầu hết các
cứu cánh của cuộc đời. Tuy thế, ở cấp độ phức tạp hơn ta gặp
phải những khó khăn sâu xa hơn.
Nếu chúng ta giả định rằng không gian có tính tuyệt
đối và quả đất chuyển động qua đó theo vận tốc cố định, lúc ấy
như nhà vật lý học người Ái Nhĩ Lan *George F. Fitzgerald
(1851-1901) đã trình bày trong cái được gọi là “sự co rút
Fitzgerald” (the Fitzgerald contraction), mọi đo lường bằng
thanh đo nhân tạo đều có tính tương đối đối với điều kiện đo
lường. Mọi dụng cụ đo lường làm bằng vật liệu cụ thể, nghĩa là
hiện hữu trong dạng vật chất có thể sờ mó hoặc cảm ứng, đều lệ
thuộc vào quá trình co lại hoặc rút ngắn ở vận tốc cao.
Nếu quả đất du hành với vận tốc ánh sáng trong chân
không 299,792.458 cây số một giây, hết thảy những thanh đo bằng
mét hoặc bằng yard chĩa đầu cùng hướng với chuyển động ấy đều sẽ
bị giảm thiểu xuống số 0. Với vận tốc 257,600 cây số một giây,
chúng sẽ bị giảm thiểu xuống một nửa. May mắn thay, hành tinh
của chúng ta đang du hành với vận tốc 30.4 cây số một giây và
nhờ thế, sự khác biệt của các dụng cụ đo lường chúng ta đang sử
dụng quá nhỏ, không đáng kể.
Không-thời-gian và tương đối
Dĩ nhiên giả định về không gian tuyệt đối ấy có thể
sai, và giả thuyết của Fitzgerald giải thích các kết quả âm tính
kỳ lạ của cái được gọi là thí nghiệm *Michelson-Morley (1887) có
thể không cần thiết.
Có thể khái niệm không-thời-gian (space-time
conception) của *thuyết tương đối (theory of relativity) rọi đôi
chút ánh sáng lên vấn đề ấy. Và bạn có thể tra cứu đề tài rất
rộng lớn này để có những thảo luận đầy đủ hơn về nội hàm của nó
trong vấn nạn vừa khó trả lời vừa kích thích trí tò mò này.
II. Những tiêu chuẩn
và áp dụng của toán học
Thời thế kỷ 17, các triết gia không đồng ý với nhau
về ý nghĩa và lý do thành công của toán học. Bất đồng ấy có liên
quan tới sự phân biệt giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy
nghiệm. Chủ nghĩa duy nghiệm – đúng như thuật ngữ ấy gợi ý –
nhấn mạnh bản tính thực nghiệm của khoa học và không chịu xem là
giá trị ý tưởng nào không thể truy tầm gốc tích của nó trong
kinh nghiệm giác quan.
1. Toán học và thuyết duy nghiệm
Không bằng cớ kinh nghiệm
Trong toán học, có nhiều ý tưởng trung tâm không cho
thấy chúng có rõ ràng xuất phát từ kinh nghiệm hay không, vì thế
đã nảy sinh vấn nạn không biết chúng là những ý tưởng quả thật
có giá trị hay chỉ là những giả tưởng.
Nhấn mạnh nguồn gốc kinh nghiệm và các tiêu chuẩn
của toán học, giám mục
Berkeley
cảm thấy khó khăn khi tìm cách am hiểu một số điều tưởng tượng
có tính toán học. Các nhà toán học đều đồng ý rằng bất cứ sự
triển khai nào cũng có thể chia ra tới vô tận, nhưng chưa bao
giờ có thể đưa ra bằng cớ kinh nghiệm nào để chứng minh cho lời
khẳng định ấy, vì không ai có khả năng nhận thức các phần nhỏ
tới vô tận trong bất cứ sự triển khai nào.
Tính chia vô tận bất khả thi
Trong cuốn A Treatise Concerning the Principles
of Human Knowledge (Luận án về các nguyên lý của tri thức
con người, 1710),
Berkeley
viết rằng:
“Không thể xác nhận tính chia vô tận (infinite
divisibility) của sự triển khai hữu hạn một cách rõ ràng như một
định đề hay một định lý trong các thành tố của ngành khoa học
đó, tuy thế nó hiện hữu khắp những chỗ không được giả dụ và được
cho là có liên quan một cách cốt tủy và không thể tách rời với
những định lý và những chứng minh trong hình học, khiến cho nhà
toán học không bao giờ cảm thấy nghi ngờ hoặc thắc mắc tối thiểu
về nó... Mọi sự triển khai có tính hữu hạn và đặc thù có khả
năng là đối tượng tư duy của chúng ta đều là những ý tưởng
hiện hữu trong tâm trí, và hệ quả là phải nhận thức từng
phần của nó... một khi đã khảo sát thấu đáo và chẳng tìm thấy
nó, khiến cho trong bất cứ trường hợp nào, vấn đề thiết yếu là
sử dụng những phần vi phân của những tuyến hữu hạn hay phải quan
niệm chúng, hoặc thậm chí những phẩm tính nhỏ hơn độ nhạy cảm
tối thiểu; và còn hơn thế nữa, sẽ có bằng cớ rằng không bao giờ
hoàn tất được việc đó, nó bất khả thi”.
2. Toán học và lý trí
Chỉ cần suy luận có thứ tự
Là người theo chủ nghĩa duy lý, Descartes phủ định
tính ưu việt của tri thức giác quan vì đặc tính ảo giác và lừa
mị của nó; ông quả quyết rằng chỉ có thể sở đắc tri thức bằng
thao luyện lý trí. Do đó, lý trí phải có những ý tưởng không đến
từ cảm giác và bởi thế, chúng được chứng minh là những ý tưởng
xác thực.
Descartes là một nhà toán học nổi tiếng; tính chắc
chắn của toán học gợi cho thấy khả năng với tới cái chắc chắn
trong lãnh vực triết học bằng cách áp dụng vào tư duy triết học
những phương pháp được dùng và đã chứng tỏ hiệu năng của chúng
trong toán học. Hình học mang bản sắc *Euclid, nhà toán học Hi
Lạp sống khoảng thế kỷ 3 và 4 trước C.N., bắt đầu với các tiền
đề không đặt cơ sở trên bất cứ xác minh thực nghiệm nào vì tự
thân chúng là chứng cớ cho chúng.
Theo Descartes, tự những tiền đề ấy ắt có và đủ cho
việc thẩm tra bằng lý trí để tín nhiệm chân lý của chúng; chúng
không thể có và cũng không cần chứng cớ hình thức nào. Do đó,
những tiền đề căn bản của toán học được nắm bắt bằng trực giác
trí tuệ (intellectual intuition).
Phát xuất từ các tiền đề, ta có thể suy ra những
định lý rất phức tạp bằng cách đi theo phương pháp suy luận có
thứ tự. Mọi bước suy diễn đều phải được bảo đảm bằng trực giác.
Hoàn toàn không thể viện dẫn kinh nghiệm để chứng minh kết quả
đó có giá trị hay không. Vì lý trí là công cụ thích đáng duy
nhất của chân lý, nên một khi các định lý đã được lý trí khẳng
định hoặc chấp nhận thì chúng phải đúng cho dẫu chúng có vẻ xung
khắc với chứng cớ của giác quan.
Tính chia vô tận khả thi
Vì thiên về duy nghiệm chủ nghĩa,
Berkeley
lập luận rằng tính chia vô tận là bất khả thi, trong khi đó
Descartes quả quyết rằng tính chia vô tận là một ý tưởng có giá
trị. Trong thực tế, Descartes dùng thực tại của tính chia vô tận
để phủ định sự chính xác của lý thuyết nguyên tử vì theo nghĩa
đen, nguyên tử có nghĩa là “nguyên”, không thể phân chia, và như
thế, từ ngữ ấy gợi cho thấy không thể chia vật chất tới vô tận.
Trong cuốn Principia Philosophiae (Những
nguyên lý triết học, 1664), Descartes viêát rằng: “Tôi thừa nhận
nhiều phân tử trong mỗi bộ phận được nhận thức không bởi giác
quan nào của chúng ta. Và điều đó có lẽ sẽ không được chấp nhận
bởi những ai xem giác quan là phương thế để có thể biết... Ít
nhất trong các triết gia, những kẻ cho rằng có thể chia lượng
tính tới vô tận, phải thừa nhận rằng trong tính chia ấy, các
phần có thể càng lúc càng trở nên rất nhỏ cho tới khi không thể
nhận thức một cách toàn bộ”.
Chia được nguyên tử
Descartes còn nói rằng ông bác bỏ thuyết nguyên tử
của Democritus “vì ông ấy giả dụ rằng có những hạt không thể
phân chia”.
Thực tế, tiến bộ của khoa học kỹ thuật nửa sau thế
kỷ 20 đã chứng tỏ nguyên tử có thể được phân chia thành những vi
phân tử (dưới nguyên tử, sub-atomic particles), và rồi các vi
phân tử được chia thành các vi hạt quark, và rồi vẫn chưa biết
tính chia ấy sẽ dừng lại hay tới vô tận.
3. David Hume
Kinh nghiệm không chắc chắn
Xung khắc về căn nguyên của các ý tưởng toán học
chuyển thành xung khắc về cơ sở tính chắc chắn của chúng. Hume,
triết gia và sử gia Tô Cách Lan, kẻ đi theo truyền thống duy
nghiệm của Locke và
Berkeley,
phân biệt các ý tưởng của lý trí với các ý tưởng của sự kiện
thực tế. Cái sau là các ý tưởng về các đối tượng thông thường
của kinh nghiệm, nền tảng của khoa học thực nghiệm, và là những
yếu tố duy nhất làm gia tăng tri thức của con người.
Vì các sự kiện thực tế đều có khả năng tiềm ẩn cái
trái ngược, thí dụ, không nhất thiết mặt trời phải mọc sáng mai,
nên những phát biểu tiên đoán của khoa học thực nghiệm không thể
chắc chắn tuyệt đối. Ðiều này tương phản với các kết luận của
toán học vốn chắc chắn tuyệt đối. Hume nghĩ rằng sở dĩ có sự
chắc chắn ấy là do bởi thực tế rằng toán học hoàn toàn không
liên quan tới kinh nghiệm, nó chỉ liên quan tới tương quan giữa
các ý tưởng được rút ra từ chính nó.
Toán học, công cụ để khám phá
Theo Hume, các kết luận của toán học rất chắc chắn
vì chúng chỉ ứng xử với các tương quan ấy và chỉ thế thôi, chúng
không quả quyết rằng mình đang thêm cái gì đó vào kho tàng tri
thức của con người. Phát biểu “2 cộng 2 thành 4” là một minh họa
cho tính chắc chắn của toán học, và không một ai có thể tra vấn
tính chính xác của khẳng định ấy. Trái lại, ta dễ dàng giải
thích cái chắc chắn của nó vì quả thật chỉ có thể nói giống y
như thế trong hai vế của một phương trình (2 + 2 = 4).
Ta có thể chứng minh khẳng định ấy một cách chi tiết
hơn bằng cách triển khai phương trình ấy, vì rõ ràng [1 cộng 1]
cộng với [1 cộng 1] thì giống một cách chính xác với [1 cộng 1
cộng 1 cộng 1 cộng 1]. Các phán đoán toán học đều chắc chắn vì
chúng có tính phân tích; chúng tái lập sự xác nhận cái được cung
cấp sẵn trong chủ đề. Ðiều này nếu quả đúng, nó biến toán học
thành một môn học quan trọng không những để làm sáng tỏ các ý
tưởng của chúng ta mà còn khiến cho nó được dùng làm một công cụ
để khám phá.
Descartes phản bác
Là người duy lý chủ nghĩa, Descartes bác bỏ quan
điểm đó. Ông quả quyết rằng gốc của các nguyên lý toán học như
những tiền đề đã ngăn cản những giới hạn của toán học đối với
các nguồn của kinh nghiệm và rằng bản tính của lý trí đủ để bảo
đảm sự suy diễn toán học từ những tiền đề ấy, thể hiện sự tăng
tiến đích thực trong tri thức.
Bản thân Descartes đã dùng toán học như một công cụ
khám phá; toàn bộ triết học của ông thẩm thấu tinh thần và
phương pháp của các bộ môn toán học.
4. Các thái độ hiện đại
Vấn đề của toán học
Do đó, toán học có vấn đề về nguồn gốc ý tưởng của
nó và các tiêu chuẩn (criteria) về tính chính xác của nó. Những
tiến bộ của khoa học trong thế kỷ 19 và đặc biệt trong thế kỷ 20
dường như khiến cho sự viện dẫn kinh nghiệm cứng nhắc thành bất
khả thi, đặc biệt trong khoa học không gian, vũ trụ học và cơ
học lượng tử.
Mặt khác, các triển khai trong hình học bao hàm việc
tra vấn cơ sở nguyên tử và thách đố các tiêu chuẩn về sự chắc
chắn mà Descartes đã nhấn mạnh.
Có vẻ hiển nhiên là các đường thẳng song song nếu
kéo dài tới vô tận sẽ không bao giờ gặp nhau. Hình học
Euclid
quả quyết rằng đó là chân lý. Nhà toán học người Ðức *Bernhard
G. Riemann (1826-1866) cùng những người khác tra vấn tiền đề ấy.
Họ phủ định việc xem một tiền đề là hiển nhiên nếu ta có thể rút
tỉa nó từ những tiền đề khác, đồng thời họ có thể chứng minh
rằng từ những giả định khác có thể đạt tới một kết luận ngược
lại.
Do đó, toán học buông bỏ ý tưởng có các định lý hiển
nhiên; nó tập trung vào việc làm rõ nội hàm của các tập hợp định
đề khác nhau theo những qui tắc đã được chấp nhận một cách tổng
quát trong lập luận toán học. Từ đó, đối với chúng ta, vấn đề ấy
tuy chưa được giải quyết nhưng đã mang một dạng khác và trong
dạng này, nó đòi hỏi phải có câu trả lời.
Không cần viện dẫn kinh nghiệm
Một số nhà tư tưởng thấy không còn cần phải kiểm
chứng các kết luận của toán học bằng cách viện dẫn kinh nghiệm
vì tính chất nhất quán của hệ thống toán học đủ để bảo đảm sự
chính xác của nó. Chừng nào toán học còn có thể cho thấy không
có mâu thuẫn hoặc không có các lầm lẫn cá nhân can dự vào những
suy diễn từ tập hợp các định đề được cung cấp, chừng đó nó vẫn
không cần tới viện dẫn nào khác.
Như thế, toán học có vẻ là sáng tạo phẩm của chính
tâm trí và chỉ là đối tượng của các qui tắc lập luận; nó không
tùy thuộc vào thực tế kinh nghiệm để có nguồn gốc hoặc để kiểm
tra. Ðiều ấy không có nghĩa toán học biến thành một trò chơi,
như đánh cờ tướng, để thưởng ngoạn cái hay ho của nó như nhà
toán học Pháp *Henry Poincaré (1854-1912) từng đề nghị, hoặc như
một trắc nghiệm trí thông minh. Trái lại, toán học là một yêu
cầu của lý trí nhằm thăm dò các ý tưởng hợp lý bằng các phương
pháp hợp lý.
Nhà toán học và triết gia Ðức *Luitzen Egbertus Jan
Brouwer (1881-1966) quả quyết rằng: “Toán học là sáng tạo phẩm
tự do, độc lập với kinh nghiệm; nó phát triển từ trực giác có
nguồn gốc đơn thuần suy diễn vốn có thể được gọi là sự bất biến
trong biến đổi hoặc sự đồng nhất trong thực tại.” [Trích theo
cuốn The Engines of Logic, (Các cỗ máy của luận lý học,
2000) của Martins Davis, Nxb W. W. Norton,
London].
5. Chủ nghĩa duy vật và toán học
Nguồn từ hoàn cảnh xã hội và thiên nhiên
Ngược lại, chủ nghĩa *duy vật biện chứng
(dialectical materialism) quả quyết rằng toán học bắt đầu trong
hoàn cảnh thực tiễn của xã hội và con người không thể nào thoát
ra khỏi hoàn cảnh. Vì ý thức của con người chỉ là phản ánh hoàn
cảnh vật chất của nó nên hết thảy các ý tưởng nó sở hữu đều có
nguồn gốc vật chất.
Trong khi đó, quả thật sự trừu tượng hóa có thể đã
được làm nên từ một hoàn cảnh đã định và từ sự khái quát của một
khái niệm đã được triển khai, khiến cho toán học có vẻ như là
một sáng tạo phẩm của con người, vì thế ta phải bác bỏ bất cứ
nỗ lực nào nhằm cách ly hình thức với nội dung. Không cần phải
có thêm chứng cớ cho lập trường này vì nó đã được chứng minh
bằng những ứng dụng thực tiễn và liên tục của toán học vào các
vấn đề của tự nhiên.
Người duy vật chủ nghĩa nói rằng nếu toán học hoàn
toàn có tính hình thức, sự ứng dụng thực tiễn của nó hẳn là một
bí nhiệm không cắt nghĩa nổi, vì chúng ta phải chứng minh làm
thế nào một sáng tạo phẩm tự do của tâm trí con người đang thao
tác theo những định luật của tư duy lại có thể dùng để dự báo
động thái (behaviour) của các đối tượng thiên nhiên và bên ngoài
con người. Chính vì toán học có cội rễ trong tự nhiên nên mới có
thể ứng dụng như thế.
Toán học phải thực dụng
Người duy vật chủ nghĩa tiếp tục lập luận rằng sự
chú ý tới tính chất nhất quán hình thức (formal consistency)
không đủ để có thể kiến lập chân lý cho bất cứ phát biểu nào có
tính toán học hay ngược lại. Với họ, tiêu chuẩn sau cùng phải là
những hệ quả thực dụng hoặc sự kiểm soát có thể được. Bởi thế,
chân lý của toán học quả thật được hàm chứa trong khả năng đưa
ra những dự báo về thế giới tự nhiên, cái là đối tượng của sự
xác minh bằng kinh nghiệm. Lập trường này phát sinh từ học
thuyết chủ trương phân biệt giữa tư tưởng với hành động, lý
thuyết với thực hành.
Khi một học thuyết như thế quá được xem trọng, người
ta có thể dùng nó để trừ khử một đối tượng bằng việc buông bỏ
mọi cuộc thẩm tra có vẻ chẳng mang lại ứng dụng thực tiễn nào –
trừ phi người ta có thể chứng minh việc giữ không cho các nhà
toán học can dự vào bằng niềm hy vọng rằng những suy tưởng mà
lúc này dường như xa rời thực tại, có thể tới một ngày nào đó,
sẽ có được sự ứng dụng thực tiễn của chúng. Thí dụ lý thuyết về
những tiết diện hình nón phải chờ tới hơn hai ngàn năm mới có
được sự ứng dụng thực tiễn của nó trong khoa học của nhà thiên
văn học Ðức *Johannes Kepler (1571-1630).
6. Chủ nghĩa hình thức
Toán học là của tâm trí
Phản bác khái niệm mang tính duy vật chủ nghĩa ấy là
một dọc các nhà toán học thuộc trường phái *duy hình thức chủ
nghĩa (formalistism) *duy trực giác chủ nghĩa (intuitionism).
Theo họ, chắc chắn các ký hiệu toán học có vẻ là
những sáng tạo phẩm của tâm trí và các qui luật về suy diễn toán
học có vẻ là những điều kiện do tâm trí đặt ra. Tính khả thi của
việc đề ra một hệ thống đầy đủ lập luận toán học từ một số định
đề mà không chứng minh chân lý của nó, đã đưa tới giả thuyết
rằng toàn bộ nội dung toán học có thể được rút gọn thành một ít
tiền đề tổng quát.
Trong cuốn Principles of Mathemathics (Các
nguyên lý của toán học, 1903) Whitehead cùng triết gia, nhà toán
học và nhà văn Anh Bertrand Russell đã dũng cảm nỗ lực tiến hành
thao tác đó nhằm tìm cách chứng minh rằng đã biến mất đường biên
giữa toán học và luận lý học (logic), và rằng có thể xem xét
toàn bộ cấu trúc của toán học từ những nguyên tắc ít mang tính
luận lý.
Ðiều này nếu lập thành, sẽ chứng minh rằng toán học
quả thật là một sáng tạo phẩm của tâm trí và rằng toán học không
đòi hỏi các tiêu chuẩn khác của chân lý ngoài tính nhất quán của
chính nó và sự tuân giữ nghiêm ngặt các định luật tổng quát của
tư duy. Tuy thế, cần phải nói rõ rằng Russell xem thế giới kinh
nghiệm là nguồn của các dữ liệu có tính luận lý (logical data).
Môn học lý tính và tự tính
Không thật sự thành vấn đề việc toán học có bắt đầu
trong những lợi ích xã hội hay không, vì ta không thể nào lần
theo dấu vết của sự khái quát được thành tựu ngày nay để truy
ngược trở lại tới bất cứ dữ liệu kinh nghiệm đơn giản nào. Cho
dẫu có thể làm được như thế đi nữa cũng chẳng tác động gì lên
bản tính hoặc chức năng của toán học như một môn học lý tính tự
nó chứa đựng nó.
Trong cuốn Philosophical Physics (Vật lý học
triết lý,1950), trang 303, Nxb Harper & Bros, giáo sư Vincent
Edward Smith viết rằng: “Mục đích chính của thuyết duy hình thức
là tìm cho ra một hệ thống toán học nhất quán và đầy đủ từ những
tiền giả định (presuppositions) ít khả thi nhất”.
7. Các hàm ý
Nghiên cứu bản tính vũ trụ
Ngày nay, việc nghiên cứu bản tính của vũ trụ là một
chủ đề sống động được quyết định bởi bản tính hiện thời của tra
vấn toán học, điển hình qua các công trình vũ trụ học của ông
hoàng vật lý lý thuyết Stephen Hawking. Tuy thế, không có khả
năng có thể tìm thấy giải pháp cho vấn đề ấy trong tự thân toán
học vì các vấn đề liên quan tới nó có vẻ như dàn trải tới quá
bên kia đường biên của nó. Giải pháp ấy đòi hỏi một khái niệm
tổng quát về bản tính của vũ trụ, và các thái độ khác nhau về
vấn đề ấy sẽ phản ánh sự bất đồng vẫn còn tiếp diễn trong phạm
vi siêu hình học.
Sự quan tâm tới chủ đề ấy cũng có tính triết học một
cách sâu xa vì nó thừa nhận rằng cho dẫu toán hoặc mang tính
*hình thức chủ nghĩa hoặc mang tính *tự nhiên chủ nghĩa, ít nhất
cũng có thể dùng một số kết luận của nó và các kỹ thuật của nó
để nghiên cứu sâu hơn vào bản tính của vũ trụ vật lý. Bản tính
thì dễ bị ảnh hưởng bởi cách xử lý mang tính toán học và như
thế, phải có mối tương quan nào đó giữa toán học và bản tính của
vũ trụ.
Dự đoán thiên nhiên
Chúng ta có thể tự hỏi làm thế nào các nhà khoa học
chỉ thao tác với các ký hiệu toán học lại có thể đưa ra những dự
đoán về thiên nhiên – thí dụ lời tiên đoán của Einstein về sự
lượn cong của ánh sáng trong vùng lân cận mặt trời; Hawking
chứng minh sự hữu hạn của vũ trụ, đặc tính của hố đen, v.v. –
hoặc cung cấp các lời giải thích khái quát về các hiện tượng
thiên nhiên theo những nguyên tắc của thuyết tương đối.
Những tiếp cận mang tính duy nghiệm chủ nghĩa hoặc
duy vật chủ nghĩa vào bản tính của toán học dường như cho thấy
không khó giải thích sự ứng dụng của toán học vào các hiện tượng
tự nhiên, vì toán học, ngay trong quan điểm của nó, chỉ quan tâm
tới những tương quan được rút tĩa từ kinh nghiệm.
Tuy thế, tính khả thi của điều đó, đặc biệt khi
triển khai sự khái quát hóa theo những định luật của tư duy, hàm
ý một trật tự tổng quát trong tự nhiên, cái không thể giải thích
dựa trên sự khẳng định đơn giản về các tương quan vật chất.
Vấn đề của người duy vật
Nếu vũ trụ là một hệ thống có tính biện chứng một
cách đích thực như người theo chủ nghĩa Marx tuyên bố, ta có thể
tự hỏi làm thế nào các nguyên lý về trật tự được triển khai bằng
sự trừu tượng hóa vốn xuất phát từ kinh nghiệm, lại có thể tái
áp dụng thêm nữa mà không có sửa đổi nào.
Người duy vật chủ nghĩa có thể trả lời rằng không
thể có vấn đề sửa đổi vì chân lý toán học không chỉ được kiến
lập bởi một mình các định luật của lý trí mà còn phải kiểm tra
dựa trên cơ sở thực nghiệm. Kết luận toán học chỉ được xác minh
khi nó hữu hiệu, nếu nó không có khả năng ứng dụng thì cũng
không phát sinh vấn đề chân lý của nó.
Vấn đề của người duy tâm
Trong các tác phẩm văn học mang tính duy vật chủ
nghĩa, người ta có thói quen trình bày lập trường mang tính duy
tâm chủ nghĩa như thể nó duy trì sự phân biệt giữa vật chất với
tinh thần và nó bị buộc phải đối mặt với vấn đề chứng minh làm
thế nào những cơ sở kiến trúc tinh thần có thể ứng dụng vào vật
chất như một trật tự khác của Ðấng Hữu thể.
Có thể có một số người duy tâm chủ nghĩa duy trì một
lập trường như thế nhưng nó không là đặc điểm của triết học mang
tính duy tâm chủ nghĩa, nó cũng không được đại diện bởi người
duy tâm khách quan chủ nghĩa (objective idealist) nổi tiếng nào.
Triết gia Anh Bernard Bosanquet khẳng định không có
sự phân biệt tối hậu giữa tinh thần với vật chất, và thực tế,
ông quả quyết rằng các hiện tượng tinh thần đều dựa trên các
điều kiện vật chất, thí dụ thế giới vật lý và thể xác của con
người. Ông nói tới tâm trí (mind) như một tính chất ngoại tại
(externality) trở thành một tính chất nội tại (internality), như
thế giới vật chất trở thành có ý nghĩa.
Theo Bosanquet, sự khái quát không ở trong bản tính
tổng quát của kinh nghiệm nhưng ở trong thông giải nó. Người duy
tâm chủ nghĩa quả quyết rằng thựïc tại nền tảng của Tâm trí
Tuyệt đối (Absolute Mind) biểu thị trong vật chất và rằng kinh
nghiệm chỉ là sự trở về trạng thái tinh thần của cái thật sự là
tinh thần.
8. Chủ nghĩa duy tâm và toán học
Hiểu sai lạc toán học
Ðối với người duy tâm chủ nghĩa, vấn đề toán học thuộc về một
trật tự khác, chủ yếu phát sinh từ sự hiểu sai lạc của họ về bản
tính của toán học. Whitehead thông báo với chúng ta rằng ông
từng có lần khởi sự đọc tác phẩm của triết gia Ðức *Friedrich
Hegel (1770-1831) nhưng chẳng may ông mở cuốn sách nhằm ngay
phần ứng xử với toán học, và ông rất cực lòng về những gì mình
đọc thấy ở đó, tới độ không nghĩ tới chuyện sẽ đọc thêm nữa.
Tôi tin rằng trong cuốn Reason and Nature (Lý
trí và thiên nhiên, 1931), triết gia Do Thái *Morris Raphael
Cohen (1880-1947) đã nói đúng khi ông cho rằng chính việc chủ
nghĩa duy tâm hiểu sai lạc bản tính và chức năng của toán học đã
khiến cho người ta không quan tâm tới chủ nghĩa ấy. Có thể thấy
cơ sở của sự hiểu sai lạc này trong cách người duy tâm chủ nghĩa
nhìn bản tính của sự tra vấn thích đáng. Và điều ấy lộ ra rõ nét
nhất trong sự phân biệt cái phổ quát trừu tượng (the abstract
universal) và cái phổ quát cụ thể (the concrete universal).
Ðồng nhất và dị biệt
Trong khi hình thành một khái niệm, có vẻ như chúng
ta rút tỉa từ những đối tượng khác nhau ra các điểm tương đồng
và cùng lúc ấy, chúng ta không quan tâm tới các điểm dị biệt của
chúng. Chúng ta đạt tới ý tưởng tổng quát về “đỏ” bằng việc rút
tỉa màu sắc chung từ hoa dâm bụt màu đỏ, mặt trời lặn màu đỏ, lá
cờ đỏ, trái lựu đỏ, máu đỏ, v.v. Dường như đối với chúng ta,
điều quan trọng là công nhận cái đồng nhất và từ khước những cái
dị biệt.
Rủi thay, khi khảo sát phương pháp này trong một số
cái phổ quát, chúng ta thấy ra rằng nếu phương pháp ấy đúng,
chúng ta chỉ còn lại cái phổ quát với nội dung rỗng tuếch khiến
cho nó vô nghĩa. Trên cơ sở đó, ý tưởng “tam giác” của tôi không
thể có bất cứ hình dạng nào vì nó mang cái chung chung, phát
sinh từ hình có hai cạnh dài bằng nhau (tam giác cân), hình
không có hai cạnh nào dài bằng nhau (tam giác lệch), hình có cả
ba cạnh bằng nhau (tam giác đều), như thế gạt sang một bên những
dị biệt của chúng, và những dị biệt ấy nằm trong hình dạng.
Bảo thủ cái phổ quát cụ thể
Vì tôi không thể thể hiện một tam giác mà không có
một hình dạng nào đó nên có nghĩa rằng tính phổ quát không bao
giờ được biểu hiện cũng như được tưởng tượng. Khi áp dụng phương
pháp đó cho con người, chúng ta thấy rằng con người phổ quát
không thể vừa cao lại vừa thấp, vừa vàng lại vừa đen, vừa béo
lại vừa gầy, do bởi chúng ta phải chiết ra từ những cái dịi
biệt.
Người duy tâm chủ nghĩa gọi các khái niệm như thế là
những cái phổ quát trừu tượng (the abstract universals) và vạch
rõ tính chất bất thỏa đáng của chúng. Họ thích dùng những cái
phổ quát cụ thể (the concrete universals), qua đó họ có ý nói
rằng những cái phổ quát điều chỉnh mọi dị biệt bên trong chúng.
Nếu chúng ta bắt đầu cuộc sống trí thức của mình trong xã hội,
nơi mọi người đều có nước da vàng và tầm thước, ý tưởng của
chúng ta sẽ bao gồm cái vàng và cái không cao.
Nếu sau đó chúng ta gặp một số du khách, tây ba-lô
chẳng hạn, cao và trắng hoặc đen, và một số vật khác, chúng ta
phải điền chỉnh định nghĩa của mình để bao gồm những cái dị
biệt. Phải gom vào trong khái niệm ấy những sự kiện mới, và như
thế, ý nghĩa của từ ngữ “con người” được triển khai để tính luôn
cả những dị biệt đó.
Ðồng nhất trong dị biệt
Khái niệm đầy đủ về con người không là một khái quát
trống rỗng hoặc đồng nhất đơn thuần nhưng đúng ra là một quan
sát tổng hợp tất cả những dị biệt hiệp nhất với nhau vì nguyên
lý về đồng nhất. Do đó, cái phổ quát cụ thể là cái
đồng-nhất-trong-dị-biệt (a identity-in-difference) chứ không chỉ
lấy những gì hoàn toàn đồng nhất hoặc chỉ lấy những gì hoàn toàn
dị biệt.
Công tác của triết học, theo các nhà duy tâm chủ
nghĩa, là hình thành một lý thuyết nhất quán và toàn diện về vũ
trụ trong đó toàn thể vạn vật được phô bày trong cùng một lúc
những cái dị biệt, được buộc vào nhau bằng cái đồng nhất tối
hậu. Hệ thống đầy đủ này hoặc cái phổ quát cụ thể là cái được
người duy tâm chủ nghĩa gọi là cái tuyệt đối.
Khuyết điểm của toán học
Theo hệ thống duy tâm ấy, tư tưởng chỉ tăng tiến một
cách thích đáng khi nó liên quan tới những cái phổ quát cụ thể.
Do đó, toán học không là công cụ của tri thức thật sự; vì mang
tính trừu tượng cao độ, toán học chỉ tập trung vào các tương
quan và vào các thành tố của sự đồng nhất được chiết ra từ những
cái dị biệt.
Cũng theo người duy tâm, trong khi toán học tất yếu
phải ứng xử với tương quan được thật sự rút tỉa từ kinh nghiệm,
nó không thể nào cung cấp thông tin hoàn toàn thích đáng về tự
nhiên, vì đó là cái nhà toán học không thèm đếm xỉa, và đó cũng
là cái quan trọng nhất để có được tri thức đầy đủ.
Nan
giải của người duy tâm
Hầu như không cần phải vạch rõ rằng người duy tâm
chủ nghĩa sẽ gặp phải nan giải khi biện minh cho cuộc mạo hiểm
có tính suy tưởng của các nhà toán học, cách riêng khuynh hướng
của những người như Bertrand Russell, kẻ muốn giảm thiểu toán
học thành môn học hoàn toàn hình thức. Sở dĩ như thế vì người
luận lý duy tâm chủ nghĩa (idealistic logic) cứ nhất định quả
quyết rằng không thể nào rút tỉa hình thức từ nội dung và xử lý
nó như có ý nghĩa trong chính nó.
9. Chủ nghĩa duy nghiệm và Kant
Nan
giải vì duy nghiệm
Có lẽ trong đầu của người duy vật chủ nghĩa đã thật
sự có hình bóng của những kẻ như Berkeley và Kant khi họ phản
đối triệt để chủ nghĩa duy tâm; tuy thế, những nan giải của hai
triết gia ấy không phát sinh từ chủ nghĩa duy tâm của mình mà từ
chủ nghĩa duy nghiệm của mình.
Berkeley
đồng ý với Locke rằng:
1. Không thể xem là có giá trị những ý tưởng không
bắt nguồn từ kinh nghiệm giác quan;
2. Vì không thể nào có việc ý tưởng trừu tượng đến
từ kinh nghiệm giác quan nên nếu toán học cho rằng nó đang ứng
xử với các ý tưởng trừu tượng, thì dứt khoát ý kiến ấy phải sai
lầm;
3. Chắc chắn các ý tưởng ấy, nếu thật sự khả thi,
không thể được dùng để khẳng định bản tính của thế giới vật lý.
Ðể chứng minh cho các luận cứ ấy, chúng ta đã đưa ra
một thí dụ trong thái độ của
Berkeley
đối với lý thuyết về tính chia vô tận.
Về phần Kant, ông đồng ý tri thức bắt đầu với kinh
nghiệm. Thế nhưng ông cho rằng nó không bị giới hạn trong kinh
nghiệm vì ông nhấn mạnh hoạt động của tâm trí trong trạng thái
bình thường. Theo Kant, trật tự của thiên nhiên không được cung
cấp bởi bất cứ giác quan nào nhưng nó do tri thức đặt ra, như
một điều kiện thiết yếu của kinh nghiệm.
Những điều kiện tiên nghiệm
Newton
giả định rằng không gian và thời gian là hai vật có thật trong
thế giới ngoại tại. Kant cho rằng nếu chúng quả thật như thế,
chúng ta không bao giờ có thể nhận biết chúng vì các giác quan,
tuy có khả năng báo cho chúng ta biết màu sắc và hương thơm của
hoa hồng, nhưng không thể báo cho chúng ta biết chút nào về
không gian và thời gian.
Vì không thể lĩnh hội bằng cách tri giác (nhận thức,
perceive) không gian và thời gian nên, theo lý thuyết Kant
(Kantism), chúng ta phải bác bỏ ý tưởng về tính ngoại tại của
chúng và chúng ta nên thấy chúng như là các điều kiện chủ quan
được đặt ra bởi bản tính của cảm quan (sensibility) của chúng
ta; chúng là những điều kiện tiên nghệm (a priori
conditions) mà nếu không có chúng, chúng ta không thể nào có
kinh nghiệm.
Không gian thời gian là chủ quan
Nếu quan điểm ấy đúng, có thể khẳng định rằng bất cứ
cái gì có thể phô diễn một cách chính xác về không gian và thời
gian nhất thiết phải ứng dụng vào thế giới của kinh nghiệm mà
chúng qui định.
Do đó, bằng việc biến không gian và thời gian thành
chủ quan, Kant tìm cách giải quyết vấn đề áp dụng bản tính của
toán học, vốn được một số người xem là một môn học hoàn toàn lý
tính.
III. Tóm lược
Toán học, công cụ khám phá
Các lý thuyết khác nhau ấy về nguồn gốc, tiêu chuẩn
và ứng dụng của toán học tiêu biểu cho các lối tiếp cận khác
nhau vào vấn đề làm thế nào toán học – một môn học có vẻ như giả
tạo, do con người sáng chế, chỉ liên quan tới các ký hiệu và chỉ
là đối tượng của các định luật về tư duy – lại có thể được dùng
làm công cụ khám phá.
Quan điểm của nhà triết học
Người duy vật chủ nghĩa lập luận rằng điều đó khả
thi vì tư tưởng không là gì cả mà chỉ là chỉ là phản ánh thế
giới vật chất, và người duy tâm chủ nghĩa cũng đồng ý với lập
trường đó. Sự khác biệt giữa hai hệ lý thuyết ấy tùy thuộc vào
những lượng giá khác nhau của chúng về trạng thái và bản tính
của thế giới vật chất cùng ý nghĩa của tâm trí.
Ðối lập với hai lập trường ấy là những người quả
quyết rằng toán học thật ra không được rút tỉa chút nào từ thế
giới này; nó hoàn toàn hoạt động một cách độc lập. Có thể đặt cơ
sở cho phát biểu ấy trên giả định rằng tâm trí thì tách biệt với
thế giới vật chất, cái tự nó có bản tính cùng các luật lệ của
chính nó. Bởi thế, như chúng ta đã thấy, Kant phải giải quyết
vấn đề ứng dụng thực tiễn của toán học bằng cách làm cho thế
giới này thành một thế giới được trải nghiệm và có trật tự nhờ
các nguyên lý độc lập của không gian và thời gian.
Quan điểm của nhà toán học
Trong khi bác bỏ nguồn gốc chủ quan của các nguyên
lý thiết lập trật tự, nhiều người vẫn sẵn sàng xem toán học có
tính hoàn toàn hình thức và trừu tượng cũng như không được rút
tỉa từ kinh nghiệm. Lúc đó, vấn đề là thiết lập một hệ thống các
tiền đề mà không cần phải viện dẫn chân lý hoặc nguồn gốc kinh
nghiệm để chứng minh chúng, và khám phá nội hàm của chúng. Các
nhà toán học có quan điểm này tự thấy không cần phải quan tâm
tới các kết quả của họ có mang tính ứng dụng thực nghiệm hay
không.
Có thể xảy ra việc một nhà vật lý, vốn quen thuộc
với toán học, khám phá ra các mối quan hệ trong thiên nhiên
tương ứng với một suy tưởng nào đó về những kiểu mẫu trật tự
nhất định được thảo luận trong toán học. Lúc đó, nhà vật lý ấy
có thể hướng tới các nhà toán học để quyết định xem nội hàm nào
liên quan tới khám phá của mình.
Những suy diễn toán học không bảo đảm cho chân lý
của các kết quả ấy nhưng chúng cung cấp sự hướng dẫn để nhà vật
lý nghiên cứu sâu xa thêm vì chúng gợi ra những cái cần tìm
kiếm. Nói cách khác, không kết luận toán học nào có thể tự tuyên
bố nó là một thí dụ minh họa có tính thực nghiệm; điều chủ yếu
vẫn là quan sát thật sự trên cơ sở thực nghiệm.
Quan điểm của thuyết tiến trình
Các nhà tư tưởng khác khẳng định rằng triết học tiến
trình (the process philosophy), bằng việc bảo lưu ý kiến cho
rằng cá nhân là một tổng hợp môi trường của nó, đã cho thấy thế
giới này không là cái gì đó ở bên ngoài chúng ta và ngẫu nhiên
được làm cho thích hợp với tâm trí của chúng ta, nhưng cá nhân,
bằng cách thức nào đó, biểu lộ trong bản thân nó bản tính của
thế giới.
Do đó, chừng nào cá nhân còn triển khai những nguyên
tắc về trật tự trong kinh nghiệm của chính nó, chừng đó nó còn
thẩm tra bản tính của trật tự trong tự thân vũ trụ.
Triển khai nguyên lý trật tự
Vì có sự hợp tác của tha nhân (other persons), những
kẻ cùng chia sẻ kinh nghiệm, nên có khả năng triển khai thành hệ
thống toán học những nguyên lý trừu tượng về trật tự trong một
chuỗi rộng lớn những cái khái quát bị chi phối bởi các định luật
tổng quát về tư duy.
Nhờ hoàn cảnh may mắn ấy mà có được tính khả thi cho
khoa học, cái quan tâm tới những tương quan của các biến cố,
hoặc cái được chúng ta gọi là những nguyên lý trật tự, để tăng
tiến thành những cái nhìn thấu suốt mới mẻ và thăm dò sâu xa hơn
vào bí mật của thiên nhiên.
IV. Kết luận
Khoa học nhờ toán học
Triết gia người Anh Francis Bacon, kẻ được một số
người đánh giá là thân phụ của thời hiện đại chúng ta, đã mù mờ
về toán học. Ông bác bỏ toán học như một công cụ duy nhất sắp
xếp những tri thức nhận được từ các nguồn khác và ông cho rằng
nó không có giá trị trong việc khám phá khoa học. Lịch sử của
khoa học, cách riêng trong hai thế kỷ 19 và 20 vừa qua, là một
luận cứ không thể bác bỏ, chống lại việc Bacon đánh giá thấp môn
học ấy.
Toán học đã và đang là một công cụ khám phá. Vì từ
lâu, khoa học đã vượt quá những giới hạn của sự quan sát trực
tiếp của con người, cách riêng trong phạm vi nghiên cứu hạt
nhân, khoa học không gian, vũ trụ học, cơ học lượng tử, và công
nghệ cao cấp, v.v. Nếu không có toán học thì không thể nào đạt
được những tiến bộ ấy.
Vẫn còn phải thẩm tra
Chương này cố gắng trình bày một số nan giải hàm
chứa trong chính sự thành công của toán học, cách riêng trong
nguồn gốc, bản tính và ứng dụng của thuyết tượng trưng toán học
(mathemathical symbolism). Nếu ta có thể đạt được câu trả lời
cho vấn nạn này, nó chắc chắn sẽ rọi nhiều ánh sáng lên bản tính
tổng quát của thực tại, đặc biệt trong vấn đề nan giải về tính
chủ quan hoặc tính khách quan của thực tính (the real).
Dù cuộc thẩm tra ấy đưa tới kết quả nào đi nữa,
ít nhất cũng đã kiến lập được một điều. Rằng thiên nhiên là một
hệ thống có trật tự, bằng không toán học không thể thao tác như
một công cụ khám phá. Ðó là một kết luận quan trọng.
Không có thực thể tự túc (có tự tính) và độc lập;
mọi vật đều tương liên nối kết và tương tác, nghĩa là cùng quan
hệ tới các vật khác. Toán học làm cho nhà khoa học có khả năng
khám phá rất nhiều tương quan có tính thiết yếu đối với tri thức
của chúng ta về vạn vật, vượt quá bên kia tầm hiểu biết bằng
quan sát.
Thiên nhiên có trật tự
Kết quả này của toán học bảo đảm rằng thiên nhiên là
một hệ thống, một hệ thống có trật tự, và rằng phát xuất từ thực
tế đó, vạn vật (things) hoặc vạn sự (events) đều có ý nghĩa.
Với sự bảo đảm rằng thiên nhiên là một hệ thống có
trật tự, giờ đây chúng ta có thể hướng tới cuộc khảo sát chi
tiết hơn một số nguyên lý về trật tự, được giả định là hiện hữu
và thao tác trong tự nhiên.
Nguyễn Ước
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|