Mùng Mười tháng Ba,
thiếp kể chàng nghe ới a hồng trần
Anh
yêu,
Đố anh trong tháng Ba âm lịch, có lễ hội đặc biệt gì của dân tộc
mình nào? Lại lắc đầu cười trừ? Thật là chàng Bờm dễ ghét, chỉ
biết có nắm xôi thôi à? Lâu nay, thiếp đã không muốn cho ai biết
tên chàng, vì nó… dân dã quá. Nghe tên là biết người. Câu hỏi dễ
ợt thế mà cũng lắc đầu. Đúng là Bờm (nhớ đừng bợm là được rồi).
Nhưng thiếp yêu tính chân chất, thật thà hiền lành như đất của
chàng. Cái gì cũng hề hề, rồi xoa bụng đòi xôi.
Chàng nghe này nha, đó là mùng Mười tháng Ba, ngày Lễ Giỗ Tổ
Hùng Vương đấy.
Nhân dịp lễ giỗ Tổ, thiếp xin kể chàng nghe về ý nghĩa truyện
Tiên Rồng, một câu chuyện mang tính cách… hội nhập toàn cầu rất
hay, không chỉ như trước giờ chúng mình vẫn hiểu đâu anh. Chàng
nghe nha.
Chuyện xưa kể rằng:
“Giống dân Việt khởi nguồn từ khi Bà Tiên và Ông Rồng phối hợp
nhau, và Bà Tiên sinh ra một bọc chứa trăm người con.
Sau đó, Ông Rồng nói với Bà Tiên: ‘Ta là giống Rồng, nàng thuộc
dòng Tiên, nên nàng đem năm mươi con lên núi, ta đem năm mươi
con xuống biển. Khi cần thì gọi, ta về ngay.’
Từ đó, dòng giống Việt ngày một phát triển.”
Anh yêu, Tiên được coi như người sống trên núi, hiền từ, thanh
thoát, trẻ mãi không già và sống mãi không chết. Mình nghe nói
tới, nghe ca tụng thì nhiều, nhưng chưa ai gặp tiên bao giờ.
Giống Rồng cũng vậy. Rồng được coi là chủ tể biển cả, làm mưa
làm gió, thiên biến vạn hoá, nhưng cũng chưa ai gặp mà chỉ nghe
nói, thấy hình vẽ đủ loại đủ kiểu mà thôi.
Vậy mà nguồn gốc người Việt lại được truyền đi là do sự phối hợp
giữa một Bà Tiên và một Ông Rồng. Hỏi có trái khoáy không anh?
Mẹ Tiên càng lạ kỳ hơn nữa khi không sinh sản một cách bình
thường, mà cho ra đời một bọc có chứa trăm đứa trong đó. Mẹ là
chim hay cá mà sinh ra con người, nhiều tới cả trăm con? Rồi
cũng không biết tại sao một hôm Cha Rồng bỗng lý luận về nguồn
gốc của mình để đòi chia tay và chia con! Năm mươi theo Mẹ Tiên
về quê ngoại trên núi, năm mươi theo Cha Rồng xuống biển. Đã đòi
chia tay và chia con, Cha Rồng lại nói thêm, “khi cần thì
gọi, ta về ngay.” Tưởng rằng tình nghĩa đã dứt, lưu luyến
không còn, mà sao vẫn hẹn hò? Vậy thì chia làm gì anh nhỉ?
Nguồn gốc đã dị kỳ, tình tiết càng quái lạ hơn. Không lý tổ tiên
nêu… gương xấu, dạy vợ chồng con cháu đừng sống đời ở kiếp với
nhau? Chia tay và chia con, lại chia đồng đều! Lạ lùng hơn nữa
là những tình tiết kỳ dị đó đã không sửa đổi, mà còn được truyền
tụng hết đời này sang đời khác, phổ cập trong nhân gian trải hơn
năm sáu ngàn năm (không chỉ bốn ngàn năm đâu anh, dễ đến cả chục
ngàn năm hay hơn nữa đấy. Nhưng đây là công việc của các nhà
khảo cổ, ngôn ngữ, dân tộc học).
Bổn phận chúng ta là phải khám phá và khai quật gia tài quý báu
tiềm ẩn đã bị đóng bụi và vùi lấp bởi các văn hoá ngoại lại lâu
năm, để khỏi uổng công tiên tổ liên tục trao truyền mấy trăm đời
đến ngày nay.
Trước hết, Tiên và Rồng chỉ là hai biểu tượng. Khi nói tới tiên,
ta nghĩ ngay tới sự xinh đẹp dịu hiền, khả ái yêu thương tràn
đầy mà cũng thoát tục siêu phàm, như thần như thánh, trường sinh
bất tử, rất sống động mà cũng vượt không gian và thời gian. Cũng
vậy, rồng biểu trưng cho uy dũng vượt trội, biến hoá khôn lường,
như linh như hiển, khi thì trầm mình dưới đáy biển, lúc lại vùng
vẫy trên trời cao.
Như thế, con người là một hợp thể sinh động, một kết tinh hoàn
hảo của mọi đặc tính bộc lộ qua hai biểu tượng Tiên và Rồng: vừa
biến hoá vừa trường cửu, vừa vật thể vừa siêu phàm, trong thời
không và vượt thời không, vừa linh động vừa thường hằng, xinh
đẹp dịu hiền mà cũng hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý,
chan chứa yêu thương mà cũng uy lực vô song.
Khi tổ tiên nhận diện con người như đề cập, tức nói đến
tất cả mọi người, không trừ ai. Vả lại, truyền thuyết không có
sự tích nào phân biệt dân Việt với các giống dân khác. Tổ tiên
còn nhấn mạnh tới phần định lượng tỷ lệ các đặc tính đó. Năm
mươi theo mẹ, năm mươi theo cha, chính là xác quyết sự tương
đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc tính: năm mươi phần trăm
rồng, năm mươi phần trăm tiên. Đây là nhận thức nền tảng và toàn
vẹn nhất về thân phận con người. Khi nói tiên lên núi, rồng về
biển, chính là muốn chú trọng tới sự toàn vẹn của mỗi nhóm riêng
biệt. Tuy con người là một hợp thể tự tại, toàn nhất và bất khả
phân, nhưng không phải vì vậy mà những đặc tính của hai nhóm bị
“pha chế” hay biến đổi. Cha Rồng nhắc nhở Mẹ Tiên “khi cần
thì gọi, ta về ngay” để nói rằng trong thực tại cuộc sống,
có những lúc đặc tính của nhóm này bộc lộ rõ nét hơn nhóm kia và
ngược lại. Nhưng cần thì có mặt ngay. Nó chỉ ẩn náu mà vẫn hiện
hữu. Ta không thể vì sự thiếu vắng bên ngoài mà chối bỏ sự hiện
diện của nó.
Nhận thức về con người cần phải đầy đủ và trọn vẹn như thế đó
anh.
Ngoài việc đặt nền tảng cho nhận thức con người,
truyện này còn đặt căn bản cho tính xã hội nhân loại
nữa. Hình ảnh bọc trăm con biểu trưng cho một nhóm người
sinh sống quây quần và ảnh hưởng lẫn nhau, mà ta gọi là cộng
đồng hay xã hội. Như vậy, từ khởi đầu, không hề có con người đơn
độc mà có cả “trăm con người một lúc.” Nói cách khác, con người
là sinh vật có xã-hội-tính bẩm sinh, còn gọi là
xã-hội-tự-tính (LĐA). Hai đặc tính cá nhân và tập thể được
xác định song song nhau, biểu lộ tính chất đặc thù của văn hoá
Việt, làm nền tảng chỉ đạo cho nếp sống Việt suốt mấy ngàn năm
qua.
Với biểu tượng Tiên Rồng Song Hiệp và với hình ảnh Một
Bọc Trăm Con, văn hoá Việt xác quyết rằng mọi con người
trong xã hội “cùng một mẹ một cha” và được sinh ra
“cùng một lần.” Nền tảng này khác biệt rất nhiều so với các
nền văn hoá khác. Có những văn hoá đã phân chia xã hội thành
nhiều giai cấp và chủ trương quyền thống trị là đặc ân thiên phú
của một dòng họ, một gia tộc hay một giống dân. Ví dụ, văn hoá
Hy Lạp dành quyền ăn trên ngồi trốc cho một nhóm người tự coi
mình là con rơi của các vị thần loạn luân dâm đãng; văn hoá Ấn
Độ lại chủ trương con người sinh ra trong những giai cấp “di
truyền” và không thể vượt lên giai cấp cao hơn; dân Do Thái cho
rằng dòng giống họ được thượng đế đặc tuyển và phải tiêu diệt
các giống dân khác; chủ thuyết của Quốc Xã Đức lại khẳng định
giống Arya thuần chủng, có đặc quyền thống trị nhân loại! Trong
khi đó, biểu tượng trăm con cổ suý cho sự bình đẳng tột đỉnh.
Giữa họ, không có bất cứ một sự dị biệt nào, từ sức sống, truyền
chủng, không cả sự phân chia tuổi tác và khác biệt ngôi thứ giữa
anh em. Mọi người hoàn toàn bằng nhau và như nhau. Một sự
bình đẳng tột đỉnh tự căn cơ.
Ngoài ra, có xã hội nào thân thương cho bằng xã hội trong đó mọi
thành phần đều là anh chị em ruột thịt, do cùng một mẹ một cha
sinh ra? Trong biểu tượng một bọc trăm con, họ giống nhau như
đúc, giống nhau hoàn toàn về mọi phương diện. Giữa họ không có
dị biệt, nên không có gì xung khắc, hạn chế hay cản trở họ
thương nhau. Sự khắng khít giữa họ rất chan chứa, trọn vẹn và
đồng đều. Họ thương nhau tận tình. Anh thấy đấy, huyền sử cha
ông là vậy, mà nhìn vào tình trạng dân Việt hiện thời, ai không
quặn thắt ruột gan anh nhỉ.
Tuy thế, anh chị em ruột cũng khó có thể thương nhau đồng đều.
Anh chị thường chăm sóc cho em nhiều hơn là đứa em lo lắng cho
anh chị. Trong đời sống thực tế, không hề có những người được
sinh ra cùng lúc và hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, tình thương
trăm anh chị em một bọc vượt trên mọi kinh nghiệm yêu thương
thường tình của con người. Đây là hình ảnh của sự thân thương
tột cùng đó anh.
Ông cha ta sáng tạo một từ ngữ tuyệt vời, hai tiếng đồng bào.
Nhìn ở mặt triết học, khi dùng cho tầng dân tộc
trong nước, “đồng bào” luôn nói lên truyền thống cao quý của nền
văn hiến VN, coi mọi người đều là anh em một bọc rồng tiên. Ở
tầng nhân loại, đã là con người với những đặc tính
rồng tiên hiện diện thường hằng nơi mỗi người nêu trên, dù khác
giòng máu, tiếng nói hay màu da, ai cũng có thể coi nhau là
“đồng bào” được cả. Con người trong khối nhân loại kia đều
bình đẳng và thân thương tột cùng! Mãi đến thế kỷ 18, Pháp
và Mỹ mới đưa ra được những ý niệm này, anh nhớ không. Hơn thế
nữa, cũng mãi đến thế kỷ 20, trải qua bao thương đau và nước mắt
cộng với sự đấu tranh bền bỉ, các anh da đen mới “bằng” được các
anh da trắng, mà cũng chỉ “bằng” trên giấy tờ thôi, sau nhiều
năm mới hiện thực ra ngoài xã hội!. Ngược lại, văn hoá Việt từ
ngàn xưa đã xiển dương sự gắn bó thương yêu và bình đẳng, chứ
đâu ai đi cổ động cho đấu tranh giai cấp, hay cổ suý giai
cấp/giống dân này có đặc quyền trên giai cấp/giống dân khác!
Em xin mở thêm một ngoặc đơn, Trung Hoa (và thực dân Pháp sau
này nữa) vẫn thường vênh mặt rằng họ “khai hoá” các dân tộc man
di mọi rợ! Họ có biết đâu rằng cha ông họ sau khi chiến thắng
Bách Việt ở vùng núi Thái Sơn phía Bắc nước Tàu (anh còn nhớ câu
Công cha như núi Thái Sơn không? Gốc cũ mình đấy!), đã
thâu tóm toàn bộ nền văn minh Bách Việt làm của riêng, từ ông
Bành Tổ, bà Nữ Oa chống trời đạp đất, cho chí đến các vị thánh
vương rất nhân bản Việt tộc, Nghiêu, Thuấn và Thần Nông! Họ
“nhái” văn hóa Việt mà cũng không xong, chỉ được một phần tư, vì
vật tổ (totem) của họ là Lân, đầu rồng mình ngựa - gốc du mục mà
- chứ đâu có đủ bộ tiên rồng, âm dương dịch học Việt tộc đâu!
Tất nhiên, những nghi vấn lịch sử đó được đặt trong tinh thần
cẩn trọng dè dặt, và đây là công việc dài hơi, cần sự đóng góp
rất nhiều của các nhà khảo cổ, nhân chủng, ngôn ngữ, xã hội học
nhằm tìm tòi đóng góp làm sáng tỏ vấn đề. Từ hậu bán thế kỷ 20,
các nhà khảo cổ đã chứng minh rằng nền văn minh vùng Á Châu khởi
đi từ Bắc VN hay Nam Trung Hoa, lan tỏa ngược lên hướng Bắc,
thay vì Trung Hoa luôn cố khẳng định và dấu biệt chứng tích từ
mấy ngàn năm nay rằng văn minh Trung Hoa “khai hoá” các giống
dân man di phương Nam!
Anh có thấy hãnh diện về những điều lạ lùng mà bình thường của
văn hoá Việt tộc hay không? Có đấu tranh thì hãy đấu tranh cho
“bình đẳng tột đỉnh” giữa các dân tộc với nhau, và có muốn đại
đồng thế giới cũng hãy đại đồng trong tinh thần “yêu thương tột
cùng” như thế! Dân Việt đâu cần phải “lập” triết như Tây phương,
bởi cuộc sống họ đã bàng bạc và vì họ “sống” triết mỗi ngày rồi.
Cần thiết chi để tập-đại-thành triết thuyết nữa anh nhỉ.
Chàng ơi, nếu để tâm nghiên cứu, chúng ta thấy rằng thời kỳ nào
quốc dân Việt theo đúng nguyên lý tiên rồng song hiệp,
thời kỳ đó con dân Việt được hạnh phúc nhất và đất nước cũng
thịnh vượng hùng cường nhất. Ở những giai đoạn ấy, mọi khía cạnh
của cuộc sống con người, từ cá nhân đến gia đình, làng xóm, dân
nước, qua chính trị, kinh tế, xã hội, đến tôn giáo, quân sự…
nguyên tắc ấy luôn được áp dụng triệt để. Nhờ đó, văn hoá Việt
luôn dung hợp thành công những yếu tố nhiều khi như đối nghịch
hẳn nhau.
Trong phạm vi cá nhân, mỗi người đã cố gắng sống trọn vẹn con
người rồng tiên, tức vừa thể chất vừa tinh thần, vừa tình vừa
lý, vừa trí vừa nhân, dũng cảm mà hiền hoà, cho hiện tại mà cũng
cho tương lai, cá nhân mà tập thể, năm mươi của mẹ năm mươi của
cha, song hiệp hoàn chỉnh, hai bên cân bằng.
Gia đình là nền tảng sống thực và phát triển toàn diện cuộc sống
con người, mà cũng vừa là đơn vị cấu thành dân nước. Trong gia
đình, vợ chồng đối với nhau vừa tình vừa nghĩa, yêu thương mà
kính trọng, vừa thể xác vừa tinh thần, năm mươi tiên năm mươi
rồng. Vợ chồng luôn bình đẳng với nhau, không có cảnh chồng chúa
vợ tôi như văn hoá Hán. Họ luôn giữ tiêu chuẩn thuận vợ thuận
chồng. Thích con trai mà cũng thương con gái, vô nam dụng nữ. Có
vợ chồng mà cũng có thân tộc. Gia đình mà cũng là làng nước.
Có lẽ không nơi nào tôn trọng phụ nữ như ở VN, tất nhiên là
trước khi bị ảnh hưởng bởi quan niệm trọng nam khinh nữ của Hán
tộc, từ luật pháp đến xã hội. Phụ nữ về nhà chồng được coi như
mang trọng trách gánh vác giang san nhà chồng. Rất nhiều
ông chồng/gia đình chồng nở mày nở mặt là do những người vợ/dâu
đảm đang này. Chính vì nữ giới được tôn trọng và bình đẳng với
nam giới mà từ ngàn xưa, các cuộc kháng chiến chống xăm lăng
phương Bắc có sự đóng góp và lãnh đạo bởi rất nhiều liễu yếu đào
tơ anh thư dân tộc. Trên văn đàn cũng đầy những tên tuổi lẫy
lừng nhi nữ. Ngày nay cũng thế, họ đâu thua kém chí khí nam nhi
các anh đâu. Các anh phải cố ga-lăng và cưng chiều vợ cho nhiều
vào đấy nhé (đừng để bọn em bảo chỉ… Tây mới biết ga-lăng, mất
mặt bầu cua lắm!).
Xã hội ta có tôn ti trên dưới mà không có thống trị.
Nay là dân, mai là quan, mốt có thể lại là dân (Nguyễn Công
Trứ). Khác biệt mà không ngăn cách. Có giàu nghèo mà không có
chế độ nô lệ. Vừa pháp lý vừa tình nghĩa. Có ta mà cũng có
người. Là nhà mà cũng là nước.
Về mặt chính trị, với thể chế đặc thù cả làng lẫn nước, nên vừa
có quan lại mà cũng có dân chủ (phép vua thua lệ làng). Chăn dắt
dân mà cũng tuỳ thuộc dân. Có lãnh đạo mà không có thống trị. Có
triều đại mà không có giai cấp đặc quyền. Mưu lược trong đạo lý.
Có uy nước mà cũng có tình dân. Có tài phải bao gồm cả đức.
Trên khía cạnh kinh tế, ông cha ta theo chế độ tĩnh điền, tức
rút thăm chia đất định kỳ tám ô bên ngoài, như hình cột lạt trên
bánh chưng đó anh, ô ở giữa mọi người làm chung để đóng thuế lo
việc công, nên cũng có thể gọi là kinh tế bình sản. Vì
vậy anh em mình mới nghe rằng không ai giầu ba họ, không ai
khó ba đời đấy. Kinh tế bình sản không dựa trên đấu tranh
hay áp đặt, không phải mạnh được yếu thua, hay chỉ duy lợi như
Tây phương, mà trên sự cộng tác tương thân tương ái và có cơ chế
thích đáng hẳn hòi. Ngoài ra, cha ông ta giữ tinh thần cần kiệm
mà cũng rất thảnh thơi. Không chịu thiếu mà cũng chẳng chịu
thừa. Có gạo trắng cũng phải có trăng thanh, anh thấy không?
Về mặt quốc phòng và quân sự, giữ nước là việc của toàn dân, nên
làng xã vừa là đơn vị xã hội, kinh tế, vừa là đơn vị chiến đấu.
Nó là luỹ tre làng mà cũng là thành trì chống giặc. Bảo vệ làng
mà cũng bảo toàn nước. Đang là dân mà cũng là quân (Trần Hưng
Đạo). Vừa võ vừa văn. Chiến tranh du kích mà cũng là diện địa.
Uy lực mà mưu lược. Giệt giặc mà cũng lo cứu người.
Trong cuộc sống thiêng liêng, tổ tiên ta sống đạo người mà cũng
giữ đạo trời. Trọng nghi lễ nhưng cũng cổ suý đạo tại tâm. Cho
hiện tại mà cũng cho quá khứ vị lai. Cõi dương sao thì âm vậy.
Sẵn sàng đón nhận chân lý các tôn giáo mà cũng quyết liệt gạt bỏ
mê tín dị đoan. Lấy nếp sống truyền thống làm tiêu chuẩn hoà hợp
tinh hoa các tôn giáo khác nhau.
Chàng ơi, nguyên tắc Tiên Rồng Song Hiệp và hình ảnh
Một Bọc Trăm Con chính là biểu tượng của Con Người,
cho dân tộc cũng như toàn thể nhân loại nói chung. Nhìn ở khía
cạnh triết học, đã mặc lấy thân phận con người, không phân biệt
tiếng nói hay màu da, ở đâu và ai cũng có đầy đủ đặc tính của cả
tiên lẫn rồng. Anh có thấy quan niệm cha ông mình mang tính phổ
quát và nhân bản hơn lý tưởng xã hội cộng sản nguyên thủy của
Các Mác, hoặc chế độ chủ-nô của các nền văn hoá khác không? Điều
này xác định rõ rằng, trong con người luôn có sự hiện diện của
cả tâm lẫn vật, và chúng tác động thường hằng lẫn nhau, vượt
trên cả thời-không mà mấy ngàn năm sau Tây phương mới lò dò đi
tìm, mỗi phe cũng chỉ tìm được một góc phiến diện đời sống nhân
gian, hoặc Duy Tâm, Duy Vật, hay chỉ Duy Sinh mà thôi. Đã vậy,
còn gây ra cuộc chiến khốc liệt trên thế giới trong thế kỷ vừa
qua, mà đất nước và con dân Việt lại là nơi chất chứa và chịu
đựng những hận thù dai dẳng, đau thương nhân loại giáng xuống,
hậu quả của sự khác biệt và đối chọi tư tưởng bất toàn, tranh
thắng nhau đó.
Chàng ơi, có nhận ra những điều thiếp nói, con dân Việt mới dũng
cảm rũ bỏ trang sử đen tối vừa qua, vượt lên chính mình và hoàn
cảnh - ý nghĩa của chữ Việt đấy - mà tìm về thương yêu nhau, mới
mong tạo được hạnh phúc tròn đầy và xây dựng đất nước quang vinh
sau này. Đây là cuộc chuyển hoá tâm thức dân tộc lớn lao, một
dân tộc hiền hoà nhưng cương quyết, sừng sững an nhiên tự tại
đứng lên từ đổ nát và hận thù ngút ngàn của nhân loại, với tràn
đầy tình nghĩa anh em, bốn bể. Đây mới đích thực là lương tâm
thời đại, là xu hướng thế giới, là cách mạng dân tộc, là khơi mở
nguồn mạch từ ngàn xưa bị vùi lấp bấy lâu nay.
Chàng ạ, chỉ “tư tưởng Việt” mới thoả mãn nỗi khát
khao tìm tòi trong em, và cũng chỉ những chàng trai Việt tộc mới
đủ dũng khí hiên ngang làm lòng em xao xuyến (đừng nở mũi sảng
nhé). Dù sao em cũng là… gái Hai Bà chứ bộ, không dễ gì lọt vào
mắt xanh tụi em đâu! Tình trạng chim… đa đa với chồng gần chồng
xa gì đó của các thôn nữ tại VN hiện nay chỉ là do… khách quan,
cơ chế và lịch sử thôi anh ạ! Đau thương lắm, em khóc hoài đấy.
Không phải là các tráng sĩ mang tâm thức và chính khí Việt thì
đừng hòng, có mà bám váy (?) bọn em còn chưa xong, nói gì đến
đòi làm chồng!
Thiếp xin lỗi chàng, lúc đầu có đùa cợt cho vui, nhưng quả thực
chàng của em rất thông minh, lắm khi “đột xuất” những lần em bí
lù. Vậy thì với bản chất thông minh mà nhân hậu, thiếp tin rằng
chàng dư sức “ngộ” ra những điều em vừa kể. Ngộ rồi hãy khuyến
khích và giúp các bạn khác cũng ngộ được bài học của tổ tiên nữa
nha anh.
Thiếp thương và nhớ chàng ghê lắm. Hôn chàng.K
Lý-Trần Anh Thư
(Viết và phỏng theo Kinh Việt, Nam Thiên, Hoa Tiên Rồng
phổ biến)
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|