Chủ nghĩa Máy móc
I. Nguồn gốc
II. Các nguyên lý của chủ nghĩa máy móc
III. Phê phán chủ nghĩa máy móc
IV. Thuyết tiến hóa và chủ nghĩa máy móc
V. Suy tàn của thuyết Darwin và chủ nghĩa máy móc
VI. Tóm lược
I.
Nguồn gốc
1. Thế giới trung cổ
Lịch sử châu Âu có một thời kỳ được gọi là thời đại Trung Cổ
(Middle Ages). Ðây là giai đoạn bắt đầu từ sự sụp đổ của đế quốc
La Mã ở phương Ðông tới thời Phục Hưng, kéo dài trong khoảng một
ngàn năm (k.500-k.1500 sau C.N.)
Thiên ý là tối thượng
Theo lý thuyết, thế giới Trung Cổ là một thế giới mật thiết và
thân thiện. Thiên Chúa hằng sống, siêu việt và có mặt khắp mọi
nơi; ngài sẵn sàng bảo vệ và chăm sóc dân ngài. Ðức Giêsu đã
vạch rõ rằng nếu không có ý định của Cha trên trời thì một con
chim sẻ cũng không rơi xuống đất, đồng thời nhấn mạnh con người
quan trọng hơn chim sẻ bội phần. Tín đồ Kitô giáo được bảo đảm
về sự hiện diện thiêng liêng ấy, và có thể lấy cảm hứng từ lời
thánh vịnh của dân Do Thái rằng: "Thượng đế hằng sống là nơi tôi
ẩn náu dưới cánh tay kéo dài vô biên vô tận của Ngài".
Thiên Chúa, Ðấng tạo hóa, Ðấng Phán xét, Ðấng Cứu độ và cũng là
Ðấng Quan phòng và Bằng hữu của con người. Người Kitô giáo đã có
thể biết rằng: "Vạn vật muôn đời cùng nhau thao tác vì tình yêu
Thiên Chúa". Và thậm chí cả những lúc con người không thể nào
hiểu thấu những thảm kịch riêng tư đang làm mình đớn đau sầu
muộn, nó vẫn có thể cảm thấy mình được ủi an nhờ lời hứa ấy.
Không có gì xảy ra mà không có mục đích, hay còn gọi là cứu
cánh. Trong sự bảo đảm ấy, con người có khả năng chịu đựng mọi
sự.
Con người dâng hiến và cai quản
Cũng học thuyết ấy bảo đảm rằng Thiên Chúa đang chuyển động
trong thiên nhiên và lịch sử, để hoàn thành các cứu cánh của
ngài, để thành tựu Nước Thiên Chúa. Trong Nước Trời ấy, cừu non
an lành nằm bên cạnh sư tử và các nước không còn gây cảnh binh
đao. Thượng đế là một thực tại có mặt và sống động "gần hơn hơi
thở, kề hơn chân tay". Không một ai có thể đi lệch ra ngoài sự
có mặt của ngài; cũng không một ai bị buộc phải đơn độc đối mặt
với những thảm họa trong đời sống và cái chết.
Khái niệm ấy biến thế giới thành chốn nhiệt tình đền đáp, cho
con người niềm hy vọng và gợi cho thấy rằng cuộc sống của nó có
ý nghĩa trọng đại. Con người là đỉnh điểm của cuộc sáng thế, có
nghĩa vụ hiến mình cho Thiên Chúa, đấng đã tạo dựng nó theo hình
ảnh của chính ngài. Và bên dưới ngài, trong trật tự của thiên
nhiên, con người có thể cai quản mọi nơi, và mọi vật được tạo ra
vì phúc lợi của con người.
Ðó là thế giới của thời Trung cổ. Thế giới ấy sắp bị tàn phá bởi
nhiều người trong nền khoa học mới, bắt đầu với Galileo.
2. Tác động của nền khoa học mới
Chẳng cần Thượng đế nữa
Khi nhà toán học và thiên văn học *Pierre Simon Laplace
(1749-1827) thông báo với Ðại đế Napoléon (1769-1821) rằng mình
không cần tới giả thuyết có Thượng đế để cắt nghĩa vũ trụ vật lý
(the physical universe), ông đã diễn tả trong câu nói cô đọng ấy
các hàm ý của nền khoa học mới.
Quả thật nền khoa học mới làm phong phú thêm kho tàng tri thức
của loài người về thế giới tự nhiên, tạo khả năng cải thiện số
phận của con người và cho con người cảm giác mới về quyền năng
bằng các máy móc mới mà giờ đây nó có khả năng chế tạo. Thế
nhưng đối với nhiều người, những sở đắc tân tiến ấy chỉ là trống
rỗng nếu chúng cướp đi của con người nhận thức tinh thần và trải
nghiệm tâm linh.
Thế giới của ngẫu nhiên và vô tình
Một thế giới chịu sự thống trị của các định luật cứng nhắc,
không cho phép sự can thiệp của bất cứ quyền năng nào, kể cả
quyền năng của Thượng đế. Và một thế giới thao tác một cách mù
lòa không thể tán thưởng ý tưởng về một mục đích sau cùng hoặc
cứu cánh tối hậu. Thiên nhiên chuyển động mù lòa, không có bất
cứ chuỗi giá trị nào, không có bất cứ quan tâm nào tới cuộc sống
con người hoặc các cứu cánh. Thế giới đó thao tác một cách tàn
nhẫn, khủng khiếp, thể hiện những nội hàm trong khuôn mẫu quan
hệ nhân quả của chính nó.
Trong thế giới đó, không có quyền năng can thiệp mật thiết nào
sẵn sàng đáp ứng khi có lời kêu cầu, không có bàn tay thân thiện
nào đưa ra nhằm giải quyết các vấn đề của cuộc sinh tồn hoặc uốn
nắn dòng chảy của các biến cố để cho con người được hưởng phúc
lợi lớn lao và cao cả hơn. Y hệt thế giới trong tâm tưởng của
các triết gia cổ đại Hi Lạp, vạn vật xảy ra do bởi ngẫu nhiên,
và thế giới tiến bước trong lãnh đạm với mọi sự mọi vật, ngoại
trừ ảnh hưởng chủ động của các yêu cầu của chính nó, không thể
lay chuyển và chẳng chút mũi lòng.
3. Những xung khắc trong
thế kỷ 19
Lý trí và chứng cớ
Hai quan điểm về thế giới, một mang bản sắc Aristotle và một
mang bản sắc Newton, lâm vào tình thế xung khắc nhau kịch liệt
khi cuộc chiến giữa khoa học và tôn giáo lan rộng và bốc lên cao
độ.
Rõ ràng quan điểm Aristotle được người đời ưa chuộng vì nó làm
cho con người có thể chịu đựng cuộc đời và cho con người niềm hy
vọng. Nhưng đối với nhà khoa học thì không thể quyết định chân
lý của một ý tưởng bằng sự thỏa mãn cảm xúc. Phải phán đoán nó
bằng lý trí. Pháp đình độc nhất có thẩm quyền tra xét là chứng
cớ. Và về mặt chứng cớ, dường như khái niệm mang bản sắc Newton
vượt trội và áp đảo.
Chúng ta có thể rút gọn vấn đề này thành những từ ngữ đơn giản
nhất của nó, và dành chỗ ưu tiên cho quan điểm vừa đáp ứng đủ
các yêu cầu phải có chứng cớ hợp lý vừa cung cấp các giải đáp
cho những thắc mắc của loài người về thế giới của nó.
Máy
móc chủ nghĩa độc chiếm
Khoa học mang bản sắc Aristotle hoàn toàn không đề cập tới sự
vén lộ những bí mật của thiên nhiên, khiến cho các nhà khoa học
lệch hướng chú ý vào những vấn đề không thích đáng. Khoa học
mang bản sắc Newton diễu hành hết chiến thắng này tới khải hoàn
khác; nó vén lộ các nguyên nhân của vạn vật và cho con người khả
năng kiểm soát thiên nhiên. Khoa học Newton triển khai kỹ thuật
tra vấn, đưa ra lời hứa hẹn sẽ giải quyết hết thảy các vấn đề
của vũ trụ.
Sự thành công của những kỹ thuật mới mẻ ấy hàm chứa trong tự
thân chúng khái niệm mang tính máy móc chủ nghĩa (a mechanistic
conception) về vũ trụ vì khoa học kỹ thuật chỉ có ý nghĩa khi
chúng được dự kiến trong một vũ trụ ở đó vạn vật là kết quả của
những tiến trình vật lý và hóa học. Như thế, thời thế kỷ 19, đối
với kẻ tra vấn có trí óc phóng khoáng, dường như chỉ duy nhất có
một chọn lựa lương thiện cho mình, đó là chủ nghĩa máy móc
(mechanism), đôi khi còn được dịch sang tiếng Việt là cơ chế chủ
nghĩa.
II. Các nguyên lý của chủ nghĩa máy móc
1. Giải thích thiên nhiên
Kiểm soát và cất bỏ
Nền khoa học mới tận tụy tìm cách cắt nghĩa mọi biến cố theo
khía cạnh tự nhiên của chúng. Rõ ràng con người có thể quả quyết
rằng chiến tranh, bệnh tật và nghèo đói là do Thượng đế gởi tới
để thử thách đức tin của dân ngài, hoặc để khiến cho người tội
lỗi phải ăn năn hối cải, nhưng những thông tin kiểu đó không cho
loài người niềm hy vọng cất bỏ các điều kiện khốn quẩn.
Nếu có thể chứng minh rằng chúng là những hiện tượng tự nhiên,
phát sinh từ những điều kiện tự nhiên, lúc đó, theo người máy
móc chủ nghĩa, có thể dùng tri thức ấy để kiểm soát hoặc cất bỏ
các điều kiện đó. Lịch sử y học là bằng chứng đầy xúc động cho
hiệu quả của lối tiếp cận mang tính tự nhiên chủ nghĩa
(naturalism).
Thượng đế quả thật muốn gì
Vì Thượng đế – theo định nghĩa về ngài – có khả năng làm mọi
điều nên không cách gì có thể nhận biết ngài có quả thật làm
điều đó hay không. Người máy móc chủ nghĩa lập luận rằng nếu
Thượng đế có thể làm cho con người đau yếu hoặc mạnh khỏe theo
thánh ý của ngài, thì không cách gì có thể khẳng định rằng ngài
có quyền năng hay không.
Nếu chúng ta cầu nguyện cho một người bệnh, người đó có thể lành
bệnh hoặc không thể qua khỏi. Dù khỏi hay không khỏi, trong cả
hai trường hợp ấy cũng không thể chứng minh hoạt động của Thượng
đế, vì có thể ngài có ý muốn đáp ứng lời cầu nguyện, cũng có thể
ngài có ý muốn không đáp ứng lời cầu nguyện.
Giáo hội Kitô dạy rằng Thượng đế sẽ bảo vệ dân ngài. Nhiều người
của Thiên Chúa đã và đang chịu đau khổ mà không nhận được sự can
thiệp thiêng liêng nào nhân danh họ. Và sự kiện ấy không được
đánh giá như là phủ định sự chăm sóc của Thượng đế.
Kiểm tra để xác minh
Từ quan điểm đức tin đó, phải giả dụ rằng trong các cứu cánh
khôn dò của Thượng đế, những người ấy chịu đau khổ thì tốt hơn.
Lối giải thích đó chưa bao giờ được kiểm chứng chân lý của nó
bởi một cuộc thí nghiệm mang tính quyết định. Cũng chưa bao giờ
thiết lập một cuộc thí nghiệm như thế.
Mặt khác, nếu nhà khoa học quả quyết rằng thuốc pê-nê-xi-lin sẽ
chữa khỏi một loại bệnh nhất định, thì có thể thiết lập một cuộc
thí nghiệm có tính xác định để kiểm tra chân lý của lời tuyên bố
đó. Nếu trong những điều kiện thích đáng, thuốc pê-nê-xi-lin
không chữa trị được như thế, lời tuyên bố đó bị bác bỏ vì thiếu
cơ sở.
Nguyên lý thứ nhất
Chính do bởi khoa học có khả năng cung cấp những cuộc thí nghiệm
có tính xác định nên người ta phân biệt nó với các hình thức tra
vấn khác; và người ta cực kỳ tin tưởng vào thẩm quyền quyết định
của nó. Ðồng thời khả năng ấy chỉ có ý nghĩa khi giả định rằng
các biến cố đều có thể được giải thích theo khía cạnh tự
nhiên của chúng. Ðó là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa máy
móc.
2. Tính tác động của nhân quả
Không do bởi sức mạnh ngoại tại
Ðối với người máy móc chủ nghĩa, tính khả thi của lối giải thích
theo khía cạnh tự nhiên đòi hỏi phải cất bỏ những giới hạn dành
cho lối cắt nghĩa quan hệ nhân quả mang tính tác động (efficient
causality), hoặc hiệu ứng.
Ta phải giả định rằng mỗi biến cố tự nhiên đều phát sinh từ
những điều kiện tự nhiên đi liền trước nó và quyết định nó. Nếu
chúng ta cho rằng có một quyền năng ngoại tại (an external
power) nào đó làm biến đổi dòng chảy của các biến cố theo một
cứu cánh ngoại tại (an external purpose) nào đó khiến cho ta
không thể nào tiên đoán, thì chính lời quả quyết ấy tàn phá toàn
bộ ý tưởng của khoa học.
Nhân nào quả đó
Vạn vật phải thao tác đúng như nó bị quyết định bởi các nguyên
nhân của nó, khiến cho nó phải thao tác đúng y như thế, vì có sự
"thiết yếu kết liên nhau" giữa nguyên nhân và kết quả. Khi tảng
đá lăn xuống theo một triền dốc bằng phẳng, ta có khả năng tiên
đoán đường lăn, vận tốc và chỗ dừng lại của nó, và ta cung cấp
tri thức về mọi điều kiện liên hệ và về các định luật khoa học
thích đáng với hoàn cảnh ấy.
Không có khả năng xảy tới kết quả nào khác ngoài cái kết quả
tiềm ẩn trong các điều kiện có tính quyết định ấy. Cái đúng với
tảng đá ấy phải đúng với hết thảy các hiện tượng tự nhiên. Không
có lối nào thoát ra khỏi các định luật bất đi bất dịch của thiên
nhiên.
Tiên đoán sai là vì mình
Ðôi khi ta khó có thể khẳng định hết thảy các điều kiện, vì thế,
khả năng tiên đoán bị giới hạn. Người ta thường kể chuyện, như
một cảnh giác tượng trưng, rằng một con bướm vẫy cánh ở Brazil
có thể gây ra "hiệu ứng cánh bướm", truyền động thành cơn bão
lớn tại một nơi rất xa xôi nào khác, làm thay đổi khí hậu toàn
cầu.
Gặp trường hợp đó, nhà khoa học phải giả định sở dĩ như thế là
do bởi sự ngu dốt của mình hoặc vì mình không thực hiện một
ngoại lệ đối với qui luật của chủ nghĩa tất định tổng quát (the
general determinism). Ðộng thái của con người là một thí dụ cho
hoạt động rất phức tạp trong đó ta không thể nào hiểu hết mọi
thành tố đang điều kiện hóa nó và rất khó tiên đoán.
Có lẽ khoa tâm lý học (the science of psychology) nên tìm cách
cởi bỏ sự ngu dốt của chúng ta trong lãnh vực ấy. Thuyết *duy
động thái (behaviourism) cố gắng làm công việc đó bằng cách giảm
thiểu toàn bộ động thái thành các phản ứng và các phản xạ bị
điều kiện hóa (conditionned reflexes). Thuyết ấy cho rằng nếu
khảo sát và am hiểu đầy đủ mọi hành động của con người, ta có
thể giải thích chúng bằng những kích thích và những phản ứng.
Freud và Hobbes
Sigmund Freud nỗ lực chứng minh làm thế nào có thể giải thích
động thái bất thường của một người theo khía cạnh tự nhiên hoặc
khía cạnh máy móc. Cả hai hệ thống ấy – tự nhiên chủ nghĩa và
máy móc chủ nghĩa – đều đặt cơ sở trên niềm xác tín rằng có khả
năng dự báo động thái của con người; và chúng phủ định khả năng
quyết định của con người như một hành động tự do trong việc chọn
lựa các phương thế hành động mà không hoàn toàn bị chướng ngại
nào cản trở.
Thomas Hobbes nêu ý kiến rằng cái được chúng ta gọi là ý chí,
thật ra chỉ là sự xung khắc giữa những mong muốn tự nhiên và các
đối thủ của chúng. Vì chúng ta không thể tiếp tục cân nhắc kỹ
lưỡng và liên tục về cách thế hành động, nên phải có một trong
các mong muốn tự nhiên thắng thế; nó ca khúc khải hoàn và quyết
định động thái của chúng ta.
Nguyên lý thứ hai
Từ bên ngoài nhìn vào vấn đề, chúng ta có khuynh hướng thông
giải động thái của chúng ta là có tính tự do, trong khi đó theo
người máy móc chủ nghĩa, nếu thông giải thích đáng động thái, ta
sẽ thấy rằng nó bị quyết định bởi một mong muốn mạnh mẽ hơn
trong số các mong muốn đang xung khắc nhau.
Theo họ, trong vũ trụ hoàn toàn không có tự do và không có gì
không đã được quyết định. Mọi biến cố phải được giải thích
bằng tính tác động (hiệu ứng) của quan hệ nhân quả. Ðó là
nguyên lý cốt tủy thứ hai của chủ nghĩa máy móc.
3. Không uyển chuyển
Có khả năng dự báo
Vì mọi giải thích đều có tính tự nhiên và mọi động thái đều đã
được quyết định, hệ quả là dòng chảy tương lai của vũ trụ và của
mọi biến cố trong vũ tru, về mặt lý thuyết, đều có thể dự báo.
Luận cứ ấy đã và đang được kiến lập trong thiên văn học
(astronomy), nơi con người có thể tiên đoán các cuộc nhật thực,
nguyệt thực với độ chính xác lạ thường. Ðịnh luật khoa học thể
hiện tương quan bất biến giữa các biến cố ấy tới độ bất cứ sự
sửa đổi nào trong biến cố này sẽ đi kèm theo sự sửa đổi có thể
dự báo trong biến cố kia.
Laplace phát huy định luật ấy lên tới cực điểm kết luận của nó
khi ông lập luận rằng, vào bất cứ lúc nào, tri thức đầy đủ về
thế giới có thể làm cho con người có khả năng dự báo toàn bộ quá
trình diễn biến của vũ trụ trong tương lai, một cách không sai
lầm. Chúng ta có thể giả dụ mình có khả năng làm thay đổi dòng
chảy của các biến cố, nhưng giả dụ như thế dứt khoát là không
đúng.
Hoặc giả, chúng ta có thể tin rằng có Ðấng siêu nhiên có khả
năng sửa đổi dòng chảy của các biến cố, nhưng tin như thế là mê
tín. Dù có thêm luận cứ nào khác bên cạnh giả định và niềm tin
vừa kể, thì hết thảy các lập trường kiểu đó đều sai lầm, vì ta
có thể vạch rõ ra rằng nếu chúng đúng thì khoa học phải vừa trật
vừa bất khả thi.
Khoa học và máy móc chủ nghĩa
Khoa học mang bản sắc Newton không thể thao tác nếu không đặt
căn bản trên máy móc chủ nghĩa. Hình ảnh của thế giới cả quá
khứ, hiện tại lẫn tương lai được Bertrand Russell trình bày
trong cuốn A Free Man’s Workship (Sự thờ phượng của con
người tự do, 1976) chỉ là một câu chuyện về khoa học mang bản
sắc Newton được khuếch đại. Mọi sự đều bị các sức mạnh tự nhiên
kiểm soát.
Ngày nay, chúng ta đã biết rằng thế giới này hiện hữu rất lâu
trước thời điểm con người xuất hiện, và có lẽ nó sẽ tiếp tục
hiện hữu rất lâu sau khi con người biến mất. Chừng nào còn liên
quan tới thế giới này, chừng đó con người vẫn còn không thuộc về
quan tâm và sở thích cá biệt của nó. Thế giới này sẽ tồn tại sau
khi con người đi qua, như thể chưa bao giờ có con người ở đó.
Con người không là gì cả mà chỉ là một tiến trình đang biểu lộ
và đang trôi qua của các sức mạnh tự nhiên, chúng thao tác không
theo chương trình nào và cũng chẳng có cứu cánh nào.
Nguyên lý thứ ba
Ðối với người theo phái Newton, vũ trụ là sự hợp thành của các
phân tử vật chất, gắn bó nhau theo cách có thể diễn đạt bằng
những định luật bất biến (invariable laws). Và như thế, những
điều kiện giống nhau phải sản sinh những kết quả giống nhau. Y
hệt mọi cơ phận của một bộ máy, chúng chỉ thao tác như đã được
định hướng bởi hoạt động của các cơ phận khác và không thể lệch
khỏi sự bố trí ấy, các biến cố trong vũ trụ cũng đã bị quyết
định một cách khắc nghiệt như thế.
Trật tự của vũ trụ là kết quả của sự nối tiếp có tính nhân quả
(causal sequence). Nó là tiến trình đang biểu lộ của những
tương quan tự nhiên giữa các biến cố, và chỉ thế thôi, không hơn
không kém. Nó không là đối tượng cho bất cứ sự sửa đổi hoặc điều
chỉnh nào. Ðây là nguyên lý thứ ba của máy móc chủ nghĩa.
Ứng dụng về mặt xã hội
Khi mới bắt đầu có ngành khoa học xã hội, người ta đã giả định
rằng chúng chỉ đáng được gọi là khoa học nếu chúng đi theo khuôn
mẫu của vật lý học và hóa học cùng các nguyên lý tổng quát vừa
kể của chủ nghĩa máy móc. Ðôi khi có vẻ như thể nhiều nhà xã hội
học bảo lưu khái niệm ấy. Khi người ta lập luận rằng tình trạng
thiếu nhi phạm pháp chỉ là hậu quả của các hoàn cảnh xã hội nhất
định như nghèo khổ, gia đình đổ vỡ hôn nhân, thiếu phương tiện
giải trí hoặc thiếu các sân chơi, v.v., nghĩa là họ đã làm nổi
bật thuyết máy móc chủ nghĩa.
Khi người ta quả quyết rằng việc giải tỏa các khu nhà ổ chuột,
mở rộng giáo dục và phân phối công bằng sự thịnh vượng sẽ xóa bỏ
hết thảy những bất công xã hội và mang lại một hệ thống xã hội
lý tưởng, thì bóng ma của thuyết máy móc chủ nghĩa đang ám ảnh
lối thông giải ấy về động thái của con người. Rất có thể lập
trường đó chính xác. Tuy nhiên, ở đây ta chỉ đề cập tới hàm ý
của nó.
Hệ luận của máy móc chủ nghĩa
Nếu giả định ấy thiết yếu cho khoa học và được chứng minh là
đúng bởi các kết quả của khoa học, lúc đó, chúng ta phải sử dụng
những thuật ngữ mang tính máy móc chủ nghĩa để giải thích thế
giới. Do đó, chúng ta phải bác bỏ ý tưởng về một Thượng đế có
thể can thiệp vào các hoàn cảnh tự nhiên để sửa đổi dòng chảy
của các biến cố.
Chúng ta cũng phải phủ định việc con người sở hữu tự do ý chí,
cái làm cho nó có khả năng chọn lựa giữa các phương thế hành
động khác nhau một thái độ hoặc một tác phong mà không ai có thể
đoán đúng. Chúng ta cũng phải buông bỏ khả năng con người có thể
cải tạo xã hội để mang xã hội ngày càng tới gần hơn khát vọng
của tâm hồn, bằng một hình thức nào đó của guồng máy xã hội, thí
dụ xã hội chủ nghĩa hoặc dân chủ xã hội chủ nghĩa, v.v. Tương
lai luôn luôn tiềm ẩn trong hiện tại, và cả Thượng đế lẫn con
người đều không thể nào sửa đổi cái phải hiện hữu đúng như nó
đang là.
III. Phê phán chủ nghĩa máy móc
1. Ðối lập và giới hạn
Bên tuyến đối lập
Thuyết máy móc chủ nghĩa kết hợp một cách tự nhiên với các định
lý có cơ sở vật lý học và hóa học của khoa học mang bản sắc
Newton. Vào cuối thế kỷ 18, nó đặt căn bản trên các định lý ấy,
và thuở đó dường như nó là kết luận độc nhất mở ra cho những
người thông minh và am hiểu.
Nhiều người, trong số đó có nhiều thi sĩ, giáo sĩ và triết gia,
không đành lòng chấp nhận thuyết đó. Những người như thi sĩ Anh
*William Wordsworth (1770-1850) và Hồng y giáo chủ *John Henry
Newman (1801-1890) tấn công nó bằng cách bác bỏ các cơ sở của
nó. Họ giả định có các nguồn khác của chân lý, thí dụ "tâm linh
trong tự nhiên" (spirit in nature) hoặc "chấp thuận cảm tính"
(emotional assent), và không chịu buông bỏ khái niệm một vũ trụ
thân thiện, có cứu cánh và hoàn toàn dựa vào chứng cớ khoa học.
Các triết gia như Kant cảm thấy sức mạnh của chứng cớ khoa học;
ông tìm cách tránh né các hàm ý của máy móc chủ nghĩa bằng cách
đặt ra giới hạn cho phạm vi của tri thức khoa học.
Thế giới thành hai của Kant
Như chúng ta từng thấy, Kant đã đánh giá thế giới tự nhiên là sự
pha trộn không gỡ nổi của các cảm giác hỗn độn và các nguyên lý
về trật tự. Vì khoa học chỉ quan tâm tới thế giới trật tự nên
tri thức của nó bị giới hạn vào cái thế giới xuất hiện theo vẻ
bên ngoài, và các qui tắc mang tính máy móc chủ nghĩa của khoa
học chỉ là sự diễn đạt các nguyên lý trật tự tiên nghiệm (a
priori), thí dụ quan hệ nhân quả.
Không thể cho rằng phát biểu khoa học là để ứng dụng vào cái thế
giới như nó thật sự đang là; cũng không thể xem bất cứ qui tắc
mang tính máy móc chủ nghĩa nào có thể áp dụng vào bản ngã (the
self), vì bản ngã là nguồn của các nguyên lý về trật tự, nên nó
không thể nào là đối tượng của chúng. Do đó bằng việc chia thế
giới thành hai, một có tính bản chất hoặc bản thể (noumenal
world) và một có tính hiện tượng (phenomenal world), Kant tìm
cách hòa giải khoa học và đạo đức, chủ nghĩa máy móc và tự do.
Tìm nguyên lý giải thích khác
Có một phương cách đối lập với chủ nghĩa máy móc là chứng minh
rằng có những lãnh vực của kinh nghiệm không là và không thể nào
được giải thích bằng các nguyên lý của máy móc chủ nghĩa. Trong
thế kỷ 19, những kẻ đối lập với chủ nghĩa duy vật máy móc
(materialistic mechanism) nhấn mạnh ba lãnh vực khác: đạo đức,
tôn giáo và tâm trí, mà ở đó các giải thích vật lý dường như
không thỏa đáng. Ở nơi nào nguyên lý giải thích này không thỏa
đáng, ta có thể đi tìm nguyên lý giải thích khác cho thích đáng.
Nếu thiết lập được điều đó, nó cũng mang hàm ý một cuộc đình
chiến giữa khoa học và một số hình thức giải thích khác, đồng
thời giới hạn mỗi bên vào phạm vi riêng biệt của mình trong khi
bảo lưu một không gian xứng đáng cho những thông giải thêm nữa
của con người. Thậm chí chủ trương ấy còn có thể lưu giữ một
không gian cho khái niệm về bản tính và hoạt động của Thượng đế.
2. Ðạo đức
Xét lại đạo đức
Nếu chủ nghĩa máy móc chính xác và có thể ứng dụng nó một cách
phổ quát, lúc đó đương nhiên đạo đức không có tính khả thi hoặc
ta phải tái phát biểu ý nghĩa của đạo đức.
Ðạo đức là một thực tế kinh nghiệm. Mọi người đều nhận biết ý
nghĩa của ràng buộc đạo đức, một sự ràng buộc con người phải
chọn cái thiện. Ðiều đó được diễn tả trong từ ngữ "phải", mà ta
có thể dùng nó như một dấu hiệu đặc trưng của một tình trạng có
đạo đức. Từ ngữ "phải" và từ ngữ đi kèm với nó là "hổ thẹn" và
"hối hận", chỉ có ý nghĩa hợp qui cách (legitimate) nếu loài
người có quyền chọn lựa để hành động theo cách này hoặc cách nọ.
Chúng ta chỉ cảm thấy hổ thẹn hoặc hối hận ít nhiều về một hành
động của mình trong quá khứ, hoặc tự trách mình đã không làm
điều đáng phải làm ngay khi trong thâm tâm mình có sức mạnh để
làm điều ấy hoặc làm điều ngược lại.
Không tự do không đạo đức
Ðạo đức là một thực tế; nó được diễn đạt bằng sự bắt buộc, và nó
liên quan tới sự tự do chọn lựa giữa các cách thế hành động khác
nhau, này hoặc nọ. Không thể nào có sự chọn lựa đó trong một vũ
trụ mang tính máy móc chủ nghĩa, nơi bạn chỉ có thể là "cái bạn
đang là", và "mọi sự đang là" đều đã bị quyết định "phải là như
thế".
Trong vũ trụ mang tính máy móc chủ nghĩa ấy, người tốt không thể
được ca ngợi vì sự thiện của họ, và người xấu không thể bị khiển
trách vì sự ác của họ, bởi lẽ chẳng người nào chịu trách nhiệm
về hành động của mình. Không thể có đạo đức nếu không có tự do
chọn lựa, và không thể có tự do chọn lựa trong một vũ trụ máy
móc chủ nghĩa. Vì thế, người ta lập luận rằng máy móc chủ nghĩa
không có khả năng giải thích đạo đức.
3. Tôn giáo
Tôn giáo không có ý nghĩa
Trong một vũ trụ máy móc chủ nghĩa, tôn giáo chẳng có chút ý
nghĩa nào. Tôn giáo là một trong các thực tế lan tỏa nhất của
kinh nghiệm. Dù có thể khoác những hình thức khác nhau, tôn giáo
quả thật, một cách tổng quát, liên quan tới ý tưởng về Thượng
đế, đấng can thiệp vào dòng chảy của các biến cố vì phúc lợi của
những kẻ tin vào ngài.
Dù tôn giáo ở phương Ðông hay phương Tây, tiềm tàng trong dân
gian hay có định chế vững chắc, thờ phượng Thượng đế, thí dụ
Thiên Chúa giáo, hay không cụ thể minh danh ngài, thí dụ Phật
giáo. Trong vũ trụ máy móc chủ nghĩa, không có sự biện minh cho
một khái niệm như thế. Thế giới ấy vỏn vẹn chỉ có vật chất
chuyển động một cách mù lòa theo những nguyên nhân có tính sản
sinh hoặc phát sinh, và chẳng chỗ nào có chứng cớ về một Ðấng
tối cao nào đó.
Thượng đế toàn năng
Trong khi ao ước bảo tồn tôn giáo của mình và tìm cách chứng
minh đức tin của mình, người tôn giáo có thể lập luận rằng ít
nhất phải có lời giải thích về khởi thủy của vạn vật; và Thượng
đế được thừa nhận là Ðấng Sáng thế, kẻ khởi đầu cho toàn bộ cấu
trúc vật lý này. Nhưng Thượng đế chỉ là Ðấng Tạo hóa mà thôi thì
không đủ làm mãn nguyện nỗi thôi thúc tôn giáo.
Ngang đây có thể mở một ngoặc đơn. Trong chủ đề này, nổi bật
quan điểm của người Phật giáo được hiểu như một ngoại lệ. Phật
giáo không đặt vấn đề cụ thể về Thượng đế hiện hữu hay không
hiện hữu. Ðối với Ðức Phật, bấn cứ vấn đề nào không liên quan
tới khổ não, kể cả vũ trụ quan, cũng chỉ làm chúng sinh xao
lãng. Con người phải đặt trọng tâm mọi nỗ lực của nó vào vấn đề
nhìn cho rõ căn nguyên khổ não của mình và tự mình diệt khổ não.
Người Phật giáo sống thân tâm an lạc không phải vì sở đắc được
cái này cái nọ, mà đơn giản chỉ vì lòng không còn khổ.
Trở lại với người máy móc chủ nghĩa, do bởi họ nhìn thế giới là
đối tượng của những qui luật bất di bất dịch nên họ thấy không
cách gì sửa đổi nó, và nhất thiết Thượng đế phải không có mặt
trong cái gọi là cuộc sáng thế của ngài. Và ngài cũng không có
khả năng hành động bất cứ điều gì trong cuộc tạo hóa và trong
thế giới đó. Lời kêu cầu của những kẻ đi theo ngài có thể tới
tai ngài, nhưng ngài phải bỏ nó ở ngoài tai hoặc phải đứng yên,
bất động nhìn dân ngài bị đè bẹp dưới các sức mạnh mà ngài không
kiểm soát chúng.
Khoa học không tôn giáo
Một nhà khoa học, với tư cách là nhà khoa học, không quan tâm
tới câu hỏi về nguồn gốc của vũ trụ vì y không xem đó là câu hỏi
có thể trả lời. Y cũng không thấy việc trả lời câu hỏi ấy có thể
đưa tới tác động nào, nghĩa là hoặc làm thay đổi chút nào thế
giới tự nhiên, hoặc làm cho chóng vánh hơn công tác thực nghiệm
của y. Trong vũ trụ máy móc chủ nghĩa, nếu có tôn giáo thì đó là
một thứ tôn giáo xanh xao thiếu máu.
Những kẻ chống đối máy móc chủ nghĩa trả đũa rằng tôn giáo là
một kinh nghiệm thật sự trong đó con người ý thức sự có mặt của
Thượng đế, được bảo đảm về sự có mặt của ngài và được an ủi.
Thượng đế không là một Ðấng Tạo hóa vắng mặt và bất lực mà là
một thực tại hướng dẫn, ủi an và muôn đời hiện diện. Tiến trình
sáng thế của Thượng đế vẫn đang diễn ra, càng lúc càng tốt đẹp
hơn. Và vì chủ nghĩa máy móc không có khả năng giải thích tôn
giáo nên nó bị giới hạn trong các giải thích "máy móc và khô
khan" của nó.
4. Tâm trí
Hoạt động tinh thần và vật chất
Tuy chủ nghĩa máy móc không bị buộc phải liên kết với chủ nghĩa
duy vật (materialism) nhưng nó cực kỳ thoải mái trong cuộc liên
minh này. Bởi thế người máy móc chủ nghĩa có khuynh hướng thông
giải các hiện tượng tâm thần (mental phenomena) bằng những thuật
ngữ có tính vật chất.
Ðối với người máy móc chủ nghĩa, hoạt động tinh thần là một hình
thức thao tác trong não bộ, giống như một tổng đài điều phối
điện thoại, nơi các thông điệp được truyền đi qua một dây thần
kinh được móc nối với những dây thần kinh khác, hoặc là vấn đề
hoạt động có tính hóa học hoặc cái gì đó thuộc về tự nhiên.
Vì hoạt động tinh thần là một thực tế nên phải giải thích nó
theo khía cạnh tự nhiên. Với người máy móc chủ nghĩa, hoạt động
ấy không thể do bản thể tinh thần cung cấp, mà phải được giảm
thiểu thành một hoạt động vật chất, đang thao tác theo định luật
nhân quả.
Còn về ý tưởng trừu tượng
Những kẻ chống đối thuyết duy máy móc quả quyết rằng nói như thế
không bao giờ có thể là một thông giải thích đáng các hiện tượng
tinh thần. Ta có thể qui các ý tưởng đơn giản cho cảm xúc, như
Hobbes đã làm, thế nhưng kẻ nào có thể truy tầm dấu vết của các
ý tưởng cực kỳ trừu tượng của toán học trong sự thao tác mù lòa
của các phân tử vật chất?
Con người có khả năng tập tành trong tâm trí nó một phong cách
cư xử có hạnh kiểm mà không cần phải thao diễn nó ra bằng các
hoạt động thể lý thật sự, và thậm chí có thể thấy trước, nếm
trải trước những gì sẽ theo sau các hành động thể lý nhất định.
Ta có thể chứng thực cho điều đó bằng các minh họa về tự kỷ ám
thị, quán tưởng, thần giao cách cảm, mơ mộng, thiền định, v.v.
Thật khó có thể qui những hiện tượng đó cho hóa học.
Ý tưởng tự nó có ý nghĩa
Ý tưởng không đơn giản chỉ là hình ảnh của các đối tượng ngoại
tại, chúng cũng có ý nghĩa của chính chúng. Một ý tưởng chỉ tới,
hoặc ngụ ý cái gì đó khác với bản thân nó. Trong số những ý
tưởng của chúng ta, có các ý tưởng về chân, thiện, mỹ. Thật
không cách gì chứng minh làm thế nào chúng có thể phát sinh từ
hành động thuần túy vật lý học và hóa học.
Nếu nói rằng các tác phẩm của Newton, Plato, Shakespeare, Nguyễn
Trải, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v. chỉ là kết quả hoạt động mù
lòa của nguyên tử đang chuyển động không ngừng dưới tác động
hiệu ứng của quan hệ nhân quả mà không có bất cứ kế hoạch hoặc
cứu cánh nào, thì hình như "hơi bị phi lý".
IV. Thuyết tiến hóa và chủ nghĩa máy móc
1. Quá trình hình thành
Phải có câu trả lời
Vật lý học và hóa học, hai ngành khoa học khống chế thuở mới bắt
đầu thế kỷ 19, bị thôi thúc phải phản biện các ý kiến chống đối
ấy. Nhà khoa học tin cả những nơi y có thể không thấy, và y giả
định có thể đưa ra lời giải thích có tính tự nhiên cho các hiện
tượng ấy một khi có thêm tri thức. Ðức tin ấy của nhà khoa học
có vẻ được biện minh bởi thuyết tiến hóa do nhà vạn vật học
người Anh Charles Darwin (1809-1882) trình bày một cách chi
tiết, vì từ một lập trường khoa học khác, nó cống hiến câu trả
lời có vẻ hợp lý cho các vấn đề đạo đức, tôn giáo và tâm trí vừa
đề cập ở trên.
Giờ đây, việc khoa học tìm được câu trả lời cho mọi vấn đề của
vũ trụ, hoặc đang thẳng tiến trên con đường giải thích, ngày
càng trở thành niềm hy vọng có cơ sở, và biện hộ cho thiện cảm
lạc quan của những người như Ernst Haeckel, kẻ xem sự phản đối
chủ nghĩa máy móc như là tàn tích của mê tín và ngu dốt.
Manh nha từ cổ đại
Theo Darwin, thuyết tiến hóa không mới mẻ. Thuở thế kỷ 6 trước
C.N., Anaximander đã giải thích sự xuất hiện của các vỏ sò tìm
được sâu trong nội địa bằng giả thuyết rằng mặt đất từng có thời
hoàn toàn ngập nước. Vị triết gia Hi Lạp ấy phỏng đoán rằng khi
nước rút hết, một số sinh vật tự tái điều chỉnh với môi trường
mới bằng cách lập thành các cơ quan thích nghi. Những hình thức
đa dạng của các sinh vật, như chúng ta biết, phát sinh từ những
nguồn gốc khiêm tốn. Aristotle biến ý tưởng về triển khai ấy
thành tâm điểm học thuyết của ông, dù nó bị giới hạn trong vòng
những chủng loại không biến đổi.
Vào thế kỷ 18, Kant đề xuất các giả thuyết liên quan tới tinh
vân để cung cấp lời giải thích có tính tự nhiên cho các thiên
thể. Hegel biến các ý tưởng về quá trình diễn tiến (tiến trình,
process) thành tâm điểm của triết học vào lúc bắt đầu thế kỷ 19.
Nếu thuyết tiến hóa chỉ có nghĩa là triển khai hoặc tiến trình
mà thôi thì ta có thể nói một cách trung thực rằng nó không xuất
phát từ Darwin.
Ðóng góp của Darwin
Ðiều Darwin đã làm là biến các lý thuyết có tính suy tưởng về
tiến hóa thành qui mô và đạt tiêu chuẩn khoa học bằng cách sưu
tập một số lượng rất lớn những thí dụ thực nghiệm (empirical
instances) làm thành kiểu mẫu hỗ trợ cho các ý tưởng lý đoán ấy.
Có lẽ đánh giá thích đáng nhất về sự đóng góp của Darwin là, vào
lúc bắt đầu thế kỷ 19, ý tưởng về thuyết tiến hóa đã quen thuộc;
nhiều người tìm cách chứng minh nó tới độ tích lũy được nhiều sự
kiện khoa học gợi tới một sự giải thích như thế nhưng định hướng
của nó không rõ ràng; các lý thuyết đương thời hoặc quá tưởng
tượng hoặc quá suy tưởng, cho tới khi Darwin viết cuốn sách kinh
điển của ông.
2. Lamarck
Sửa đổi theo môi trường
Vào lúc bắt đầu thế kỷ 19, *Jean Pierre Lamarck (1744-1829),
người được xem là nhà lý thuyết tiến hóa tiền Darwin, tiến hành
một nỗ lực trang trọng và tiên khởi nhằm cung cấp lý thuyết cho
cuộc tiến hóa. Nhà vạn vật học người Pháp ấy giả định rằng mỗi
sinh vật khi bị đặt vào một môi trường sống, tự nó phải thích
nghi nếu nó hy vọng được sống sót. Chừng nào môi trường vật lý
ấy còn kéo dài một cách hợp lý và không biến đổi, chừng đó vẫn
chưa có vấn đề vì sinh vật đã được trang bị để đáp ứng các đòi
hỏi của môi trường ấy.
Khi môi trường biến đổi mạnh mẽ, sinh vật cũng phải biến đổi
theo hoặc bị diệt vong. Ðiều thiết yếu là phải giả định rằng
sinh vật đó có khát vọng sinh tồn và có năng lực sửa đổi cấu
trúc hoặc tập quán của nó để đáp ứng được hoàn cảnh mới. Căn cứ
vào sự kết hợp của nỗ lực và khát vọng, ta có thể giải thích
cuộc tiến hóa của các sinh vật.
Khát khao và rán sức
Hươu cao cổ từng có thời tầm vóc không khác con ngựa ngày nay
bao nhiêu. Tuy thế, nó cần thực phẩm là lá của một loại cây nhất
định. Thuở đó, có rất nhiều loại cây ấy, sum suê lá tới độ hươu
cao cổ có thể thỏa mãn nhu cầu của nó bằng cách thoải mái ăn lá
ở những cành thấp. Rồi xảy tới một chuỗi hạn hán làm chết rất
nhiều cây và giảm số lượng lá. Chẳng bao lâu sau, lá ở các cành
thấp cũng thưa thớt dần, không đủ cung cấp cho hươu. Ðể sống
sót, hươu phải ăn lá ở những cành cao hơn. Hươu có khát vọng
sinh tồn và phải đem hết nỗ lực cần thiết ra mà tự sửa đổi cấu
trúc của nó, do đó cần cổ của nó duỗi dài.
Lối cắt nghĩa ấy đủ để giải thích những biến đổi trong các con
hươu cao cổ nguyên thủy nhưng không thể giải thích sự kiện những
con hươu cao cổ ngày nay, lúc mới chào đời, cổ cũng đã dài sẵn.
Ðiều thiết yếu là phải bổ sung vào lời giải thích đó một giả
định rằng các đặc điểm đạt được ấy qua di truyền khiến hậu duệ
bẩm sinh sở hữu cái chỉ được tổ tiên của chúng sở đắc bằng nỗ
lực.
Xét theo quan điểm khoa học, lý thuyết ấy xem ra có nhiều thiếu
sót. Sự giải thích bằng khát vọng và nỗ lực đã loại trừ mọi khả
năng làm thí nghiệm để có thể quyết định giá trị của giả thuyết
ấy. Giả thuyết về di truyền các đặc điểm đã đạt không được đánh
giá một cách tổng quát là đúng vì nó liên quan tới giả định có
thể di truyền sự sửa đổi các tế bào của cơ thể.
Không hẳn máy móc chủ nghĩa
Nhà sinh vật học người Ðức *Friedrich Weismann (1834-1914) đã
chứng minh rằng sự di truyền bị giới hạn trong các tế bào mầm.
Do đó, nếu tôi bị cụt tay hay mất một con mắt, những biến đổi
trong cơ thể của tôi sẽ không bị lưu truyền cho con cháu của
tôi. Những khác biệt trong di truyền tùy thuộc vào những biến
đổi trong tế bào mầm. Quan điểm này ngày nay được chứng thực bởi
các khám phá về DNA (Acid deoxyribonucleic) và gene di truyền.
Dù thuyết của Lamarck có vẻ như cắt nghĩa có tính tự nhiên nhưng
nó không là lời cắt nghĩa mang tính máy móc chủ nghĩa, vì nó quả
quyết rằng khả năng của hành động sửa đổi cấu trúc vật lý là do
bởi hoạt động có tính cứu cánh. Lý thuyết của Darwin được đánh
giá ưu việt vì nó giải thích hết thảy những biến đổi bằng cách
viện dẫn nghiêm ngặt tính hiệu ứng của quan hệ nhân quả và ăn
khớp với lược đồ mang tính máy móc chủ nghĩa.
3. Darwin
Phương pháp khoa học
Bằng tinh thần khoa học chân chính, Darwin tiếp cận vấn đề tiến
hóa. Ông sưu tập một khối lượng dữ liệu rất lớn, từ chuyến đi
theo con tàu H.M.S. Beagle lần đầu tiên năm 1828. Kế đó, ông
tiến hành thí nghiệm với cây cối và chim bồ câu. Trước khi kết
thúc lý thuyết chung quyết của mình, Darwin lại đề ra nhiều giả
thuyết khác nhau rồi lần lượt bác bỏ chúng vì chúng không đáp
ứng đủ các tiêu chuẩn khoa học.
Ðối với Darwin, vấn đề là đưa ra lý thuyết và bằng cách thức
giản dị nhất, giải thích về mặt tự nhiên sự giống nhau trong cấu
trúc giữa các động vật khác nhau, thí dụ giữa ngựa và người. Ông
cũng giải thích các vật hóa thạch, biểu hiện các hình thức của
cuộc sống không còn hiện hữu và ảnh hưởng hiển nhiên của môi
trường lên sinh vật.
Cảm hứng và mục đích
Các chuyến đi trên con tàu H.M.S Beagle, kết thúc năm 1831, cho
Darwin thấy rằng có vài chủng loại được phân bố một cách tổng
quát và rằng các chủng loại có khuynh hướng tách ra, đi theo
những hướng khác nhau rồi ngày càng cách xa nhau đáng kể do bởi
khoảng cách địa lý hoặc sống trong những môi trường khác nhau.
Lý thuyết về cuộc tạo hóa đặc biệt (special creation), theo kiểu
sáng thế, không thể giải thích hiện tượng ấy nếu không được bổ
túc bằng các giả thuyết khác. Vì khoa học thiên về lối giải
thích theo khía cạnh tự nhiên nên Darwin tự thấy mình có công
tác cung cấp lời giải thích kiểu đó để cắt nghĩa những gì có thể
quan sát, đồng thời gom chung mọi hiện tượng vào một nguyên lý
giải thích duy nhất.
Darwin manh nha các ý tưởng đầu tiên cho lý thuyết của mình khi
ông đọc cuốn An Essay on the Principle of Population (Một
tiểu luận về nguyên tắc dân số, 1798) của kinh tế gia người Anh
*Thomas R. Malthus (1766-1834). Trong sách đó, Malthus vạch ra
rằng sinh vật gia tăng theo cấp số nhân so với mức gia tăng thực
phẩm thiên nhiên cung cấp cho chúng. Nếu vô lượng hậu duệ của cá
hồi, ruồi và chuột vẫn tiếp tục sống đủ số, chẳng bao lâu nữa
chúng sẽ làm kiệt quệ nguồn dinh dưỡng tự nhiên của chúng.
Sự chọn lọc tự nhiên
Theo Malthus, thiên nhiên hào phóng việc sinh con đẻ cháu nhưng
keo kiệt về thực phẩm. Sự kiện ấy dẫn tới cuộc tranh đấu
giành các phương tiện sinh tồn, Darwin xem lập luận đó là
chìa khóa thứ nhất dùng để thông giải thiên nhiên. Vì dù cho chỉ
quan sát một cách tình cờ, ta cũng thấy thiên nhiên đẫm máu với
nanh cùng vuốt. Sinh vật đánh giết nhau vì thực phẩm khiến một
số có thể sống sót và nhiều con phải chết.
Darwin cũng ghi nhận rằng dù có thể giống với bố mẹ, các hậu duệ
không bao giờ giống hệt. Mỗi đứa con có dấu hiệu nào đó phân
biệt với bố mẹ của nó. Ở đây, chúng ta có được chìa khóa thứ hai
của cuộc tiến hóa, đó là sự biến dị (variations).
Rõ ràng rằng những biến dị phát sinh từ các nguyên nhân tự nhiên
và rằng trong đó có một số biến dị hữu dụng để sống sót, trong
khi một số biến dị khác lại làm thương tổn. Trong cuộc vật lộn
tranh giành thực phẩm, biến dị nào cung cấp lợi thế thì khiến
cho sinh vật sở hữu nó có khả năng sống sót. Chìa khóa của
"chọn lọc tự nhiên" (natural selection) hẳn là sự xảy ra các
biến dị, cung cấp cho những sinh vật sở hữu chúng thế thượng
phong trong cuộc chiến đấu ấy.
Chỉ những biến dị nào tạo ngay lợi thế mới được sinh vật ấy sở
hữu. Do đó, Darwin chấp nhận lý thuyết về kế thừa những đặc điểm
đã được tiền bối sở đắc. Ðiều ấy có nghĩa rằng các biến dị được
lưu truyền cho hậu duệ. Giả sử có một biến dị nào đó không những
đưa tới thành quả trong cuộc chiến đấu mà còn hữu ích cho sự hợp
quần, hậu duệ cũng sẽ được chia sẻ cái biến dị nguyên thủy ấy.
Sự chọn lọc và rồi khác biệt nhau tùy thuộc vào những biến dị
thêm nữa về sau. Khi thời gian chín muồi, những tích lũy các
biến dị khiến lớp hậu duệ lâu đời rất khác với các tổ tông
nguyên thủy của chúng, và có thể gọi chúng một cách thích đáng
là các chủng loại mới. Vì thế, tác phẩm kinh điển của Darwin
xuất bản năm 1859 có nhan đề là On the Origin of Species
(Bàn về nguồn gốc các chủng loại).
Tiến hóa và tạo hóa
Công trình ấy là một bản báo cáo rất đại cương về một trong các
lý thuyết có tính cách mạng nhất trong lịch sử khoa học. Nó dự
tính trình bày phương cách các khuynh hướng mang tính tự nhiên
chủ nghĩa (the naturalistic tendencies) trong khoa học đang
chuyển động hướng tới việc bác bỏ lời giải thích siêu nhiên –
thí dụ, có tính Kinh Thánh – về khoảnh khắc tạo hóa nguyên thủy
(original creation) – thí dụ, do một lời phán đầy uy quyền của
Thượng đế, đấng Sáng thế – trong đó hết thảy các chủng loại được
tạo ra trong sự khác biệt và riêng biệt nhau một cách không thể
sửa đổi.
Lý thuyết Darwin có dự tính giải thích các chủng loại khác nhau
đang sống, từ những khởi đầu rất khiêm tốn, không theo kế hoạch
nào hoặc không có cứu cánh nào, nhưng chỉ với tình trạng bị điều
kiện hóa của các biến dị vốn xảy ra từ các điều kiện phát sinh
một cách tự nhiên. So với các lý thuyết đương thời, lý thuyết
của Darwin đưa ra lời giải thích có vẻ hợp lý hơn rất nhiều và
giản dị hơn rất nhiều về nguồn gốc, bản tính và phát triển của
các chủng loại khác nhau.
Phân biệt thầy và trò
Thuyết tiến hóa của Darwin sở dĩ được dành một chỗ giới thiệu
tương đối rộng trong cuốn sách triết học này là chỉ để trình bày
cách thức khoa học tìm thấy câu trả lời có tính tự nhiên cho các
vấn đề được đặt ra bởi các hiện tượng như đạo đức, tôn giáo và
tâm trí, nhằm làm cho trọn vẹn khuôn mẫu tổng quát (the general
pattern) của chủ nghĩa máy móc.
Giống như phải dứt khoát phân biệt Newton với những kẻ theo
Newton, đôi khi ta cũng phải phân biệt Darwin với những kẻ theo
Darwin. Các đệ tử của Darwin thỉnh thoảng cổ vũ cho một lập
trường quyết liệt hơn sư phụ đối với ba chủ đề chúng ta vừa nêu,
đó là đạo đức, tôn giáo và tâm trí. Vì ưu tiên quan tâm tới loại
lập trường do chủ nghĩa máy móc đưa ra, nên chúng ta sẽ chỉ ứng
xử với vấn đề ấy thay vì đề cập chi tiết sự phân biệt giữa thầy
và trò.
4.
Tiến hóa của sự sống
Nguồn gốc vũ trụ
Khởi đi từ vụ nổ Big Bang 15 tỉ năm trước – có nhà khoa học bảo
chính xác là 13.7 tỉ năm – vũ trụ bắt đầu bước vào mùa xuân. Từ
nhất điểm tế vi nổ bùng, vũ trụ bắt đầu trương ra, bắt đầu có
không gian và thời gian, và nay vẫn đang trong thời trương nở.
Khi hết độ trương, vũ trụ hoặc giữ được thăng bằng theo nguyên
trạng hoặc cuốn mình trở về nhất điểm hố đen (black hole), thì
đó là điều khoa học đang nỗ lực khám phá.
Cho tới nay, chúng ta biết địa cầu là một hành tinh trong thái
dương hệ này, thành hình khoảng 4.6 tỉ năm trước, với tâm điểm
là Mặt trời. Ban đầu, địa cầu là một quả cầu bằng đá, nóng đỏ
rực nên không thể có sự sống. Phải chờ đến hơn hai tỷ năm sau,
trái đất mới nguội dần. Những vùng có chất lỏng biến hóa dần
thành biển với chất nước như ngày nay, và mới bắt đầu có những
sinh vật sơ khai. Ðây cũng là lúc các vật chết như đá trở thành
những vật sống hay động vật, nghĩa là những vật biết di chuyển
và có những đặc tính của sự sống theo như mô tả của các nhà khoa
học ngày nay.
Nguồn gốc sự sống
Sự sống đến từ vũ trụ và các sinh vật trong đó có con người phát
sinh từ đại dương. Môn sinh hóa (biochemistry) đã dẫn dắt chúng
ta tìm hiểu phản ứng từ những chất vô cơ cho ra chất hữu cơ với
một tổ chức cực kỳ vi diệu. Khoảng 3.5 tỉ năm trước, khi trái
đất đã có bầu khí quyển, các phân tử trong biển sơ khai "tiền
sinh học" có thể đã tự hơp thành một loạt những phân tử hữu cơ
thật đơn giản, chẳng hạn chất adenine, một trong bốn chất tạo
thành RNA và DNA, những viên gạch đắp thành chất protein của
sinh vật.
Khoa học ngày nay tìm thấy những hợp chất hữu cơ ấy ngay cả
trong vũ trụ, trên các sao chỗi, các vẫn thạch và trong các đám
tinh vân chưa "chín muồi" để biến thành thái dương hệ như thái
dương hệ của chúng ta. Trong khoảng thời gian 900 triệu năm đầu
kể từ khi mới thành hình, và vẫn còn là quả cầu rực lửa, trái
đất bị các cuộc "oanh tạc" của các sao chỗi, các vẫn thạch,
thiên thạch khổng lồ của vũ trụ, bắn chất hữu cơ vào trái đất.
Những khám phá mới nhất trong năm 2004, với sự thám hiểm của các
phi thuyền không gian tự động bay trong thái dương hệ và các
khảo sát về những mảnh vẫn thạch tìm thấy chìm sâu trong lòng
đất đã cho thấy có những chất hữu cơ bắn vào trái đất, tạo ra sự
sống.
Nguồn gốc con người
Hết thảy các sinh vật, trong đó có con người, đều có chung một
thủy tổ sống ở biển. Ðiểm này, Trang Tử đã nói đúng trong Nam
hoa kinh, lưu hành khoảng 22 thế kỷ trước. Phần lớn các dạng
sinh vật đa tế bào đầu tiên xuất hiện ở biển 900 triệu năm trước
nay chỉ còn một ít xương cốt hóa thạch, thế nhưng các nhà khoa
học vẫn nỗ lực tìm kiếm những vật còn sống.
Theo tuần báo Discover số tháng 11 năm 2004, nhà khoa học
Claus Nielsen, giáo sư môn phôi học tiến hóa của động vật không
xương sống tại Ðại học Bảo tàng Ðộng vật học ở Copenhagen, Ðan
Mạch, trình bày trong cuốn sách của ông có nhan đề Animal
Evolution: Interrelationships of the Living Phyla (Tiến hóa
động vật: quan hệ hỗ tương của các hệ đang sống, 2001) về những
gì ông sưu tầm được và lập danh sách một loạt những sinh vật đã
có từ thuở xa xưa ấy mà nay còn sống.
Từ danh sách đó, Nielsen chọn ra một sinh vật đã có từ thuở
nguyên sơ nhất trong quá khứ. Tổ tiên xa thăm thẳm nhất của con
người là một loại bọt biển (sponge) sống gom lại thành những
khối trông giống như đóa bông cải (súp-lơ). Ðây là thủy tổ của
mọi loại cá tôm hay mọi hải sản, kể cả thuồng luồng ba ba và
những biến dạng bò lên đất liền trong hàng trăm triệu năm, trong
đó có loài người.
Vật lý học cho chúng ta biết nền tảng của mọi vật chất, kể cả
sinh vật, là nguyên tử. Hóa học cho thấy các nguyên tử hợp thành
một cơ cấu gọi là phân tử. Và môn sinh vật học cho biết có những
phân tử rất phức tạp, hợp thành các vi bào, và các vi bào hợp
thành các tế bào. Những sinh vật đầu tiên sinh ra ở biển đều là
những sinh vật đơn tế bào ở dạng thật đơn giản. Phức tạp hơn
nữa, các tế bào họp thành những mô, loài người là sinh vật có
cấu trúc tế bào tinh vi nhất.
Từ thú vật thành nhân vật
Theo hóa học tiền sinh học, có thể ghi nhận tổng quát các thời
điểm tiến hóa của loài động vật như sau:
1. Khoảng 300 triệu năm trước, trên trái đất các động vật xuất
hiện chỉ là loài bò sát;
2. Khoảng 100 triệu năm sau đó, xuất hiện loài có vú;
3. Khoảng 65 triệu năm trước đây, loài khủng long (dinasaur)
biến mất mau lẹ, nhường chỗ cho sự nở rộ của muôn loài cầm thú.
Từ đó, để tiến hóa thành loài người, theo khoa khảo cổ nhân
chủng học thì:
1. Khoảng 7 triệu năm trước, phát triển mạnh loài gọi là
"primate" có hình dạng giống loài khỉ sơ khai. Ðã tìm thấy
di tích và xương cốt của loài này;
2. Khoảng 2 triệu năm trước, hình dạng primate còn bao gồm một
loạt những loài có thể là "dạng người" (hominid); chúng
có thể đứng thẳng và di chuyển bằng hai chân thay vì dùng cả bốn
chân như những loài có vú khác. Loài hominid gồm các loại
khỉ lớn nhỏ, vượn, đười ươi, hắc tinh tinh, và cả một loại gần
giống như người nên có thể gọi là "dã nhân" trong đó một
phần còn lại như ngày nay và một phần khác đã bị tiêu diệt;
3. Khoảng 2 triệu năm trước, giống dã nhân (homo) có một loại là
homo habilis có hai chân hai tay dài hơn các loại
hominid. Khác nhất là bàn tay đã khéo léo biết dùng cục đá làm
dụng cụ;
4. Khoảng 1.75 triệu năm trước, trong các loại homo habilis nhỏ
bé, đã có một loại lớn hơn gọi là homo erectus phát triển
mạnh, có khả năng đứng thẳng lâu hơn và bước đi vững vàng hơn;
có thể coi đây là tiền thân của loại homo sapien, thủy tổ
loài người;
5. Khoảng 300 ngàn năm trước, các loại dã nhân khác dần dần bị
tiêu diệt chỉ còn loại homo sapien biết sử dụng những
dụng cụ làm bằng đá tinh vi hơn, có bộ óc lớn hơn các loài homo
khác, và phát triển thêm nữa;
6. Khoảng 90 ngàn năm trước, loại homo sapien mới xứng
đáng được gọi là người tiền sử vì lúc đó, các vị thủy tổ
của chúng ta mới có hình dạng giống như loài người ngày nay.
7. Khoảng 50 ngàn năm trước, con người đã có những bùng nổ phi
thường về kỹ thuật và văn hóa. Ta biết được nhờ đào thấy các vật
dụng như đồ trang sức có chạm khắc, xương thú vật mài nhọn gắn
vào đầu gậy làm vũ khí và nhiều loại vật dụng khác. Mấy chục năm
trước đây, còn tìm thấy trong các hang động sâu ở Pháp có những
hình con ma-mút, con tê giác có lông dài mượt vẽ trên đá của
người tiền sử khoảng 32 ngàn năm trước.
Lộ trình di cư của loài người
Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh đã tóm tắt trong cuốn Những mùa
xuân trở lại, trang 95, rằng theo khoa học, các loài homo
habits và homo erectus đều có gốc gác ở châu Phi.
Trong khoảng thời gian từ 1.7 triệu năm trước, họ bắt đầu di dân
sang Trung Ðông rồi từ đó tản mát phần lớn qua phía Ðông về phía
châu Á, chỉ có một phần nhỏ tiến về phía Tây Bắc qua châu Âu.
Trong khoảng thời gian trên 1 triệu rưỡi năm, các loài homo vừa
tản mát đi các nơi lại vừa tiến hóa rất mau lẹ nên đã từ "dã
nhân" họ thành người thật, giống như ngày nay. Tại Trung Hoa,
người ta tìm thấy xương hóa thạch của loài homo erecrus
sống khoảng từ 300,000 to 500,000 năm trước trong hang động, nay
là Bắc Kinh, nên được gọi là Peking Man (Người Bác Kinh) và đã
biết dùng lửa.
Tháng 8 năm 2003, báo chí khoa học loan tin các nhà khảo cổ tìm
thấy xương cốt của loài homo erectus tại Cộng hòa
Georgia, gần Hắc Hải, phía trên Thổ Nhĩ Kỳ, cũng trên đường di
cư của các tiền bối "dã nhân" đi về phía châu Á. Các xương này
thuộc loại dã nhân sống vào khoảng hai triệu năm trước, chứng tỏ
các cuộc di cư có thể đã có nhiều đợt sớm hơn. Và nếu xét theo
di tích các vật dụng đào được, có thể ngoài giống homo
erectus còn có các giống dã nhân khác.
Vấn đề đặt ra là trong số các loài dã nhân, tại sao chỉ có một
loài tiến hóa thành người, và cái gì đã giúp cho sự tiến hóa đó.
Trong lộ đồ từ thú vật sang nhân vật, loài người có cấu trúc
tinh vi nhất. Có giả thuyết khoa học cho rằng sở dĩ loài người
sống sót và phát triển như ngày nay là nhờ có những bộ phận
trong cơ thể như não bộ, tứ chi, có khả năng tự vệ, đào tẩu, và
thích nghi, hiểu theo nghĩa của thuyết tiến hóa "kẻ thích ứng
nhất thì sống sót" (Survival of the fittnest).
5. Tiến hóa của tâm trí
Duy tâm và duy vật
Những người theo Aristostle nêu ý kiến rằng tâm trí thì khác với
thể xác, và ngay cả Descartes, quan điểm ấy cũng được ông duy
trì để lập thành sự phân biệt rõ ràng và dứt khoát. Ông ứng xử
với thể xác và tâm trí như đang hiện hữu hai bản thể khác nhau,
không có đặc điểm chung và không thể trực tiếp tác động lên
nhau.
Quan điểm ấy làm phát sinh vô số vấn đề về nhận thức mà đối với
chúng dường như không thể nào có câu trả lời. Người duy vật chủ
nghĩa gạt bỏ sự tách đôi ấy; họ phủ định bất cứ dị biệt có tính
bản thể nào giữa tâm trí và thể xác bằng cách giảm thiểu hoạt
động tinh thần thành có tính vật lý: tâm trí là não bộ hoặc liên
quan tới não bộ.
Theo lập trường ấy, trí tuệ không là đặc quyền của con người; ta
có thể thấy nó trong các động vật thấp hơn con người và nó cũng
có thể cho ta thấy một sự phát triển hoặc tiến hóa theo đường
thẳng tuyến tính. Ðiều này được nhận ra rõ ràng nhất trong liên
quan tới sự phát triển hệ thần kinh.
Phát triển qua biến dị
Có thể lần tìm dấu vết cuộc tiến hóa của hệ thần kinh từ những
khởi đầu rất đơn giản trong quá trình hình thành bộ não khiến nó
càng ngày càng thích đáng hơn. Con người sở hữu bộ não phát
triển cao nhất trong hết thảy các sinh vật hữu cơ, và khả năng
suy tư của con người có liên quan tới thực tế đó.
Phải giải thích sự phát triển hệ thần kinh và não trong liên
quan tới những biến dị tự nhiên, có giá trị cho cuộc sinh tồn,
vì chúng cung cấp cho sở hữu chủ của chúng khả năng chiến đấu để
sống sót. Não được phát triển qua những biến dị phi kế hoạch và
phi hướng dẫn. Chính nhờ não mà có khả năng suy nghĩ.
Nhờ bộ não tối ưu của mình mà loài người sống sót trong khi các
sinh vật khác mạnh hơn, nhanh hơn, được trang bị tốt hơn với
nanh cùng vuốt, vẫn bị tiêu vong. Thực tế của não không đòi hỏi
bất cứ lời giải thích siêu nhiên nào mà có thể giải thích nó
bằng các nguyên tắc tổng quát của cuộc tiến hóa tự nhiên của hệ
thần kinh và não.
6. Tiến hóa của đạo đức
Nhu cầu của xã hội
Khi đàm luận về vấn đề đạo đức và tôn giáo, chúng ta cần phải đi
quá bên kia cuộc tiến hóa của cá nhân để tới cuộc tiến hóa của
xã hội, nhưng cả hai cũng bao hàm các nguyên lý tổng quát giống
y như nhau.
Ðể xã hội tồn tại, con người phải có khả năng giải quyết các vấn
đề của nó. Khi đối mặt với những nguy cơ hăm dọa cuộc sinh tồn
của mình, xã hội thử nghiệm các hình thức đạo đức nhất định.
Chừng nào các hình thức hạnh kiểm ấy còn có giá trị cho cuộc
sinh tồn của tập thể, chừng đó chúng vẫn được xã hội bảo lưu như
những qui tắc tiếp nhân xử thế.
Chúng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thí dụ
phong tục tập quán, và chẳng bao lâu chúng sở hữu thẩm quyền
khiến cho bất cứ động thái lệch lạc nào cũng bị xem là có tính
hăm dọa đối với xã hội và là một biểu lộ vô đạo đức. Ðiều ấy có
thể minh họa bằng cuộc tranh chấp thời nào cũng có giữa các thế
hệ khác nhau về những hình thức động thái thích đáng, vì dường
như thế hệ lớn tuổi thường cho rằng thế hệ trẻ tuổi là suy đồi
và vô luân.
Cũng có những sửa đổi
Theo quan điểm ấy, không thể thông giải các luật lệ đạo đức, thí
dụ Mười điều răn của Thiên Chúa giáo hay Bát chánh đạo của Phật
giáo, như những mạc khải thiêng liêng, mà chỉ là những khuôn mẫu
động thái (patterns of behaviour), hay tác phong kiểu mẫu, được
triển khai trong một hoàn cảnh lịch sử và đạt được thành quả rất
cao. Bằng việc lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các
qui tắc đạo đức ấy tiếp nhận một quyền năng không phải lúc nào
cũng nhất quán với các nguồn gốc nguyên thủy của chúng.
Về mặt tự nhiên và lịch sử, sự kiện ấy cắt nghĩa lý do tại sao
xã hội nào cũng chấp nhận các qui tắc đạo đức, đồng thời người
ta đưa ra lời giải thích những khác biệt trong các định chuẩn
đạo đức của các xã hội khác nhau. Không bao giờ có việc lưu
truyền mà hoàn toàn không bị biến dị, do đó, đương nhiên có
những sửa đổi trong khái niệm về thiện ác, về cái gì là tốt và
cái gì là xấu. Các xã hội khác nhau, với những bối cảnh lịch sử
khác nhau, sẽ có những qui tắc khác nhau do bởi khác nhau về
truyền thống.
Vấn đề lương tâm
Có thể đưa ra cách giải thích tương tự cho chữ "phải" mà nhiều
người cho rằng nó có vẻ là một từ ngữ có đặc điểm đạo đức và nó
chỉ tới nguồn gốc siêu nhiên của sự ràng buộc đạo đức. Dường như
một trong các đặc điểm của con người là nhu cầu hợp quần, khát
vọng được làm thành viên của một xã hội, cộng đoàn; điều ấy
trong tự nó có liên quan tới ý tưởng về sự ràng buộc.
Do đó, chừng nào sự ràng buộc ấy còn tập trung trong lương tâm,
chừng đó vẫn có thể giải thích nó như là ảnh hưởng của các khái
niệm có tính truyền thống hoặc ảnh hưởng của giáo dục. Một số
nhà tâm lý học thông giải rằng lương tâm chỉ là tiếng nói của xã
hội liên quan tới động thái đã được chấp nhận và được dạy dỗ
trong gia đình, học đường và các cơ sở tôn giáo.
7. Tiến hóa của tôn giáo
Từ sợ hãi và ma thuật
Cũng giống như vấn đề đạo đức, có thể giải thích tôn giáo theo
khía cạnh lịch sử. Tuy vẫn lưu hành nhiều ý kiến khác nhau về
các gốc rễ thật sự của tôn giáo nhưng chúng ta có thể minh họa
thái độ tổng quát của chủ nghĩa máy móc bằng lời gợi ý rằng tôn
giáo bắt đầu trong sợ hãi hoặc ma thuật.
Theo thuyết duy máy móc, loài người tìm cách khám phá những
nguyên nhân tác động để giải thích các biến cố kinh hoàng xảy ra
trong cuộc sống. Thoạt đầu, những giải thích ấy hoàn toàn mê
tín, liên quan tới thần linh hay ma quỉ. Dần dà các ý tưởng đó
được trau chuốt đưa tới kết quả là con người tạo ra những hình
thức tương hợp hơn với lý trí và trí tuệ càng ngày càng tăng
trưởng của nó.
Một trường hợp tiêu biểu
Quá trình ấy đôi khi cũng được minh họa bằng cuộc tiến hóa trong
truyền thống Do Thái. Trong tư tưởng Do Thái thuở ban sơ, Thượng
đế có thể xuống vườn Ðịa đàng đi dạo và chuyện trò với A-đam và
E-va trong gió nhẹ chiều hôm. Tuy thế, vào thời *Mô-se, không ai
có thể bằng mắt thường của mình nhìn thấy mặt của Thượng đế mà
sau đó còn sống. Vì khao khát muốn thấy Thượng đế, Mô-se phải ở
lại trong một cái hang cho tới khi Thượng đế đi ngang mới có thể
nhìn, nhưng cũng chỉ thấy lưng của ngài. Ðấy là kể theo Kinh
thánh Cựu Ước.
Những mô tả hữu hình kiểu đó càng ngày càng bị loại bỏ cho tới
khi trong tư tưởng Do Thái về sau và trong Kinh thánh Tân Ước,
Thượng đế được xác định đặc điểm như Thần minh. Trong tư tưởng
Do Thái thuở ban sơ, được trình bày trong Cựu Ước, ta thấy tương
đối rõ ràng rằng Thượng đế chỉ được xem là một vị Thần của bộ
lạc, kẻ tháp tùng dân ngài khi lâm trận và bảo đảm rằng họ sẽ
chiến thắng nếu họ trung thành với ngài. Ngài cũng sẽ làm cho họ
bại trận nếu họ quay lưng lại với những lời khuyên bảo dạy dỗ
của ngài.
Các ngôn sứ (prophet) Do Thái – trước đây thường gọi là tiên tri
– về sau đạt tới khái niệm rộng rãi hơn về một Thượng đế phổ
quát, nhưng mãi tới khi Ðức Giêsu xuất hiện thì tính chất phổ
quát của Thượng đế mới được khẳng định với một ý nghĩa duy nhất,
không thể mập mờ. Sự việc ấy được dùng như một minh họa cho cái
mà người theo thuyết tiến hóa quả quyết là thực chất của tôn
giáo nói chung.
Thượng đế là tạo phẩm
Do đó, người máy móc chủ nghĩa cũng quả quyết rằng Thượng đế là
sáng tạo phẩm của con người và rằng tính chất thỏa đáng của khái
niệm ấy biến hóa theo với sự tiến bộ được con người tạo ra trong
quá trình phát triển một khái niệm có lý tính về vũ trụ.
Với cuộc khải hoàn của Darwin, chủ nghĩa máy móc dường như chiến
thắng thuở đó. Tâm trí, đạo đức và tôn giáo có thể được giải
thích theo khía cạnh tự nhiên. Ðiều thiết yếu duy nhất là cần có
sự đồng ý với các nhà duy vật chủ nghĩa rằng ý-chí-tự-do
(free-will) là một hư cấu được thiết lập ở quá bên kia vấn nạn
của thuyết duy máy móc về bản tính của vũ trụ.
V. Suy tàn của thuyết Darwin và chủ nghĩa máy móc
1. Cuộc tái xét duyệt
Buông bỏ hoặc sửa đổi
Nhà khoa học chân chính sẽ không bám chặt một lý thuyết khi có
chứng cớ cho thấy nó không nhất quán hoặc không thích đáng. Sự
phát triển của sinh vật học (biology), một hệ luận từ công trình
của Darwin, mang ra ánh sáng nhiều hiện tượng không thể nào hiểu
nếu chỉ dựa vào các nguyên tắc của Darwin.
Ðiều đó không có nghĩa là phải buông bỏ lý thuyết của Darwin
hoặc phải xét lại nó. Một số nhà khoa học hiện đại nghĩ rằng chỉ
cần sửa đổi thuyết Darwin là đủ; một số người khác cho rằng nhất
thiết phải đề ra các lý thuyết khác. Cũng không ít kẻ nghĩ rằng
hãy cứ tạm thời để yên đó vì không thể loại bỏ trường hợp một lý
thuyết có thể phải đợi thời gian rất lâu sau mới sưu tầm thêm
được chứng cớ để tái xác nhận nó.
Thực tế, dù bị phản bác hay được biện minh, ảnh hưởng của Darwin
không bao giờ mất hẳn. Tuy thế, những nghiên cứu sâu xa hơn đã
và đang mang ra ánh sáng các sự kiện mà đối với giới khoa học và
triết học, dường như đòi hỏi một cách thông giải hoàn toàn khác.
Trong các năm giữa thế kỷ 20, sự thay đổi quan điểm này đã gieo
rắc lòng hoài nghi sâu đậm thuyết duy máy móc khiến cho nó cũng
phải hoặc bị buông bỏ hoặc chịu nhiều sửa đổi tới độ hình thức
nguyên thủy của nó không còn được chấp nhận.
Chừng nào chủ nghĩa máy móc còn hàm chứa sự nhất thiết kết liên
nhau và sự nối kết có thể dự báo giữa các thành tố, chừng đó
phạm vi thẩm tra mới mẻ do cuộc nghiên cứu hạt nhân mở ra vẫn
không thể nói là hậu thuẫn cho các nguyên lý của chủ nghĩa máy
móc.
Chỉ tiên đoán đặc thù
Sự dự báo của hoạt động điện tử trong các cuộc ném bom, các
chương trình điện toán, vệ tinh truyền thông hoặc viễn thám, các
cuộc du hành của phi thuyền cùng phi hành gia không gian, hoặc
thả máy móc thăm dò xuống sao Hỏa, chụp hình sao Thủy, v.v. chắc
chắn đã mang tính thống kê, thế nhưng vẫn không hoàn toàn thoát
khỏi tính riêng rẽ. Cũng một cách thức như thế, các bản xác suốt
tuổi thọ có thể dự báo con số người ta sẽ qua đời trong một thời
kỳ đã định nhưng không thể chỉ rõ đó là những người nào.
Ta cũng không nhất thiết phải nhảy sang phía đối lập để quả
quyết rằng các thuyết phi máy móc (nonmechanism) đã chiến thắng.
Môt thời gian ngắn sau khi nhà vật lý lý thuyết người Ðức
*Werner Heisenberg (1901-1976) tuyên bố nguyên lý của ông về
tính chất phi tất định (principle of indeterminacy), một sự quả
quyết rằng những dự báo về các electron (điện tử) thể hiện một
động thái vừa phải và không riêng rẽ, một số triết gia và khoa
học gia lấy đó như một bằng chứng cho thấy rằng, về mặt nền
tảng, vũ trụ mang tính phi tất định chủ nghĩa.
Ðiều xảy ra ấy nằm ngoài dự tính. Nó chỉ là phủ định các bảng
hạng mục khắc nghiệt không chấp nhận ngoại lệ do chủ nghĩa máy
móc lập thành khi áp dụng chúng vào các hiện tượng của vũ trụ.
2. Marx và Hegel
Chỉ là tiến trình hay phát triển
Phải xem thái độ mới ấy của khoa học như là cái gì đó hoàn toàn
mới mẻ. Trong thế kỷ 19, những kẻ đối lập với chủ nghĩa máy móc
không chỉ ở trong hàng ngũ thi sĩ và giáo sĩ. Dưới ảnh hưởng của
Hegel, hai nhà duy vật chủ nghĩa Karl Marx và *Engels
(1820-1895) bác bỏ chủ nghĩa máy móc như một nguyên lý có giá
trị dùng để thông giải.
Ðối với họ, thuyết tiến hóa của Darwin dường như gợi tới ý tưởng
về tiến trình hoặc phát triển chứ không phải là sự cấu thành đơn
thuần (mere composition) như chủ nghĩa máy móc đòi hỏi.
Ðơn giản và ấu trỉ
Biện chứng pháp của Hegel mà Marx chấp nhận, gieo nghi ngờ lên
bất cứ khái niệm nào về phát triển theo một đường thẳng (tuyến
tính) từ cái đơn giản tới cái phức tạp như triết gia tiến hóa
người Anh *Herbert Spencer (1820-1903) đề nghị. Thay vào đó, nó
nhấn mạnh một khuôn mẫu có tính chu kỳ hoặc xoắn ốc (a cyclic or
spiral pattern).
Ngay từ lúc bắt đầu, chủ nghĩa Marx đã xác định lập trường là
đối lập với chủ nghĩa máy móc mà dường như đối với Marx và
Engels, nó quá đơn giản và ấu trỉ.
3. Người duy tâm chủ
nghĩa
Vai trò của toàn bộ hệ thống
Sau Darwin, lập trường của người theo chủ nghĩa duy tâm
(idealism) không hoàn toàn rõ rệt. Vì về mặt cốt tủy, chủ nghĩa
duy tâm là một hệ thống chiết trung; nó đan kết hết thảy các
khái niệm thành một khuôn mẫu tổng thể, nên nó không thể bác bỏ
những khám phá của khoa học cho dẫu nó đánh giá chúng là không
thỏa đáng cho một giải thích có tính toàn bộ.
Bosanquet đặt ra khuôn mẫu đó khi ông quả quyết nếu chủ nghĩa
máy móc có thể chứng minh một cách khoa học rằng nó phải được
thông giải như một chủ nghĩa máy móc của một hệ thống (the
mechanism of a system). Cũng như ngữ cảnh quyết định ý nghĩa của
một câu văn, toàn bộ hệ thống quyết định bản tính và chức năng
của các thành phần của nó. Nếu đó là những gì chủ nghĩa máy móc
có ý nói, người ta phải chấp nhận nó.
Tuy nhiên, rõ ràng khái niệm về hệ thống đã khiến cho việc dự
báo trở thành bất khả thi hoặc chỉ là hên xui may rủi. Vì các hệ
thống chuyển động hướng tới các cấp độ mới dưới tác động của mâu
thuẫn hoặc bất thỏa đáng nên không thể nào dự báo bản tính của
các cấp độ mới ấy một cách chi tiết hoặc chính xác.
Tính chiết giảm của khoa học
Có lẽ cách tốt nhất là Bosanquet và các nhà duy tâm chủ nghĩa
nào đồng ý với ông hãy xem khoa học có tính chiết giảm theo ý
nghĩa nó phải bỏ sót để am hiểu, và vì nội dung bị chiết giảm
như thế nên nó buộc lòng phải thao tác với các hạng mục giải
thích thấp hơn. Lúc ấy, họ sẵn lòng thừa nhận rằng có thể chấp
nhận chủ nghĩa máy móc ở cấp bậc đó,, nhưng không thể chấp nhận
nó như một nguyên lý giải thích thích hợp ở cấp bậc triết học.
Sự phân chia không chút hào hứng đó về công tác của khoa học và
triết học giải thích nhiều điều hiểu lầm của chủ nghĩa duy tâm.
Trong khi thông giải tinh thần tổng quát của phong trào ấy, và
trong khi thông giải các nguyên tắc của nó dưới ánh sáng của các
khái niệm khoa học hiện đại, ta nên thẳng thắn nói rằng chủ
nghĩa duy tâm, trong khi nhấn mạnh bản tính có hệ thống của thực
tại, không cách gì cảm thấy mãn nguyện với chủ nghĩa máy móc đơn
giản.
4. Triết học tiến trình
Tiến công trực diện
Các triết gia theo triết học tiến trình hiện đại (modern
progress philosophy) tiến hành cuộc tấn công chủ nghĩa máy móc
một cách trực diện nhất. Bergson, như chúng ta sẽ thấy trong
chương kế, đã phát động cuộc tiến công chống lại khái niệm đó,
không một chút xót thương. Vị triết gia Pháp ấy cho rằng nó bất
xứng với các khám phá của khoa học và trái ngược với mọi thông
giải thích đáng về thực tại.
Bảo thủ và đơn giản
Bergson quả quyết rằng nếu chủ nghĩa duy vật máy móc
(mechanistic materialism) đúng, lúc đó toàn bộ khuôn mẫu phát
triển được phô diễn một cách hoàn toàn khác với những gì đã được
cung cấp. Trong chuỗi diễn tiến các biến cố lịch sử, chủ nghĩa
máy móc không cho phép có bất cứ cái gì mới lạ hoặc không thể dự
báo. Nếu điều đó đúng, lúc ấy, theo Bergson, bất cứ cái gì xảy
ra lúc này cũng đều phải có mặt ngay từ thuở "tạo thiên lập
đia"!
Cũng theo Bergson, rõ ràng sự đơn giản của các giai đoạn về
trước đã và đang được thay thế bằng sự phức tạp của các giai
đoạn về sau, nhưng do bởi giả định cơ bản của chủ nghĩa máy móc
nên không thể có cái gì mới mẻ ngoại trừ những sắp xếp kiểu khác
của các cái đã có sẵn ở đó. Ðối với Bergson, một khái niệm như
thế dường như đã làm cho chủ nghĩa máy móc không đúng với thực
tế và không thể xem đó như một nguyên lý giải thích có tính khoa
học.
Vô bằng và bất khả thi
Whitehead cũng bác bỏ chủ nghĩa duy vật máy móc. Nhấn mạnh tới
hệ thống (system) hay quan hệ hữu cơ (organism) như trong chủ
nghĩa duy tâm, ông tạo ra khái niệm về một thế giới được sản
sinh qua sự đơn thuần cấu thành của những phân tử vật chất
(material particles) liên quan nhau một cách ngoại tại theo
những qui luật cứng nhắc của sự quá đơn giản hóa
(oversimplification).
Ðối với Whitehead, dường như "các lý thuyết phạm trù" hiện đại
(modern "field-theories") biến lý thuyết phân tử vật chất thành
không thể chứng minh và các lý thuyết cấu thành về phát triển
thành bất khả thi. Các biến cố là sự phô diễn của tiến trình,
của tương quan có tính hệ thống. Chủ nghĩa máy móc chỉ có thể
hàm ý ảnh hưởng quyết định của một hệ thống gồm các phần tử của
nó. Hoàn toàn không có khả năng dự báo đầy đủ hoặc không mang
tính chất tất định chủ nghĩa khắc nghiệt.
5. Khoa học không thiết định
Ðạo của vật lý
Khởi đi từ khoa học thực nghiệm, các nhà khoa học tưởng sẽ cung
ứng đầy đủ lời giải đáp về thế giới tự nhiên. Niềm tự tin ấy hầu
như vững mạnh thêm nhờ những người thực chứng luận lý đang ra
sức gạt bỏ siêu hình học. Các khoa học gia mang bản sắc Newton
và các triết gia thuộc truyền thống ấy bị điều kiện hóa trong
những tri thức được gọi là khoa học thiết trí (establiahed
science), và do đó, thâm tâm họ vẫn xem những suy tưởng siêu
hình học là hoang tưởng.
Thế rồi, sang nửa sau thế kỷ 20, giới khoa học gia bàng hoàng
nhận thấy những cái được gọi là luật thiên nhiên, luật vật lý đó
mỗi lúc lại đưa họ tới những manh mối khác nữa trong đó các
nguyên lý của chủ nghĩa máy móc không thể nào giải thích đầy đủ.
Họ bị đẩy vào một cảnh giới bí ẩn của thế giới khoa học, ngày
càng dày đặc những khó hiểu, có tính huyền diệu.
Người tổng kết cho trạng thái ấy, kèm theo những nhận thức mới
là Fritjof Capra (1939- ), người Mỹ gốc Áo, giáo sư ngành
vật lý tại các đại học và các viện nghiên cứu nổi tiếng ở Hoa Kỳ
và Anh. Ông tốt nghiệp tiến sĩ vật lý thuần lý thuyết, của Ðại
học Vienna; sau đó, chuyên nghiên cứu về vật lý hạt cơ bản
(particle physics) và lý thuyết về các hệ thống (systems
theory).
Năm 1975, xuất hiện cuốn Ðạo của vật lý của Capra, với
nhan đề đầy dủ là The Tao of Physics: An Exploration of the
Parallels Between Modern Physics and Eastern Mysticism (Ðạo
của vật lý, một thăm dò những điểm giống nhau giữa vật lý học
hiện đại và huyền học Ðông phương) do Nhà xuất bản Shambhala
của Ðại học Berkeley, Hoa Kỳ. Từ đó đến nay, sách đã được tái
bản 43 lần bằng 23 thứ tiếng. Bản tiếng Việt do Nguyễn Tường
Bách chuyển ngữ với nhan đề "Ðạo của vật lý. Một khám phá mới
về sự tương đồng giữa vật lý hiện đại & Ðạo học Phương Ðông",
Nhà xuất bản Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh năm 1999.
Từ khoa học tới triết học
Theo Capra, nền vật lý hiện đại của thế kỷ 20 có đặc trưng là
cuộc truy tầm nguồn gốc nguyên sơ của vật chất. Từ đó đã tìm ta
những "hạt cơ bản" mà về mặt tối hậu, chúng đã cấu thành nguyên
tử. Thế nhưng, khi mở ra được cánh cửa, hãy cứ tạm gọi là sau
cùng, để thấy bộ mặt thật của vật chất, nhà vật lý bỗng phát
hiện rằng dường như vật chất không được tạo thành bởi những hạt
cứng nhắc, mà nó chỉ là dạng xuất hiện của một thực tại khác.
Vì thế, hầu như vật chất không có tính đối nghịch nhau. Nó vừa
liên tục vừa phi liên tục, thoắt biến thoắt hiện; và tùy vào
người quan sát mà xuất hiện. Những tính chất lạ lùng đó đưa vật
lý hiện đại vào thẳng cửa ngõ của triết học, đặc biệt của huyền
học học. Nền vật lý học hiện đại vừa đồng thuận và thông giải
nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đặt ra những vấn nạn
lớn cho loài người mà các nhà huyền học thuở xưa đã đúc kết. Và
kỳ lạ thay, những phát hiện của nền vật lý hiện đại không khác
bao nhiêu so với những kết luận của các hiền giả cổ đại. (Xem
Ðại cương triết học Ðông phương).
Sáu tiêu chuẩn tư duy mới
Trong Phụ lục được viết 15 năm sau khi cuốn The Tao of
Physics xuất bản lần đầu, Capra đề ra các tiêu chuẩn cho
khuôn mẫu mới trong tư duy khoa học. Ðó là:
1. Một khi am hiểu cái cá biệt (đặc thù) thì sẽ am hiểu nguyên
lý và sự vận động của cái tổng quát (phổ quát);
2. Thay quan niệm về cấu trúc cơ bản chủ nghĩa bằng quan niệm về
tiến trình trong đó mỗi cấu trúc chỉ là dạng xuất hiện của một
tiến trình cơ bản;
3. Không thể nói tới thiên nhiên mà không đồng thời nói tới bản
thân ta;
4. Nhận thức khoa học như một mạng lưới, không đặt căn bản trên
một nền tảng cố định nào;
5. Chuyển dịch từ mô tả chính xác qua mô tả gần đúng;
6. Chuyển dịch từ chức năng giúp con người ngự trị và kiểm soát
thiên nhiên sang hỗ trợ con người có thái độ sống hợp tác và bất
bạo động.
VI. Tóm lược
Thật không đáng ngạc nhiên khi thấy đối với các nhà tư tưởng hôm
nay, chủ nghĩa máy móc đã bị bác bỏ vì tính ấu trĩ của nó. Tuy
thế, vẫn còn nhiều người cảm thấy rằng đối với khoa học và triết
học, cách tiếp cận tốt nhất là sử dụng một hình thức nào đó của
chủ nghĩa máy móc. Có những người khác, và dường như là đa số,
quả quyết rằng tri thức khoa học hiện đại có liên hệ tới việc
thông giải các hiện tượng tự nhiên bằng các bản hạng mục khác
với các bảng của chủ nghĩa máy móc.
Ðiều đó không có nghĩa các nhà tư tưởng ấy quay lưng lại với
khái niệm ấu trĩ mang tính cứu cánh luận (naive teleological
conception) và thay thế một lập trường có tính lịch sử bằng một
cái khác. Ðúng hơn, nó chỉ cho thấy rằng các nhà tư tưởng hiện
đại đang vật lộn với vấn đề quyết định một lối tiếp cận thích
đáng, đúng với những sự kiện đã được khoa học kiến lập, và đồng
thời giải thích thỏa đáng nhất các hiện tượng mà không một hệ
thống mang tính máy móc chủ nghĩa nào có khả năng làm việc đó.n
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|